Thiền Trong Kinh Điển Pali
Thiện Quả Đào Văn Bình
Vào ngày 9/11/2025, tại Tu Viện Huyền Không, San Jose, tôi đã tham dự buổi ra mắt rất đồ sộ của Dự Án Phật Học Tinh Hoa Thế Giới do thầy Thích Pháp Cẩn trụ trì Chùa Phổ Giác (Marina, California) giới thiệu. Nhân dịp này thầy đã ký tặng tôi cuốn Thiền Trong Kinh Điển Pali do một nhóm dịch thuật.
Đây là cuốn sách do Ni Sư Tiến Sĩ Sarah Shaw hiện đang giảng dạy tại Đại Học Oxford (Anh Quốc) trước tác từ nghiên cứu kinh tạng Pali và được giới thiệu như là, “Đây là cuốn sách tổng hợp đầu tiên giới thiệu cho người đọc về sự đa dạng của giáo huấn về Thiền trong kinh điển Pali. Điều đó chứng tỏ rằng truyền thống Thiền của Đức Phật vẫn mở ra một con đường hành Thiền bí ẩn, nhưng đầy cảm hứng nhưng vẫn dễ tiếp cận như bản chất Thiền vốn có từ nhiều thế kỷ trước đây và thu hút sự quan tâm từ các thiền sinh, học giả, và cả những người tu hành theo đạo Phật.”
Sách dày 435 trang ấn loát rất mỹ thuật do Tri Thức trong nước xuất bản, bao gồm 12 chương và phần mở đầu, kết luận. Các dịch giả đều đã tốt nghiệp Cử Nhân Phật Học ở trong nước, một số đang theo học ban Cao Học (Thạc Sĩ) hay Tiến Sĩ ở ngoại quốc.
Phần Mở Đầu (bản dịch của Cô Minh Châu)
Trong phần mở đầu, tác giả (Sarah Shaw) nói rằng, “Một số người thực hành Thiền Phật Giáo Theravada ở phương Tây rất ngạc nhiên khi thấy có rất ít tài liệu để đọc về đề tài này…” Và tác giả nói, giống hệt như các tổ thiền sư Trung Hoa đã nói, “ Hơn bốn mười năm hoằng pháp độ sanh, với lòng từ bi rộng lớn, Ngài đã đưa ra pháp hành trực chỉ, thực tiễn và từ bi để hướng dẫn cho những người hữu duyên. Đôi khi việc ứng dụng hành trì này đã bị lãng quên trong các nghiên cứu khi tách ra, chỉ tập trung vào các tư tưởng chính yếu trong việc bàn luận về triết học và trao đổi học thuật”.
Đúng vậy ! Như chư Tổ đã nói, vái lạy Phật, ca ngợi Phật thì ngàn đời vẫn là chúng sinh. Biết kinh điển rồi thì dẹp bỏ nó đi và hãy “Trực chỉ nhân tâm kiến tánh để thành Phật”. Bàn luận, phân tích cũng tốt nhưng không thể thành Phật, mà phải hành trì (làm theo và giữ gìn).
* * * * *
Chương 1 (bản dịch của Sư Cô Vỹ Nghiêm)
Chương có các đề mục :
1.- Thiền là gì ?
Trong mục này, tác giả nói rằng không có gì nói hơn được về Thiền là hình ảnh một Đức Phật ngồi kiết già tĩnh tọa trong tư thế hoa sen. Theo tác giả,”Trọng tâm của giáo lý Thiền, sau này được hình thành trong nguyên lý Trung Đạo nằm ở một giả định rất thông thường: Chính tâm trí thoải mái và bình an thì sẽ dễ dàng đạt được trí tuệ hơn là một tâm trí căng thẳng…” Chữ Thiền mà Tây Phương dịch là ” meditation” nhưng trong tiếng Pali không có từ đối nghĩa rõ ràng. Và, “Đức Phật dạy Thiền không khuyến khích mọi người lãng quên cuộc sống thế tục hoặc tự cô lập chính mình như chúng ta thường nghĩ mà là sự thực tập chánh niệm liên tục, ý thức và đem chánh niệm vào trong mọi sinh hoạt hằng ngày nhiều hơn.”
2.- Về hai bộ luận Thanh Tịnh Đạo và Giải Thoát Đạo
Trong mục này tác giả nói về Ngài Phật Âm (Buddaghosa) - một đại luận sư về Thiền (Thế Kỷ Thứ Năm Tây Lịch), là một học giả, nhà văn vĩ đại sống ở Tích Lan đã để lại bộ chú giải Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) là phương tiện chính mà các giáo lý Thiền từ thời Đức Phật được phổ biến một cách thực tiễn và có thể tiếp cận (thực hành) được. Mặc dù những chú giải này không nằm trong kinh Phật nhưng chúng đã xuất hiện trong truyền thống như một sản phẩm của nhiều năm thực hành và trải nghiệm Thiền.
Một tác phẩm về Thiền rất quan trọng nữa đó là bộ luận Giải Thoát Đạo (Vimuttimagga) của ngài Ưu-ba-đế-sa (Upatissa) - một nhân vật bí ẩn, không biết ngài sống ở đâu, thời gian nào và cũng không biết đã viết bằng ngôn ngữ nào và được biết tới qua các bản dịch sang tiếng Trung Hoa và Pali mà Tây Phương gọi là The Path of Freedom.
3.- Phân Loại Các Đối Tượng Thiền
Theo tác giả, “…danh sách các đề mục Thiền được dùng cho đến ngày nay ở tất cả các quốc gia Phật Giáo Nam Truyền gồm có: Mười Biến Xứ, Mười Pháp Môn Quán Bất Tịnh, Mười Pháp Tùy Niệm, Bốn Phạm Trú, Bốn Tâm Vô Lượng, Bốn Thiền Vô Sắc, Quán Vật Thực Bất Tịnh, Quán Tứ Đại (có một bài kinh nói Năm Đại chứ không phải Tứ Đại).
4.- Những Căn Tánh Khác Nhau
Qua lời dạy của Đức Phật thì, “Con người được chia thành các căn tánh khác nhau…một số phương pháp thực hành Thiền phù hợp với một số hành giả này, đôi khi không phù hợp với một số người khác.
5.- Thân cận với minh sư hoặc thiện tri thức
Ngài Upatissa nói rằng, một người đi đường mà không có người hướng dẫn giống như người đi một mình trên hành trình vạn lý. Đức Phật cũng thường đến thăm những hành giả đang gặp khó khăn như giúp Ngài Mục Kiền Liên nhiều phương pháp khác nhau để vượt qua chứng hôn trầm thụy miên (buồn ngủ). Tác giả cũng nhắc lại kinh luật chống lại việc lạm dụng vị trí của thầy, cấm bất kỳ nhà sư nào lấy tiền cho bất cứ hành động nào.
6.- Cư Sĩ Và Sự Thực Hành Thiền
“Lời đầu tiên cần phải nói là Đức Phật đã xem đời sống xuất gia là cách tốt nhất để thực hành Thiền, trong các kinh văn, hành giả là một tu sĩ. Sự thực hành của đời sống cư sĩ, theo truyền thống phải liên quan đến việc giữ giới luật, bố thí, quan tâm chăm sóc gia đình và bạn bè và tìm thấy chánh niệm, vui thích trong công việc kinh doanh hằng ngày.”
Chương 2 (bản dịch của Sư Cô Vỹ Nghiêm)
Chương này nói về Những Bài Kinh Giới Thiệu Về Thiền gồm có các thi kệ của trưởng lão Citttaka, trưởng lão Sirivaddha, rồi tuyển tập Itvuttaka gồm 112 bài kinh ngắn của Đức Phật sưu tập bởi bà Khujjuttara - hoàng hậu của Vua Udena sau khi gặp Đức Phật đã trở thành một vị thánh nhập lưu, rồi Kinh Độc Cư, rồi 423 bài kệ trong Kinh Pháp Cú, rồi những bài kệ trong Phẩm Tỳ Kheo với những câu như sau :
Tỳ kheo hãy tu Thiền.
Chớ buông lung phóng dật.
Không trí tuệ không Thiền.
Không Thiền không trí tuệ.
Chương này còn nói về năm điều kiện để bắt đầu bước vào Thiền mà Đức Phật quy định là phải chín muồi, cái gì là chưa chín muồi, phát tâm trưởng thành, một người bạn tốt và giữ gìn giới luật. Rồi tác giả còn trích dẫn các Kinh Meghiya rất dài, Kinh Thiện Tri Thức, Ví Dụ Mặt Trời, bài kệ Mahanaga, Bảy Phẩm Chất Của Một Người Bạn Tốt, Tâm Thức - trong đó điều cốt yếu của Phật Giáo Theravada là hiểu biết bản chất trong sáng của tâm, Phẩm Búng Ngón Tay, Sự Nhu Nhuyễn Của Thân Và Tâm, Sáu Sự Tương Ứng, Căn Cơ Khác Nhau cho thấy sự đa dạng của các phương thức tu tập trong truyền thống Phật Giáo (được chư Tổ mô tả như có tám vạn, bốn ngàn pháp môn), rồi Kinh Thiền Hành Lên Xuống, Hai Vị Chúa Tể Voi, Kinh Cơn Bão Của Dạ Xoa,
Chương 3 (bản dịch của Tỳ Kheo Hải Tạng)
Chương này nói về Năm Chướng Ngại Khi Hành Thiền (Ngũ Triền Cái) gồm có: Tham ái, sân hận, hôn trầm, trạo cử- hối quá và hoài nghi.
Chương 4 (bản dịch của Sư Cô Liên Phát)
Chương này trích một đoạn trong Trường Bộ Kinh, đưa vào đây coi như toàn diện nhất về chủ đề Thiền Định, đó là Kinh Sa Môn Quả. Trong chương này có các mục :
1.- Duyên Khởi nói về giai thoại vua A Xà Thế (Ajatasattu) nghe lời Đề Bà Đạt Đa (Devadatta) giết cha là vua Tần Bà Sa La (Bimibisara) để cướp ngôi…đã tới bệ kiến Phật như thế nào. Phần tiếp theo của bài kinh là những bác bỏ của Phật đối với sáu học thuyết đại diện cho tư tưởng đương thời như không có nghiệp báo, không có công đức nào từ việc bày tỏ lòng kính trọng đối với bậc đạo sư, hoặc thực hiện một nghi lễ nào đó sẽ mang lại giác ngộ.
2.- Trong Quả Vị Sa Môn, Đức Phật khẳng định rằng “Vương quốc của sa môn là một thứ bậc cao hơn (vua). “ Tác giả dẫn chứng, vua Thái Lan khi tới viếng một ngôi chùa, phải cởi bỏ vương phục, mặc áo trắng như các cư sĩ khác để bày tỏ lòng kính trọng đối với các tỳ kheo.
3.- Chướng Ngại Khi Hành Thiền: Như bị nợ nần, đau ốm, bị giam cầm, làm nô lệ và bị lạc trong một vùng hoang vu.
4.- Các Tầng Thiền: Tầng thiền thứ nhất ví như tòa thành tích chứa cỏ, củi và nước. Tầng thiền thứ hai ví như tòa thành tích chứa nhiều lúa và ngô. Tầng thiền thứ ba ví như tòa thành được tích chứa nhiều đậu mè và ngũ cốc. Tầng thiền thứ tư ví như tòa thành được tích chứa nhiều mật ong, dầu, đường và muối.
Tại tầng thiền thứ tư, ở đây hành giả từ bỏ lạc và khổ, đi vào trạng thái niệm và xả, không khổ cũng không lạc.
5.- Thần Thông: Trong mục này tác giả nói rằng Đức Phật không khuyến khích việc dùng năng lực thần thông để phô trương, việc tu tập chỉ là một phương tiện giáo hóa .
6.- Kinh Sa Môn Quả: Trong mục này, tác giả trích dẫn một đoạn kinh mà Đức Phật dạy các tỳ kheo như sau, “Một vị tỳ kheo hành động với chánh niệm, tỉnh thức khi đi lui và đi tới, khi nhìn về phía trước hoặc phía sau, khi co và khi duỗi, khi mặc thượng y và hạ y, mang bát, khi ăn và uống, nhai và nuốt, đại tiện, tiểu tiện, lúc ngủ, lúc thức, khi nói chuyện và giữ im lặng. Như vậy là một vị tỳ kheo có chánh niệm tỉnh thức.”
Chương 5 : Kinh Trường Bộ (bản dịch của Sư Cô Nguyên Hiền)
Khởi đầu chương này tác giả nói rằng “Chánh niệm là phẩm chất của tâm trí minh mẫn, tỉnh giác và không còn vô minh. Khi áp dụng đúng cách, nó trở thành một chi phần của thánh đạo.” Đối với các hành giả, tác phẩm Trái Tim Thiền Định (The Hearth of Buddhist Meditation) của trưởng lão Nyanaponika là một tác phẩm kinh điển nhấn mạnh vào phương pháp Thiền Quán thông qua Tứ Niệm Xứ của Phật tử Miến Điện.
1.- Kinh Tứ Niệm Xứ: Tại kinh đô của xứ Kuru (Câu Lâu), Đức Phật đã dạy các tỳ kheo rằng, “Đây là con đường trực tiếp đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt qua sầu bi, diệt trừ khổ não, thành tựu thánh đạo, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Kinh Tứ Niệm Xứ.” bao gồm Quán Thân, Quán Thọ, Quán Tâm và Quán Pháp.
Chương 6 : Mười Đề Mục Thiền Định Kasina (bản dịch của Sư Cô Nguyên Hiền)
Tám kasina biến xứ đầu tiên là bốn đại bao gồm đất, nước, gió lửa và bốn màu xanh, vàng, trắng, đỏ. Hai biến xứ cuối cùng là hư không và sắc. Theo ngài Buddhaghosa (Phật Âm) thì “ Hai biến xứ không vô biến xứ và thức vô biên xứ phủ hợp hơn với hai tầng Thiền Vô Sắc đầu tiên.”
1.- Pháp Hành Được Đề Cập Trong Kinh Điển :
Trong mục này tác giả dẫn lời của ngài Phật Âm nói rằng, “Tướng thanh tịnh được phát triển bởi pháp hành (thực hành) kasina, được coi là đẹp , tịnh tướng.”
2.- Đối Tượng Ưa Thích : Trong mục này tác giả nói về cái nhìn tổng quát của Phật Giáo về vẻ đẹp thiên nhiên bao gồm phong cảnh đẹp và sắc đẹp của con người.
3.- Kinh Mahasakuluday: Kinh này Đức Phật nói cho Sakuludayi- một thành viên của nhóm du sĩ luôn hành trì đời sống chánh nghiệp, chánh ngữ và chánh mạng phù hợp với quan điểm của Phật Giáo ở một mức độ nhất định tức Bát Chánh Đạo.
4.- Tám Giải Thoát: Giải thoát ở đây là an lạc với đề mục thường là sắc đẹp của hình tướng (kasina).
5.- Tám Thắng Xứ, Thực Hành Biến Xứ,
6.- Trích từ Kinh Mahasakuludayi: Kinh này giúp hành giả vượt qua mọi sắc tướng.
7.- Năm Sự Thuần Thục (Vasiyo): Bao gồm sự Thuần Thục Về Hướng Tâm, Thuần Thục Về Nhập Định, Thuần Thục Về Quyết Định, Thuần Thục Về Xuất Thiền và Thuần Thục Về Quán Chiếu Lại.
Chương 7 : Mười Đề Mục Của Bất Tịnh (bản dịch của Sư Cô Hạnh Tâm)
Để bắt đầu thực hành thiền định được mô tả trong kinh điển, chúng ta cần tìm một thi thể đang ở trong giai đoạn phân hủy để hành giả không còn ôm ấp, chau chuốt cho xác thân này nhiều quá. Trong chương này có các mục như sau:
1.- Tính nhiễm ô
2.- Điền chủ Kulla nhìn thấy xác của một phụ nữ vị vứt bỏ trong rừng, thân thể bị côn trùng bám đầy.
3.- Bất Trắc : Trong mục này nói về phương pháp thực hành thiền không thích hợp khi không có một người thầy hướng dẫn. Và việc quán chiếu hơi thở chánh niệm là phương thức giải độc hiệu quả.
4.- Thành Vesali; Tại đây Đức Phật đã nói với các tỳ kheo về chủ đề bất tịnh.
Chương 8 : Sáu Pháp Tùy Niệm (bản dịch của Sư Cô Diệu Vy)
Tùy niệm tiếng Phạn là Amussati là sự tưởng nhớ hay hồi ức mà bốn niệm đầu tiên bao gồm: Niệm hơi thở, niệm chết, niệm thân, niệm an tịnh. Chương này có các mục như sau:
1.- Mười Tùy Niệm : Bao gồm thêm niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thiên,
2.- Tam Bảo : Đối với một số người, quy y tam bảo giúp ổn định tâm trí trước khi thực hành Thiền.
3.- Tụng Kinh : Mặc dù cách tụng kinh khác nhau nhưng các quốc gia Đông Nam Á, tụng kinh coi như là hoạt động của đời sống tâm linh của đệ tử Phật.
4.- Iti pi sô: Bài tụng này được coi là có tác động đặc biệt sống động và tỉnh thức trong truyền thống Phật Giáo.
5.- Niệm Ân Đức Tam Bảo: Việc niệm ân đức Phật-Pháp-Tăng vẫn được xem là phương tiện để hành giả đạt được chánh niệm, tỉnh giác.
6.- Niệm Ân Đức Phật
7.- Hành Trì Của Trưởng Lão: Vị trưởng lão này đã viết lên một bài kệ sùng kính phẩm chất cao quý của Đức Phật khi ông đã 120 tuổi. Ông đã chứng quả vị A La Hán trước khi ông mất.
8. Niêm Pháp : Pháp (dhamma) có nghĩa là sự thật, bản chất của thực tại, dẫn dắt hành giả nhìn thấy mọi thứ như thế nào.
9.- Tránh Xa Niềm Tin Mù Quáng: Đức Thế Tôn dạy rằng, một người ở gần ta mà tâm ô nhiễm, bất thiện…thi vị ấy xa ta ngàn dặm. Còn vị nào ở xa ta ngàn dặm nhưng không chạy theo tham dục, không ô nhiễm, tâm thiện lành…thì người ấy đang ở cạnh ta và ta gần người ấy. Lời dạy này nghĩa giống hệt như lời dạy ngài Tu Bồ Đề trong Kinh Kim Cang, “Người nào dùng âm thanh, cầu ta, dùng sắc cầu ta… người ấy hành tà đạo và không thể thấy Như Lai.”
10.- Phẩm Rừng Núi: Một vị Trời đọc bài kệ trước mặt Thế Tôn như sau :
Không than việc đã qua.
Không mong việc sắp tới.
Sống ngay với hiện tại.
Do vậy sắc thù thắng.
Do mong việc sắp tới.
Do than việc đã qua.