Vu Lan Thắng Hội tại Từ Đàm

01 giờ30 chiều Chủ nhật, ngày 18 tháng 08 - 2024,

Xem tiếp...
<November 2024>
SunMonTueWedThuFriSat
272829303112
3456789
10111213141516
17181920212223
24252627282930
1234567
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Đây !! Những 'Đức Thánh Cha' Đại Diện Của Chúa Ki-Tô . . .
Tác giả: Giáo sư Trần Chung Ngọc

Đây !! Những 'Đức Thánh Cha' Đại Diện Của Chúa Ki-Tô Trên Trần và Là Chủ Chăn Của Giáo Hội Ca-Tô

“Thiên Khải, Duy Nhất, Thánh Thiện, Tông Truyền"

Sự Khác Biệt & Tình Trạng Ngày Nay

Trần Chung Ngọc  -  đăng ngày 20tháng 5, 2007

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN20.php

          Bài Viết Này Để Tặng

          [Mượn Lời Của Dr. Arthur Frederick Ide]

          - Những tín đồ Ca-tô Giáo Rô-ma thường đi xưng tội với các linh mục,

          - Những người cũng phạm tội như họ và tuân phục một Giáo Hoàng,

          - Người tự cho là không thể sai lầm, là nhất hạng, là tối cao,

          - Có quyền giữ trong tay Chìa khóa mở cửa thiên đường,

          - Nhưng lịch sử đã chứng tỏ,

          - Thực sự chỉ mở những cánh cửa vào nhục dục, trụy lạc, và bạo lực,

          - Dedicated To All Roman Catholics,

          - Who confess their sins to priests -Who do as they do, And

          - Who believe in a Pope,

          - Who claims to be infallible Primary, and supreme,

          - Having the power to the keys to the kingdom of heaven

          - Which hictory shows actually open the doors of sex, vice, and violence.

          By Dr. Arthur Frederick Ide

          In “Unzipped : The Popes Bare All”

          Vài Lời Nói Đầu :

          Lời đề tặng của Tiến sĩ Arthur Frederick Ide ở trên đúng hay sai?Hi vọng những tài liệu trong bài viết này sẽ cho chúng ta câu trả lời chính xác.Ngày nay, viết về lịch sử các giáo hoàng không phải là điều cấm kỵ, và cũng không phải là chuyện khó khăn, vì chúng ta có đầy đủ tài liệu từ sách vở và trên Internet.Bài viết này dựa trên một số tư liệu tiêu biểu chọn lọc ghi trong phần Tư Liệu Tham Khảo, ngoài những tài liệu trên Internet.

          Để loại bỏ những lời chụp mũ vu vơ là người viết bài này “chống Công giáo” hay “làm tay sai cho Cộng sản”, tôi xin quý độc giả ghi nhận một điểm, và tôi xin nhấn mạnh điểm này:Tất cả tài liệu dùng trong bài viết này là của những bậc lãnh đạo trong Công giáo như Peter de Rosa, Malachi Martin, Joseph McCabe, hay của các giáo sư đại học, học giả Ki Tô Giáo như Dr. Rappoport, Dr. Ide v..v...Không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay của Cộng Sản.Bài viết này chỉ có tính cách nghiên cứu lịch sử, những trang sử mà tôi nghĩ rằng trong thời đại ngày nay, các tín đồ Công Giáo Việt Nam cũng như những người ngoại đạo cần phải biết rõ về một tôn giáo chiếm 7% dân số Việt Nam, chứ tuyệt đối không nằm trong sự tranh chấp tôn giáo hay ý thức hệ.Trong thời đại ngày nay và trong chiều hướng đang đi lên của Việt Nam hội nhập vào cộng đồng thế giới tiến bộ, việc nghiên cứu lịch sử thế giới, nhất là về tôn giáo, để mở mang dân trí người dân là một việc cấp bách không thể thiếu sót.

          Lịch sử đơn thuần chỉ là những sự kiện trong dân gian được ghi lại như chúng là như vậy.Còn diễn giải lịch sử ra sao lại là một chuyện khác.

* * *

          Tín đồ Ca-Tô giáo Việt Nam gọi giáo hoàng của họ là “đức thánh cha”.Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ “đức” chỉ một bậc đạo cao đức trọng, thí dụ như Đức Phật, Đức Khổng Tử, Đức Đạt Lai Lạt Ma v..v…, và chữ “thánh” chỉ những cá nhân có tư cách xuất phàm đặc biệt hơn người thường.Người Ca Tô giáo đã lạm dụng cả hai từ “Đức” và “Thánh” và gọi giáo hoàng,giám mục và linh mục của họ là “Đức Thánh Cha”, “Đức giám mục” và “Đức cha” tuy rằng trong số này không thiếu gì những người vô đạo đức, phạm đủ mọi tội ác, và có cả những Việt gian như Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Hoàng Quỳnh v..v.. Vậy trước hết chúng ta hãy tìm hiểu từ “thánh” trong Ca Tô giáo Rô-ma (Roman Catholicism), rồi xét qua lịch sử một số “Đức Thánh Cha” và từ đó sẽ thấy những cái “đức” và chức “thánh” của Ca Tô Giáo Rô-ma có khớp hay không ?

          Quan niệm “thánh” của các tín đồ Ca Tô Việt Nam thật không ai có thể hiểu nổi. Theo giáo hội dạy thì một đứa con nít mới sinh ra được một tuần, bị bố mẹ vác đi “rửa cái tội không hề có” [theo Giám mục John Shelby Spong] của nó là đứa bé đương nhiên ở trong “hội thánh” rồi. Các giáo hội Ki Tô Giáo tự nhận là các “hội thánh” tuy rằng trên thực tế đều là các “hội phàm”, rất phàm, phàm hơn cả phàm tục, xét đến lịch sử, cấu trúc, và những hoạt động rất thế tục của chính các giáo hội và những bậc lãnh đạo trong giáo hội. Một giáo hội đã phạm 7 núi tội ác đối với nhân loại mà số nạn nhân lên tới trên dưới 200 triệu như giáo hội Ca Tô Rô-ma, đến nỗi ngày 12 tháng 3 năm 2000, tại “thánh đường” Phê-rô ở Vatican, Giáo hoàng John Paul II cùng với 5 hồng y và 2 tổng giám mục, đã phải công khai cáo thú 7 núi tội ác cùng thế giới,thì khó có thể quan niệm đó là một “hội thánh”, thánh theo nghĩa người Việt Nam thường hiểu.

          Một quan niệm về “thánh” rất tức cười là của ông Nguyễn Kim Khanh, nguyên là thẩm phán ở Phan Thiết trước đây, một trí thức Ca Tô, lấy bút hiệu là Phan Thiết, viết trong cuốn Đất Việt.., trang 358:

          .. những ai giữ nghĩa cùng Chúa cho đến hơi thở cuối cùng (bất kể là trong đời đã làm những điều đồi bại đến đâu, độc ác đến đâu, ăn gian nói dối đến đâu v..v.. Trần Chung Ngọc) đều có quyền chia động từ “là thánh”: tôi là thánh, anh là thánh, chúng ta là thánh.. [Vậy thì chuyện Vatican “phong thánh” cho 117 Việt gian và cho cả ngàn “thánh” Công giáo khác là chuyện dư thừa, có phải không ?]

          Ông Phan Thiết viết như vậy có nghĩa là khi một tín đồ Ca Tô trí thức như Phan Thiết, sau khi “thở hắt ra hơi thở giữ nghĩa cùng Chúa cuối cùng”, thì có quyền nhỏm giậy như quỷ nhập tràng và lẩm bẩm chia động từ “tôi là thánh” và chia luôn cho các người khác: “anh là thánh”, “chúng ta là thánh”, bất kể “anh” là ai, và “chúng ta” là ai.Nhưng trên thế gian chẳng làm gì có động từ “là thánh”, vì “là” (to be) là một động từ, còn “thánh” là một tĩnh từ (holy) hoặc danh từ (saint).  Đầu óc những người nghiện đạo nặng thật là không làm sao có thể diễn tả nổi. Cứ chia một véc-bờ là thành thánh thì đó chỉ có những người có đầu óc như Nguyễn Kim Khanh mới có thể quan niệm nổi.Nhưng vấn đề ở đây là ông ta viết mà không hiểu là mình viết cái gì.Hiển nhiên là Việt Nam có khá nhiều thánh thật như Thánh Gióng, Đức Thánh Trần, và cũng hiển nhiên các bậc Thánh này chẳng cần biết đến Chúa là ai, khoan kể là ở trên đời này chẳng làm gì có Chúa để mà giữ nghĩa, như nền học thuật về Ki Tô Giáo trong vòng 200 năm nay đã khẳng định.Thật vậy, sau khi duyệt qua những công cuộc khảo cứu về nhân vật Giê-su trong 2 thế kỷ nay, học giả Russell Shorto đã viết trong cuốn Sự Thật Trong Phúc Âm (Gospel Truth), trang 14, như sau :

          . . . Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng– họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư.Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.

          (Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger.So the only ones left in the dark are ordinary Christians.)

          Chúng ta nên để ý, đây là kết luận của hằng hà sa số những công cuộc nghiên cứu về con người Giê-su lịch sử trong vòng 200 năm nay, không liên quan gì đến đức tin của những người Ki Tô Giáo về một Giê-su mà họ gọi là Chúa. Nhưng Mục sư Ernie Bringas đã nhận định : ““Chúa” Giê-su chỉ có trong đầu óc khuyết tật (astrolabe mind) [nghĩa là đầu óc thuộc thế kỷ 17, có một điểm mù tôn giáo hay trí thức (a religious or intellectual blind spot)] của một số người.”Ngoài những nghiên cứu của các học giả, còn có những khám phá trong ngành khảo cổ, đã tìm thấy ở Jerusalem 9 cái tiểu quáchchứa xương cốt của Giê-su và gia đình trên có ghi tên đầy đủ, gồm có “Giê-su: Con của Joseph”; Mary [mẹ của Giê-su], Mary Magdalene [vợ của Giê-su], và Judah [Con trai của Giê-su] (Xin đọc tờ Time, số ngày 12 tháng 3, 2007, trang 56). Cuốn phim về sự khám phá này trong ngành khảo cổ, The Lost Tomb of Jesus, của đạo diễn James Cameron, đã được trình chiếu trên đài Discovery, Mỹ, tối chủ nhật 4 tháng 3, 2007.Khám phá này đã loại bỏ truyền thuyết Giê-su đã sống lại, bay lên trời, và sẽ trở lại phán xét nhân loại, căn bản đức tin trong Ki Tô Giáo.Nhưng trong phần bình luận sau cuốn phim, một ông linh mục đã khẳng định là “đức tin là về sự huyền bí, chứ không phải về khoa học” [Faith deals with mystery and not science]. Tuyệt đại đa số các tín đồ Ca Tô không bao giờ biết đến nền học thuật về Ki Tô Giáo trong 200 năm gần đây.Giáo hội thường dấu kín những khám phá “động trời” về Ki Tô Giáo, và nếu không còn dấu kín được thì hầu hết những khám phá khoa học trái với niềm tin trong Ki Tô Giáo đều bị các giáo hội Ki Tô bác bỏ và bắt các tín đồ phải tin vào những lời giải thích quanh co thiếu cơ sở của các “bề trên” như ông linh mục trên.

          Ông Phan Thiết không giải thích thế nào là “giữ nghĩa cùng Chúa”.Theo tôi hiểu thì chữ “nghĩa” ở trên là cái “nghĩa” của tôi tớ đối với chủ, vì các tín đồ Ki Tô Giáo thường hãnh diện tự nhận là những “tôi tớ hầu việc Chúa” trong tâm cảnh “phúc cho những kẻ không thấy mà tin”.Ngoài những “thánh” tôi tớ như trên, theo định nghĩa của Phan Thiết, còn có những thánh đặc biệt phải được “tòa thánh”, hay là, theo nhận định của Hồng y Silvio Oddi,cái “Xưởng sản xuất thánh” (saint factory), gồm một tập đoàn những người rất thế tục, chưa là thánh, phong thánh thì mới được gọi là “thánh”. Bởi vậy, không có tôn giáo nào có nhiều và đủ các loại thánh như Ca Tô giáo Rô-ma.Nghiên cứu về các “thánh” trong Ca Tô giáo Rô-ma, chúng ta có cảm tưởng đi vào một mê hồn trận, vì nếu đầu óc không tỉnh táo thì có thể tẩu hỏa nhập ma, không biết từ “thánh” có ý nghĩa gì.

          Thật vậy, trước hết, trong Thánh Kinh cũng có đầy thánh, có nhiều thánh chẳng ai biết gốc tích ra sao, ví dụ như các thánh viết bốn phúc âm Matthew, Mark, Luke và John.Để độc giả có một ý niệm về thế nào là thánh trong Ca Tô giáo, trước hết tôi xin kể sơ lược về vài thánh trong thánh kinh.

          Abraham, thánh tổ phụ của các đạo Chúa, lấy em ruột làm vợ rồi dâng vợ cho các vua Ai Cập Pharaoh và Abimelech để đổi lấy trâu bò đồng ruộng, rồi lại ra tay định giết đứa con ruột của mình là Issac (Sáng Thế 20, 21) ; thánh Lot, dâng hai đứa con gái còn trinh cho bọn cướp muốn làm gì thì làm (bọn cướp từ chối), sau lại ngủ với cả hai đứa con gái ruột của mình làm cho cả hai đều mang thai (Sáng Thế 19) ;thánh Moses, sản phẩm của một cuộc loạn luân (Exodus 6: bố của Moses lấy cô ruột sinh ra Moses và Aaron), nghe lệnh Chúa, giết người không gớm tay, cùng ra lệnh cho quân dưới trướng phải giết sạch đàn ông, đàn bà và con nít trong một thị trấn, chỉ để lại gái trinh và dâng cho Chúa một phần là 32 trinh nữ (Numbers 31) ; thánh David đã có nhiều vợ nhưng còn cướp vợ của Uriah là Bethsheba bằng cách gửi Uriah ra tiền tuyến kèm theo mật lệnh cho vị chỉ huy tiền tuyến là Joab phải làm sao để Uriah không được sống sót (2 Samuel 11: 24,26,27) ; và ngay cả Chúa Giê-su, Chúa của các thánh,cũng là người hỗn hào với cha mẹ (Luke 2: 48-50, John 2: 1-4), xấc láo gọi người đàn bà không phải dân Do Thái là chó (Matthew 15: 21-28), tàn nhẫn ác độc bắt 2000 con heo vô tội đâm đầu xuống sông chết đuối (Matthew 8: 28-34), nguyền rủa cây sung cho nó chết héo chỉ vì nó không ra quả khi trái mùa (Matthew 21: 18-21) v..v.. như đã được viết rõ trong Tân ước. Đó là tên một số thánh quen thuộc, còn biết bao thánh khác trong thánh kinh cũng như ở ngoài đời lòng dạ độc ác, hành động bạo tàn, phi luân v..v.., đếm thật không xuể.

          Ở ngoài đời thì cứ lên làm giáo hoàng, bất kể là lên như thế nào, là tự động thành “đức thánh cha”, chưa kể nhiều tội đồ của nhiều dân tộc khác cũng trở thành thánh Ca Tô qua cái “xưởng sản xuất thánh: Vatican” (Hồng y Silvio Oddi: Vatican has become a saint factory). Người ta đã ước tính là trong Ca Tô giáo có cả đến vài ngàn thánh và á thánh.Lẽ dĩ nhiên trong số này có 117 Việt Gian, một số Hán gian, Nhật gian và đủ mọi quốc tịch gian.Vì vậy không có cách nào có thể biết rõ về các thánh này. Chúng ta chỉ có thể kết luận, các thánh Ca Tô giáo là những sản phẩm hữu danh vô thực của một cái xưởng sản xuất thánh : Vatican, đúng như Hồng Y Silvio Oddi đã nhận định, mà mục đích “phong thánh” của giáo hội là để giam đám tín đồ thấp kém ở trong vòng mê tín dị đoan vào những vai trò, phép lạ, thường là ngụy tạo, của các “thánh” Ca Tô giáo trong khi tuyệt đại đa số tín đồ không đủ trình độ để hiểu thế nào là “thánh”. Nhận định của Hồng Y Silvio Oddi chắc chắn không phải là một lời khen tặng mà hàm ý các thánh sản xuất bừa bãi từ cái xưởng Vatican này đều thuộc loại tạp nham, không có mấy giá trị.Trong bài này tôi xin tự hạn viết về một loại thánh đặc biệt trong Ca Tô giáo, những người mà các tín đồ Ca Tô giáo Việt Nam gọi là “Đức Thánh Cha”, để cho chúng ta và các tín đồ Ca Tô giáo hiểu thêm về những người mà họ coi là “thánh” và từ đó hiểu rõ từ “thánh” trong Ca Tô giáo có ý nghĩa gì..

          Tín đồ Ca Tô giáo ở Việt Nam gọi giáo hoàng của họ là “đức thánh cha”, tin rằng giáo hoàng đương nhiên phải là bậc thánh thiện (holy), vì giáo hội dạy rằng, giáo hoàng được chọn là do kết quả hướng dẫn của thánh linh cho các hồng y, những người có quyền chọn lựa, quyết định ai là giáo hoàng. Vả chăng Giáo hội cũng bắt các tín đồ Ca Tô giáo nói chung, Ca Tô giáo Việt Nam nói riêng, phải tin rằng giáo hoàng là “đại diện của Chúa” (Vicar of Christ) trên trần, nắm trong tay chìa khóa của thiên đường (mù), có quyền cho họ lên thiên đường hay tuyệt thông họ.Tất cả những niềm tin này đều do các “bề trên” của họ cấy vào đầu óc từ khi còn nhỏ.

          Tại sao họ có thể tin vào những điều lừa dối rấttrắng trợn này.Trách nhiệm chính là do các “bề trên” của họ, những người đã nhốt họ vào vòng mê tín qua một chính sách nhồi sọ tinh vi để dễ bề ngự trị trên họ.Có thể nói rằng, các tín đồ tin là vì trong đầu óc họ hầu như có một cái “gen” để tin vào bất cứ điều gì, và lẽ dĩ nhiên, vì chính sách của giáo hội, họ không bao giờ được dạy hay được quyền biết gì về lịch sử các giáo hoàng trong giáo hội của họ.Lịch sử các giáo hoàng Ca Tô đã viết rõ: có những giáo hoàng do vua chúa chỉ định, có những giáo hoàng giết nhau để lên làm giáo hoàng, có những giáo hoàng do những cô gái điếm dựng lên, có những giáo hoàng là trẻ vị thành niên mới có 12 tuổi, có những giáo hoàng là con hoang của một giáo hoàng, hay là con của giáo hoàng loạn luân mà sinh rav..v.. Những sự kiện này sẽ được chứng tỏ rõ ràng qua một số tài liệu sau đây.

          Trước hết, tôi xin trích dẫn một đoạn trong cuốn Những Dối Trá và Huyền Thoại Của Thánh Kinh của Lloyd M. Graham.Đây chỉ là một đoạn tóm tắt một số sự kiện liên quan đến chế độ giáo hoàng.Chi tiết về những sự kiện này sẽ được bổ túc qua những tài liệu của các vị có thẩm quyền trong giáo hội Ca Tô.

          Chúng tôi thừa nhận rằng điều mà chúng tôi trình bày ở đây là chủ ý đưa ra hình ảnh một mặt, mặt đen tối và ô nhục.Lý do để đưa ra mặt này là vì hàng triệu linh hồn bị lạc dẫn đang sơn phết mặt kia và đưa cao nó lên như là mặt duy nhất cho thế giới những kẻ nhẹ dạ, cả tin.Chúng tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải biết cả hai mặt, không chỉ vì lợi ích của sự thật mà còn là cho những người đang sống trong sự nô lệ tâm linh cho một quyền lực lừa đảo.Đối với những người này, một ngàn năm tội ác và đồi bại được làm nhẹ đi qua lời giải thích hời hợt là “chỉ có vài giáo hoàng xấu”.Nếu những người giải thích như vậy mà lương thiện, họ phải thừa nhận rằng thật ra chỉ có vài giáo hoàng tốt.

          Chúng tôi đã nói về sự bất lương của học thuật Công giáo.Không ở đâu rõ ràng bằng luận điệu bào chữa, che đậy cho các giáo hoàng đồi bại.

          Những tội ác của các giáo hoàng là do những người khác làm và “không thể tránh được”, sự thiêu sống những kẻ dị giáo là một “điều cần thiết của thời đại”,những sự trụy lạc của giáo hoàng chỉ là “yêu thích sự vui vẻ lành mạnh”.Những hồ sơ ghi chép sự việc đương thời đã hoàn toàn phủ bác những luận điệu trên, và những điều ghi chép này không phải là do những kẻ thù của giáo hội viết, mà phần lớn là do những sử gia của chính giáo hội gồm có những giáo hoàng và hồng y: giáo hoàng Victor II, Pius II, hồng y Baronius, giám mục Liutprand, linh mục Salvianus, và các sử gia như Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, và nhiều người khác.Đây chính là những người có đầy đủ thẩm quyền đưa ra cái mặt đen tối và ô nhục của giáo hội.  Những gì mà chúng tôi trình bày ở đây chỉ là lượm lặt trong thời gian 1500 năm, nhưng chúng tôi nghĩ rằng cũng đủ để bác bỏ mọi điều tự nhận của giáo hội, cho rằng giáo hoàng đã được thánh linh tuyển chọn và hướng dẫn..

          Trong “thời đại tăm tối” (the dark ages) những giáo hoàng được thánh linh hướng dẫn này đã giết nhau với nhịp độ 10 giáo hoàng bị giết trong vòng 12 năm (891-903) và 40 trong vòng hơn 100 năm.Giáo hoàng Sergius III là một kẻ giết nhiều người; theo hồng y Baronius và Vulgarius, ông ta đã giết hai vị giáo hoàng tiền nhiệm.Năm 708, Toto, một nhà quý tộc đứng đầu một đám thuộc hạ ô hợp, đã vận động để cho anh hắn được bầu làm giáo hoàng.Đó là giáo hoàng Constantine II, người sau đó bị Christopher, thủ tướng của ông ta, móc mắt ra.  Rồi Christopher cùng con của hắn âm mưu chống giáo hoàng Gregory và cũng cho người móc mắt Gregory.Hai đứa cháu của giáo hoàng Leo III là Pascal và Campulus đều là linh mục.Chúng toa rập với nhau mưu đồ thay thế Leo III, thuê một đám giết mướn để giết Leo III khi ông ta đi dạo phố.Việc không thành, chúng đích thân ra tay, kéo Leo III vào một tu viện và giết ông ta tại đó.Chắc độc giả cho rằng đó là chuyện thuần túy giả tưởng, chỉ để phỉ báng.Nhưng không phải vậy, đó là dựa theo những hồ sơ ghi lại sự việc của nhà viết tiểu sử các giáo hoàng.

          Đó chỉ là chuyện thường tình của thời đại.Giáo hoàng Leo V bị một người cũng tên là Christopher hạ bệ, rồi đến lượt tên này cũng bị hạ bệ và cái tên sát nhân giết mấy giáo hoàng tiền nhiệm đã nói ở trên, Sergius III, lên thay. Trong thời đại này, không phải là Thánh Linh tuyển chọn giáo hoàng mà là, theo Hồng y Baronius, những cô gái điếm (scortas).Đó là “luật lệ của những cô gái điếm hạng sang” (rule of the courtesans), đôi khi còn được gọi là “chế độ điếm trị” (Pornocracy), hay là triều đại của các cô gái điếm (reign of the whores).Trong số điếm này có một người mà Baronius gọi là “con điếm vô liêm sỉ”, Theodora, và đứa con gái vô liêm sỉ không kém là Marozia.Cả hai mẹ con đều có con với giáo hoàng Sergius III, và cả hai đều đưa những đứa con hoang của mình lên ngai giáo hoàng - John XI và John XII.John XI bị cầm tù và John XII đã “biến dinh Lateran (nơi giáo hoàng ở, trong Vatican. Trần Chung Ngọc) thành một ổ điếm”.Không có một tội ác nào mà John XII không làm - giết người, khai gian, thông dâm, loạn luân với hai em, đâm chém và thiến kẻ thù v..v.. Hắn ta chết trong tay của một người chồng bị xúc phạm (vì bị bắt quả tang đang thông dâm với vợ người này.)

          Theo sử liệu, hồng y Francone cho người thắt cổ giáo hoàng Benedict VI, sau đó lên làm giáo hoàng Boniface VII, “một con quỷ khủng khiếp vượt mọi con người về tội ác”, theo sử gia Gerbert.Hắn ta cũng chẳng tệ hơn gì giáo hoàng Boniface VIII.. Thật vậy !  Để chiếm được cái mũ tiara (mũ ba tầng của giáo hoàng. Trần Chung Ngọc) hắn đã thủ tiêu giáo hoàng dở hơi Celestine V.Nhưng hắn cũng chẳng hưởng được sự chiến thắng lâu dài vì ngay sau đó hắn bị những người La Mã truất phế.Trong triều đại của một giáo hoàng kế vị, Clement V, sau khi chết hắn còn bị mang ra xét xửvà được xem là phạm mọi tội ác, kể cả tội hành dâm với đồng nam (pederasty) và giết người.Và khi Clement chết thì người kế vị hắn, John XXII, phanh phui ra rằng Clement đã quá nhân từ (Tác giả chơi chữ: “Clement had been so very clement” vì clement có nghĩa là nhân từ) nên đã cho người cháu một số tiền tương đương với 5 triệu dô-la, tiền của giáo hoàng.Vào thời gian này, triều đình của giáo hoàng được chuyển đến Avignon, và thánh Phê-rô nay cùng lúc có hai người kế thừa, một người ở Avignon và một người ở Rô-Ma. Nhưng vậy mà cũng chưa đủ vì có khi có tới ba giáo hoàng cùng một lúc - Gregory XII, Alexander V, và John XXIII. Về sau John XXIII bị từ khước, tên thánh bị hủy bỏ, và gần đây tên này (John XXIII) được giáo hoàng kế vị Pius XII lấy lại.

          Sự đồi bại của John XXIII lên đến độ mà Sigmund ở Hung Gia Lợi phải triệu tập một hội đồng điều tra hắn ta. Kết quả của cuộc điều ta là đưa ra năm mươi bốn (54) khoản mô tả John XXIII là “độc ác, không tôn trọng những điều thiêng liêng, không trong trắng, nói láo, không tuân theo luật lệ và đầy những thói xấu.” Khi còn là hồng y, John XXIII đã là người “vô nhân đạo, bất công và tàn bạo.” Khi lên làm giáo hoàng, ông ta là “kẻ đàn áp người nghèo, khủng bố công lý; là cột trụ của tội ác, hình tượng của những kẻ buôn bán chức tước và thánh tích ;  ham mê trò quỷ thuật, cặn bã của thói xấu, đắm mình trong nhục dục; là tấm gương của sự ô nhục, một kẻ phát minh ra những tội ác.” Hắn giữ chắc ngôi vị giáo hoàng bằng “bạo lực và gian lận và bán chứng thư xá tội, chức vụ, bí tích và những đồ ăn cướp được.” Hắn “xúc phạm thánh thần, thông dâm, giết ngưòi, hiếp dâm và ăn cắp.” Một vài những giáo hoàng như vậy vô đạo đức, tục tĩu đến độ phải đi đày.Ít nhất là có hai giáo hoàng bị móc mắt và cắt lưỡi, rồi buộc vào đuôi lừa kéo lê ngoài đường phố.Một số khác bị khinh ghét đến độ người ta quật xác chúng lên và ném xuống sông Tiber.Sau một ngàn bốn trăm năm dưới quyền lực của Ki Tô Giáo, đạo đức xuống thấp đến độ giáo hoàng Pius II than rằng “hiếm mà có một ông hoàng ở Ý không phải là đứa con hoang.”Lời tuyên bố này cũng áp dụng cho những ông hoàng của giáo hội (the princes of the church: nghĩa là những giáo hoàng, hồng y, giám mục v..v..) như là của chính quyền dân sự.

         Tệ hại như vậy nhưng sự tệ hại hơn còn chưa tới - với giòng họ Borgias, đặc biệt là Rodrigo.Trong những giáo hoàng xấu xa độc ác thì hắn xứng đáng đứng đầu.Bằng cách hối lộ 15 hồng y với số tiền tương đương với 3 triệu đô-la, hắn chiếm được sự tuyển lựa một con người tệ hại nhất trong lịch sử - chính hắn, lên làm giáo hoàng với tên Alexander VI.Sử gia Guicciardini mô tả hắn như sau : “. . . có những thói quen cực kỳ tục tĩu, vô liêm sỉ và không có một ý thức nào về sự thật, nuốt lời, không có tình cảm tôn giáo, tham lam vô độ, nhiệt tình tham vọng, độc ác quá sự độc ác của những giống người man rợ, tham muốn đưa con lên địa vị cao bằng mọi thủ đoạn : hắn có nhiều con, và một trong những đứa này - cũng đáng ghê tởm như cha của nó.”  Đó là con người nổi tiếng, Cesare Borgia, người đã giết người anh rể là John, và hai hồng y khác để chiếm được cái áo hồng y. . .

         Khi còn là hồng y, cái kẻ chơi bời phóng đãng và sát nhân này đã biến chỗ ở của mình trong Vatican thành một ổ điếm. Theo sử gia đương thời là Burchard, hắn đắm mình trong những cuộc hoan lạc trong những phòng của hắn, ngay trên phòng của giáo hoàng, và những cô gái điếm hạng sang “nhảy múa trần truồng trước những tôi tớ của Chúa [các hồng y, giám mục, linh mục] và vị đại diện của Chúa (giáo hoàng. Trần Chung Ngọc).”..Đó là sự hoan lạc được giải thích như là “lòng yêu thích sự vui vẻ lành mạnh.”

         Đó là những ông hoàng của giáo hội trong những ngày đó.Trong thời Trung Cổ, tập thể các hồng y cũng đồi bại như là một tập thể mà người ta có thể kiếm được trong suốt giòng lịch sử.Chiếm được một ngôi vị hồng y chỉ là vấn đề có tiền và ảnh hưởng quen thuộc.Đức tính, sự hiểu biết, và khả năng không dự phần nào trong đó.Thật vậy, những đứa trẻ mười bốn mười lăm tuổi đôi khi cũng được đưa lên ngôi vị hồng y. Giáo hoàng Paul III cho hai đứa cháu (gọi Paul III bằng ông) làm hồng y . . .  Paul IV cũng cho một đứa cháu gọi Paul IV bằng bác lên làm hồng y tuy chính ông ta nói “cánh tay của nó ngập máu đến tận khuỷu tay.”

         Vậy mà đó là những người, với sự trợ giúp của Thánh Linh, tuyển chọn giáo hoàng . . .

         Tại sao cái lịch sử ô nhục này không được tín đồ biết đến như là lịch sử các giáo hoàng mà họ cho là tốt?Tại sao các tín đồ Công giáokhông được dạy rằng chính những con người như trên đã đưa đến sự cải cách chứ không phải là do “con quỷ Luther đó.”?  Giáo phái Tin Lành nổi giậy không chỉ vì Luther mà vì sự phản đối tội ác và sự đồi bại của giáo hội Công giáo trong nhiều thế kỷ.Tên Sa-Tăng Phê-rô đã xúc phạm đến toàn thể Âu Châu..

         [Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, pp. 463-468 :  What we offer here is admittedly and intentionally a one-sided picture, the dark and shameful side.  Our reason for so presenting it is that millions of misguided souls are painting the other side and holding it up to a credulous world as the only side. We think both sides should be known, not only in the interest of truth but also for those who are living in spiritual bondage to a fraudulent authority. For these, a thousand years of crime and corruption are glossed over with the statement, “There were a few bad popes.”  Were their informers honest they would admit there were a few good.

         We have spoken of the dishonesty of Catholic scholarship.Nowhere it is more evident than in its whitewash of wicked popes.Their crimes were all done by others and “unavoidable,” their burning of heretics, a “necessity of the times,” their debaucheries, but “love of godd cheer.”.  Contemporary records completely refute these claims, and the records were not written by the Church’s enemies, but mainly by its own historians, popes and cardinals: Victor II, Pius II, Cardinal Baronius, Bishop Liutprand, Father Salvianus, and historians, Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, and others.  These are the authority for the dark and shameful side.What we offer here is but a hop, skip and jump over some 1500 years, but sufficient, we think, to disprove any claim to divine selection and guidance.

         During the Dark Ages these divinely guided popes murdered one another at such a rate there were ten in twelve years (891-903) and forty in little more than one hundred.Sergius III was a wholesale r;  according to Cardinal Baronius and also Vulgarius, he murdered his two predecessors.In 708 Toto, a noble at the head of a rabble following, had his brother apointed pope. This was Constantine II whose eyes were put out by Christopher, his chief official.Then Christopher and his son plotted against Pope Gregory for they too had their eyes put out.  The two nephews of Leo III, Pascal and Campulus, themselves clerics, conspired to replace Leo and set a band of paid assassins upon him as he rode through the streets.  When the hirelings failed, the two nephews dragged the pope into a monastery and complete the work.Pure fiction, downright slander, you say.But no, it is from the record of the papal biographer.

         This was the order of the day.Pope Leo the V was deposed by another Christopher, who was in turn deposed and succeeded by the aforesaid criminal Sergius III, who murdered his predecessors.At this time it was not the Holy Ghost that selected the popes but what cardinal Baronius called scortas, whores. This was the “rule of the courtesans,” sometimes called Pornocracy, or reign of the whores.Among them was one Baronius called the “shameless whore,”  Theodora, and her equally shameless daughter Marozia.Both had sons by Sergius III, and both put their illegitimates on the papal throne - John XI and John XII.The first was imprisoned, the second “turned the Lateran Palace into a brothel.”  There was no crime he didn’t commit - murder, perjury, adultery, incest with his two sisters, bleeding and castrating his enemies, etc.He died, we are told, at the hand of an outraged husband.

         According to the record, Cardinal Francone had Benedict VI strangled, after which he became Boniface VII, “a horrid monster surpassing all other mortals in wickedness,” according to Gerbert.He was no worse however than Boniface VIII..Yes indeed!To gain his tiara he had the halfwit Celestine V disposed of. He did not long enjoy his victory for soon he was driven out by the Romans.Under a successor, Clement V, he was tried posthumously and found guilty of every crime including pederasty and murder.And when Clement died, his successor, John XXII, revealed that Clement had been so very clement he had given his nephew the equivalent of five million dollars of papal money.It was at this time the papal court was moved to Avignon, and now St. Peter had two successors, one at Avignon and one at Rome.  But even this was not enough; there were at one time three - Grogory XII, Alexander V, and John XXIII.Later, John XXIII was repudiated, the title was annulled and recently assumed by the successor of Pius XII.

         So corrupt was the latter, Sigmund of Hungary called a council to investigate him.The result was fifty-four articles described him as “wicked, irreverend, unchaste, a liar, disobedient and infected with many vices.” As a cardinal he had been “inhuman, unjust and cruel.” As pope he was “an oppressor of the poor, persecutor of justice, pillar of the wicked, statue of the simoniacs, addicted to magic, the dregs of vice. . . wholly given to sleep and carnal desires, a mirror of infamy, a profound inventor of wickedness.”He secured the Papacy by “violence and fraud and sold indulgences, benefices, sacraments and bulls.”He practiced “sacrilege, adultery, murder, rape and theft.”.  Some of these popes so outraged decency they were exiled.At least two of them had their eyes and tongue cut out, then were dragged through the streets tied to the tail of an ass.Still others were so despised their corpses were exhumed and thrown into the Tiber.After fourteen hundred years of Christianity morals had sunk so low that Pius II tells us: “scarcely a prince in Italy had been born in wedlock.” A statement as applicable to the princes of the church as of the states.

         Bad as all this was, the worst was yet to come - the Borgias, particularly Rodrigo.Of all the wicked popes he deserves the crown.By bribing fifteen cardinals with the equivalent of three million dollars he secured the election of one of the worst men in history - himself, Alexander VI.Guicciardini, the historian, describes him thus : “. . . private habits of the utmost obscenity, no shame or sense of truth, no fidelity to his engagements, no religious sentiments, insatiable avarice, unbridled ambition, cruelty beyond the cruelty of barbarous races, burning desire to elevate his sons by any means: of whom there were many, and among them one - not any less detestable than his father.”  This was the notorious Cesare Borgia who to gain a cardinalate murdered his brother John, his sister’s husband, and two cardinals . . .

         While still a cardinal this rake and murderer turned his quarters in the Vatican into a brothel.According to Burchard, the papal historian at the time, he indulged in nightly revels in his rooms above the pope’s, and courtesans “danced naked before the servants of the Lord and the Vicar of Christ.”  And his sister, Lucrezia, distributed prized to those who “had a carnal intercourse with courtesans the largest number of times.”This is the gaiety explained as “love of dood cheer.”

         Such were the Princes of the Church in those days.During the Middle Ages the College of cardinals was as corrupt a body as could be found in all history. Securing a cardinalate was but a matter of money and influence.Neither character, learning nor aptitude played any part in it.Indeed boys of fouteen and fifteen were sometimes invested with the office.Paul III appointed two of his teen-age grand children to this high office.. Paul IV made his nephew a cardinal, though, as he said, “his arm is dyed in blood to the elbow.”

         Yet these were the men who, with the help of the Holy Ghost, selected the popes . . .

         Now why isn’t this disgraceful record known as well as that of the the good popes ? Why aren’t Catholics told it was such men as these that caused the Reformation and not “that devil Luther ?” Protestantism sprang not from Luther exclusively but from centuries of protestation against the crime and corruption of the Catholic Church.Satan Peter had outraged all Europe . . .]

         Trên đây chỉ là sơ lược về những sự đồi bại cùng cực của một số không nhỏ “đức thánh cha” của giáo dân Việt Nam, những “đại diện của Chúa” trên trần, những người được Thánh Linh nhập vào tập đoàn hồng y trong sự tuyển chọn, trong lịch sử Ca Tô giáo Rô-ma. Tôi chưa hề nói đến những hoạt động lừa đảo, gian dối, thế tục, thực dân của “hội thánh” liên hệ đến những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa v..v.. trên khắp thế giới. Những vấn đề này cần riêng một cuốn sách mới có thể tạm gọi là đầy đủ.

         Để bổ túc cho đoạn trên của Lloyd Graham, sau đây là vài đoạn điển hình trong chương nói về Các Triều Đại Giáo Hoàng Do Điếm Trị (Papal Pornocracy) mà Hoàng Thiên đã dịch với đầu đề không được sát nghĩa cho lắm: Triều Đại Dâm Loạn Của Các Giáo Hoàng, và đăng trong Tuyển Tập I: Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, trang 134-173, cùng với nguyên bản tiếng Anh, do Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo ở Texas xuất bản và phát hành năm 1994.  Chương này lấy ở trong cuốn Những Đại Diện Của Ki-Tô: Cái mặt Đen Tối Của Cung Đình Giáo Hoàng (Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy) của nguyên Tổng Giám Mục Peter de Rosa, Giáo sư Siêu Hình Học và Đạo Đức Học tại Trường Dòng Westminster và Khoa Trưởng khoa Thần Học, đại học Corpus Christi, Luân Đôn.

         Các Triều Đại Giáo Hoàng Do Điếm Trị : [Papal Pornocracy]

         Cách La Mã 15 dặm, trên vùng đồi núi Alban, có nhóm Conti nổi tiếng trong thế kỷ 10, những Công Tước họ Alberic ở Tusculum.Những lãnh chúa này nắm toàn quyển kiểm soát những cuộc tuyển chọn giáo hoàng.Bảy giáo hoàng xuất thân từ dòng họ này, có ba vị kế tiếp nhau, và hầu như không có trường hợp ngoại lệ nào, họ đều cùng nhau hình thành “Một La Mã Ô Nhục” (A Rome of Shame).

         Lịch sử đã làm nổ tung cái huyền thoại trong dân gian là chỉ có Borgia là một giáo hoàng xấu.Thực ra, không bao lâu sau thời Charlemagne, trong hơn một thế kỷ rưỡi, toàn thể tập đoàn giáo hoàng đều thối nát (the whole batch [of popes] was rotten).Họ là tông đồ của Quỷ Sứ, Ma Vương hơn là tông đồ của Đấng Ki Tô [They were less disciples of Christ than of Belial, the Prince of Darkness].Rất nhiều giáo hoàng là những tên dâm ô trụy lạc, sát nhân, gian dâm, hiếu chiến, bạo chúa, mua bán chức tước và sẵn sàng bán cả thánh thần.Hầu hết bọn chúng đều mê tiền bạc và mưu đồ xấu xa hơn là đạo giáo [They were nearly all wrapped up in money and intrigue than in religion]..

         Trước hết, chúng ta hãy xét đến danh sách những giáo hoàng từ năm 880.Trong 150 năm tiếp theo có 35 giáo hoàng, mỗi ông trị vì trung bình là 4 năm. Trong thời kỳ đầu, những cuộc chuyển nhiệm quyền hành đều như nhau: những giáo hoàng được chọn vì họ là những người già cả hay bệnh tật. Nhưng trong hai thế kỷ 9 và 10, nhiều giáo hoàng mới ngoài 20 tuổi, một số còn là vị thành niên.Một vài vị trong nhóm đó chỉ trị vì có 20 ngày, một tháng, hay 3 tháng. Sáu vị bị truất phế, một số bị sát hại [Six of them were dethroned, a number were murdered]..

         Khi một giáo hoàng bỗng dưng biến mất, thế thì ông ta đã bị cắt cổ hay đã bị đạp xuống sông Tiber?Hay đã bị treo cổ trong ngục tù? Hay đang ngủ luôn trong nhà điếm ? [Was he sleeping it off in a brothel ?]  Hay đã bị cắt tai và mũi như Stephen năm 930 mà sau đó – dĩ nhiên – không còn dám chường mặt ra trước công chúng nữa ?  Hay đã trốn mất, như Benedict V năm 964, sau khi cưỡng hiếp một bé gái, đã chạy trốn về Constantinople với tất cả tài sản trong thánh đường Peter?Sử gia sùng tín của giáo hội, Gerbert, đã gọi Benedict là “kẻ đồi bại nhất trong những quái vật vô Thượng đế” [the most iniquitous of all the monsters of ungodliness]. Giáo hoàng này sau cùng đã bị một người chồng ghen tuông đâm chết.Thân xác của y, với hàng trăm vết đâm, bị kéo lê qua những đường phố, trước khi bị đạp vào một hầm chứa phân.

         Không còn nghi ngờ gì nữa, những giáo hoàng này đã tạo nên một tập đoàn lãnh đạo, tu sĩ hay giáo dân, đê tiện nhất trong lịch sử [Without question, these pontiffs constitue the most despicable body of leaders, clerical or lay, in history]Nói trắng ra, chúng là những tên man rợ.

         Một giáo hoàng, Stephen VII, đã hoàn toàn điên khùng.Hằn cho đào mả một giáo hoàng tiền nhiệm, Formosus, đã chết được 9 tháng.Trong cái được gọi là Hội Nghị Tử Thi (cadaveric Synod), hắn cho cái thây ma đã thúi rữa mặc đủ lễ phục của giáo hoàng, đặt ngồi trên ngai ở điện Lateran và đích thân thẩm vấn xác chết.Formosus bị cáo buộc là đã lên làm giáo hoàng với những lý do ngụy tạo, đã làm giám mục ở một nơi khác, do đó không được làm giáo hoàng ở La Mã.Theo Stephen, điều này đã khiến cho những hành động của Formosus vô giá trị, đặc biệt là những cuộc tấn phong.Sau khi buộc tội, cái thây ma bị kết án là một ngụy giáo hoàng (antipope), bị lột hết quần áo, sau khi đã bị chặt đứt hai ngón tay mà khi còn sống đã dùng để ban phúc nhân danh tông đồ của Chúa, rồi bị ném xuống sông Tiber.Rồi cái thây được vớt lên bởi những kẻ ủng hộ Formosus và được chôn cất kín đáo.Sau cùng, cái thây ma được đưa về ngôi mộ của ông ta ở trong thánh đường Phê-rô.Còn Stephen thì bị treo cổ sau đó ít lâu.

         Giáo hoàng làm tàn phế người rồi cũng bị người làm tàn phế lại, giết hại người rồi cũng bị người giết lại.Đời sống của họ không có gì giống như là trong các Phúc Âm.Họ có nhiều điểm giống như là các trẻ con nhà giàu hiện đại, thường trở thành du đãng, nghiện ngập, la cà những quán cà phê ven biển hay những hộp đêm, hơn là như các giáo hoàng.Một số lên làm giáo hoàng là nhờ cha mẹ có nhiều tham vọng, một số nhờ gươm giáo, một số nhờ ảnh hưởng của các cô nhân tình đẹp đẽ quý phái trong thời đại được biết là “triều đại của những gái điếm” (The Reign of the harlots).

         Nổi bật trong đám gái điếm hạng sang (courtesans) là Marozia thuộc dòng họ Theophylact.Theo giám mục Liutprand ở Cremona, sống cùng thời với Marozia,thì Marozia đã được mẹ là Theodora huấn luyện kỹ (well coached).Theodora có một đứa con gái thứ hai với giáo hoàng John X (914-929), cũng tên là Theodora… [Theodora, who had a second daughter, also named Theodora, by pope John X] Trong vòng chưa đầy một thập niên, mấy mẹ con Theodora đã dựng lên – cũng như phế bỏ tùy hứng – không dưới 8 giáo hoàng. [In less than one decade, they created – and, when it suited them, destroyed – no less than eight popes]

         Cô Gái Điếm Xinh Đẹp

         Marozia đầu tiên dấn thân vào những quan hệ tình ái trong cung đình giáo hoàng là với giáo hoàng Sergius III (904-911).Trước đó, Sergius đã bị giáo hoàng Leo V ngăn chận con đường lên làm giáo hoàng.Giáo hoàng Leo V chỉ trị vì được có một tháng rồi bị bắt cầm tù bởi một kẻ thoán vị, Hồng y Christopher.Sergius giết tốt cả hai.

         Sergius lại quật mồ của giáo hoàng Formosus, đã chết được 10 năm, và lại kết án cái thây ma một lần nữa.Sergius, trước đó được Formosus tấn phong, thực sự nên tự coi mình là bất hợp lệ, nhưng y không cần để ý đến những lý sự cùn thần học, xa lạ với bản chất của hắn.Hắn cho người chặt đầu cái thây ma của Formosus, chặt thêm 3 ngón tay của Formosus trước khi ném thây xuống sông Tiber.Khi cái thây ma không đầu bị vướng vàocái lưới đánh cá của một ngư phủ, một lần nữa cái thây ma đó lại được “sống một cuộc đời êm đẹp”, đem trở về ngôi mộ ở thánh đường Phê-rô.

         Khi Marozia trở thành tình nhân của Sergius, lúc đó đã 45 tuổi, thì nàng mới có 15 tuổi.Nàng có một đứa con trai với Sergius mà nàng rất lo cho sự nghiệp của nó.Sergius chết sau đó 5 năm,sau một triều đại giáo hoàng kéo dài 7 nămđẫm máu, đầy những mưu đồ xấu xa và ái ân cuồng nhiệt. [Sergius was to die five years later after a seven-year pontificate crammed with blood, intrigue and passion.]

         Marozia không bao giờ quên được mối tình khi còn trẻ.Ăn nằm với một giáo hoàng đã đưa nàng đến những dự tính và những khoái cảm mà ngay cả 3 cuộc hôn nhân sau, cùng vô số những cuộc lăng nhăng tình ái khác, cũng không xóa nhòa được.Lần đầu tiên giáo hoàng Sergius quyến rũ nàng là ở điện Lateran. [The first time Pope Sergius had seduced her was in the Lateran Palace].Họ thường gặp nhau vì suốt thời thơ ấu nàng sống ở đó khi cha nàng là Nghị Viên Trưởng của thành La Mã.Rồi trong một lúc nào đó, Sergius bỗng chợt nhận ra rằng cô bé dễ thương ngày xưa đã nẩy nở thành một thiếu nữ kiều diễm. Về phần Marozia, không phải là nàng kiếm khoái lạc trong vòng tay của giáo hoàng, mà là quyền lực.

         Mẹ nàng, Theodora, đã từng lập lên và phế bỏ 2 giáo hoàng, khi mụ ta bất chấp giáo luật, đã đưa gã nhân tình yêu chuộngtừ giám mục lên đến tổng giám mục và sau cùng lên ghế của Phê-rô làm giáo hoàng John X…

         Đúng vào thời điểm này, dòng họ Alberic ở Tuscany, xuất thân từ miền Bắc, nhập cuộc.Giáo hoàng John X đề nghị cùng vợ Theodora là một cuộc hôn nhân giữa Marozia và Alberic có thể có lợi cho mọi người.Marozia củng nhận thấy Alberic là một ngôi sao đang lên, và từ cuộc hôn nhân, Alberic Con ra đời.Alberic Cha, có lẽ do vợ giật dây, định cướp quyền ở La Mã nên bị giết.Giáo hoàng John bắt người góa phụ trẻ phải chứng kiến cái thây của chồng bị băm vằm cắt xẻo. Đây là một sai lầm tai hại. Một người đàn bà đã ăn nằm với giáo hoàng Sergius phải biết thế nào là trả thù.

         Khi Theodora chết năm 928, Marozia cho người bắt giáo hoàng John cầm tù trước khi ra lệnh hành quyết hắn bằng cách làm cho ngạt thở [thường là úp đè một cái gối lên mặt]. Con trai đầu của Marozia nay đã 17 tuổi. Chẳng bao lâu nữa y sẽ có đủ kinh nghiệm để nắm lấy chức giáo hoàng.Y đã được huấn luyện cho chức vụ này bằng một cuộc sống trụy lạc và hoàn toàn đồi bại. [He had been groomed for it by a sensous and totally immoral life.] Một vài giáo hoàng sau John X, mỗi người chỉ trị vì trong một thời gian ngắn, và người nào cũng biến mấttrong những trường hợp bí mật.  [each of them disappearing in mysterious circumstances]. Bây giờ, con trai của Marozia và giáo hoàng Sergius lên làm giáo hoàng John XI.

         Marozia lấy người chồng thứ hai là Guy.Sau khi Guy chết, Marozia lấy luôn người anh cùng cha khác mẹ của Guy là Vua Hugo ở Provence.Hugo đã có vợ nhưng vợ y đã bị dẹp bỏ dễ dàng. Thật may mắn cho Marozia có con làm giáo hoàng: vì hắn có quyền dẹp bỏ mọi điều gây trở ngại cho cặp Marozia-Hugo, như là loạn luân chẳng hạn. John XI đã đứng ra làm chủ lễ trong đám cưới của mẹ hắn ở La Mã vào mùa xuân năm 932.

         Rồi thì tất cả đã tan vỡ vì đứa con thứ hai của Marozia, đứa con đầy ghen tị của Alberic, nay đã 18 tuổi.Hắn đã cướp quyền kiểm soát La Mã để tự ý lựa chọn Giáo hoàng.Hugo phải bỏ vợ chạy trốn trong nhục nhã. Alberic bắt Giáo hoàng John XI, người anh cùng mẹ khác cha và con của Giáo hoàng Sergius, tống giam chung thân trong điện Lateran – nơi mà John XI chết sau đó 4 năm – và, tàn bạo hơn cả, hắn đã hạ ngục luôn cả mẹ hắn.

         Dù đã quá tuổi xuân thì, Mazoria vẫn còn là một người đàn bà diễm lệ khi nàng bước bước chân đầu tiên vào ngục Hadrian’s Mausolem, thường được biết dưới tên Lâu Đài Sant’Angelo.Nàng sống trong cái nơi khủng khiếp đó bên bờ sông Tiber, hơn 50 năm, không một ngày được ân giảm.

         Năm nàng 60 tuổi, ở trong ngục nàng nghe tin Alberic đã chết năm 40 tuổi và con hắn, tức cháu nội của nàng, tên là Octavian, đã tự phong là Giáo hoàng của giáo hội.Là Giáo hoàng đầu tiên đổi tên mình, tự đặt là John XII.Đó là vào mùa Đông năm 955.

         Có lẽ tuổi trẻ của Giáo hoàng mới này có thể giải thích phần nào tác phong vô đạo đức tôn giáo của hắn, vì hắn lên làm Giáo hoàng khi mới có 16 tuổi.  Tất cả các tu viện đều cầu nguyện ngày đêm cho hắn chết đi.

         Người ta nói rằng, hắn đã phát minh ra những tội lỗi chưa từng có từ thời khai sinh lập địa, kể cả việc ăn nằm với chính mẹ hắn. [He had invented sins, they said, not known since the beginning of the world, including sleeping with his mother] Hắn có một hậu cung chứa gái ngay trong điện Lateran.Hắn dùng tiền cúng của người hành hương để cờ bạc.Hắn thưởng cho những người con gái ngủ với hắn ngay cả những ly đựng rượu lễ bằng vàng của thánh đường Phê-Rô. Đặc biệt là phụ nữ thường được khuyên là đừng có vào điện Lateran nếu coi trọng danh tiết. [Women in particular were warned not to enter St John Lateran if they prized their honour].

         Chưa từng có một Giáo hoàng nào đã “về với Chúa” trong một vị thế xấu hổ hơn. Một đêm nọ, một người chồng ghen tuông, một trong số nhiều ông chồng, đã bắt được quả tang [in flagrante delicto] “Đức Thánh Cha” đang ăn nằm với vợ mình và đã tặng cho y một lễ nghi cuối cùng là giáng một búa vào gáy. [One night, a jealous husband, one of many, caught his Holiness with his wife in flagrante delicto and gave him the last rites with one hammer blow in the back of the head]. Y chết khi mới có 24 tuổi. Người dân La Mã, nổi tiếng về đầu óc tiếu lâm, nói đấy là cao điểm sự nghiệp của y. Ít nhất là y cũng may mắn được chết trên giường, dù đó là giường của người khác . . .

         Giáo hoàng mà được chết trên giường, dù là giường của vợ người, quả là điều may mắn. Vì như Malachi Martin đã viết, Ibid., p.3 :

         Từ cái chết của Tông đồ Simon Peter [Nền thần học của Giáo hội dựng lên làm giáo hoàng thứ nhất tuy rằng ngày nay nhiều học giả đã phủ bác điều này] vào năm 67 cho đến năm 312, có 39 giáo hoàng, kế vị Peter làm giám mục thành La Mã.Không một người nào trong số 18 giáo hoàng đầu tiên chết ở trên giường.Tất cả đều chết bất đắc kỳ tử.Khi còn sống, mỗi vị trong số 31 Giáo hoàng đầu tiên đều sử dụng quyền của cái vương quốc tâm linh đó, và dạy những gì mà vị tiền nhiệm của họ đã dạy:Hãy đóng trụ trong vương quốc tinh thần của Thượng đế.Hãy chờ đợi sự trở lại của Giê-su, ngày tận thế, và sự chiến thắng chung cùng của luật Thượng đế.

         (Malachi Martin: p.3:Between the death of Simon Peter the Apostle in A.D. 67, and the year 312, there were 39 popes, successors to Peter as bishops of Rome.  Not one of the first 18 popes died in his bed.  All perished violently. While he lived, each of the first 31 popes wielded the authority of that spiritual kingdom, and taught what his predecessor had taught before him :  Abide in the kingdom of God’s spirit.Wait for the return of Jesus, the final end of this visible world, and the ultimate triumph of God’s rule.)

         Hiển nhiên là trong 2000 năm qua Giê-su không hề trở lại và ngày nay chẳng có mấy ai còn tin là ông ta sẽ trở lại để mà trông ngóng.Thay đổi chiến thuật mị dân, Ki Tô Giáo dạy cứ tin ở Giê-su thì sau khi chết sẽ được Giê-su cứu rỗi, cho phần hồn nhập với phần xác, và cho lên thiên đường hưởng nhan thánh Chúa. Chẳng hiểu “hưởng nhan thánh Chúa” thì hay ho ở chỗ nào và có gì là vinh dự. Nhưng thực tế là, bộ xương cứu thế của Giê-su vẫn còn ở Jerusalem và Giáo Hoàng John Paul II đã khẳng định là chẳng có chỗ nào là thiên đường ở trên các tầng mây.

         Chuyện về các giáo hoàng trong mọi thời đại đó không kể sao cho đầy đủ.Vậy tôi xin cắt nhắn và chỉ nhắc đến một tài liệu của Hồng Y Baronius, viết trong cùng Chương này của Peter de Rosa] :

         Thực là dễ hiểu nếu Hồng Y Baronius đã phải bối rối thế nào khi ông viết về những biến cố mà ông ta đã ghi lại với một sự thành thực đáng kể.Ông ta gọi những Giáo hoàng của thời kỳ này là “những kẻ xâm lăng Tòa Thánh, là những kẻ phản đạo hơn là những tông đồ [non apostolicos sed apostaticos]

         Ông ta thú nhận là đã rất lo lắng và xúc động khi phải viết về những giáo hoàng này.Ngồi trên cái ngai của Thánh Phê-rô không phải là những con người mà là những con quỷ đội lốt người. [On the chair of St Peter sat not men but monsters in the shape of men]. “Những tên khoác lác tự phụ trong những bộ áo láng của Giáo hoàng có đầy những dục vọng xác thịt và những xảo trá dưới mọi hình thức của ác ôn đã cai trị La Mã và biến cái ngai của Thánh Phê-rô thành ổ điếm cho những tì thiếp và nhân tình của chúng.”

         Tôi nghĩ từng ấy tài liệu cũng đủ cho chúng ta thấy thực chất những “Đức Thánh Cha” của Ca-Tô Giáo Rô Ma ra sao, và chúng ta đã có thể có một nhận định chính xác về lời đề tặng của Dr. Arthur Frederick Ide ở trên.Có bao giờ các “bề trên” trong giáo hội dạy cho tín đồ biết những sự kiện lịch sử thực sự về một số “Đức Thánh Cha” của họ cũng như về lịch sử thực sự của Giáo hội từ ngày đầu đến ngày cuối ?  Tôi nghĩ không bao giờ. Vì dấu kín những chuyện nhơ bẩn của các vị chủ chăn và của hàng giáo phẩm cũng như lịch sử tàn bạo của Giáo hội là sách lược của Giáo hội, được duy trì bởi sự bất lương trí thức của các “bề trên”, những vị đáng lẽ ra phải cónhiệm vụ giáo dục mở mang đầu óc của các tín đồ.

         Theo một tài liệu của Linh mục John Shuster trên Internet thì trong lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-ma có tới 39 Giáo hoàng có vợ, ngày nay trên thế giới có trên 110000 linh mục có vợ nhưng nhiều vị vẫn âm thầm hành nghề linh mục, một phần ba số linh mục ở Mỹ có vợ và số linh mục lập gia đình vẫn tiếp tục gia tăng [Hiện tượng truyền giống song song với truyền giáo]

         “39 Popes Were Married ! was written and recorded by Father John Shuster.In the past 25 years, over 110,000 Roman Catholic priests, worldwide, have married and many have discreetly continued to practice their priesthood. One out of every three Roman Catholic priests in the United States today is a married priest, and the number of priests getting married continues to grow.)

         Có thể có những tín đồ Ca Tô, tin theo lời chống đỡ của giáo hội, cho rằng đây chỉ là những chuyện dính líu đến một số giáo hoàng, hồng y xấu xa trong quá khứ và đó là những chuyện đã qua.Không hẳn vậy, những chuyện đồi bại, ác độc không chỉ giới hạn trong giới giáo hoàng hay hồng y mà còn lan tràn trong mọi giới lãnh đạo Công giáo gồm cả các Tổng Giám Mục, Giám Mục và Linh mục, và kéo dài cho đến tận ngày nay. Độc giả có thể đọc những chuyện này trong nhiều tác phẩm đã xuất bản, đặc biệt là chương I trong cuốn Những Chuyện Tình Ái của Vatican hay Những Tình Nhân Yêu Chuộng của Các Giáo Hoàng [The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of the Popes] của Dr. Angelo S. Rappoport.

         Độc giả cũng có thể đọc những cuốn sau đây: Những Giáo Hoàng Xấu Xa (The Bad Popes) của E. R. Chamberlin; Vạch Trần Những Sự Thực về Các Giáo Hoàng: Một Nghiên Cứu Thẳng Thắn về Vấn Đề Nhục Dục và Đồi Bại trong cung đình Vatican (Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex and Corruption in the Vatican) của Dr. Arthur Frederick Ide.

         Tôi không muốn đi sâu vào những vấn đề này.Những tài liệu nêu trên chỉ có mục đích giúp những tín đồ Ca-Tô Việt Nam hiểu rõ thêm về những “đức thánh cha” của họ đồng thời chứng minh rằng: không có cách nào chúng ta có thể coi Ca Tô giáo như là một “hội thánh” vì giáo hội Ca Tô đã phạm quá nhiều tội ác đối với nhân loại, và vì nhiều bậc lãnh đạo trong Ca Tô giáo, kể cả một số người được phong làm Thánh Ca Tô giáo, xưa cũng như nay, không đủ tiêu chuẩn đạo đức và trí tuệ để theo kịp những người dân bình thường lành thiện, khoan nói đến những bậc thánh nhân theo sự hiểu và định nghĩa của những người Á Đông về thánh nhân..

         Một luận điệu mà các giáo dân thường dùng để bảo vệ “Hội Thánh” của họ là:Những Giáo hoàng đồi bại cũng như những Linh mục loạn dâm cũng chỉ là những con người, không tránh được những cám dỗ thế tục.Không phải !  Tuyệt đối không phải !  Tại sao ?  Vì Giáo hoàng không phải là người như mọi người mà là “đại diện của Chúa” trên trần, nắm trong tay chìa khóa cửa thiên đường, có quyền tuyệt thông tín đồ, muốn cho ai lên thiên đường thì cho.Linh mục cũng vậy, họ không phải là người mà là “Chúa thứ hai”, có quyền tha tội cho ai thì người ấy được tha, cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.Đó là giáo lý cốt tủy để tạo quyền lực cho Giáo hoàng và các linh mục.Bảo họ cũng chỉ là người như mọi người có nghĩa là phủ nhận tất cả những quyền lực thần thánh mà Giáo hội đã tạo ra cho họ.Cho nên luận điệu trên thực chất vô giá trị, chẳng qua chỉ là một luận điệu chống đỡ yếu ớt để vớt vát mặt mũi của cái gọi là “hội thánh Ca-Tô”.

         Nhưng cái gì gọi là “hội thánh”?Giám mục John Shelby Spong đã đặt vấn đề với từ “hội thánh” trong Kinh Tin Kính của Ca Tô Giáo Rô Ma như sau :

         Kinh Tin Kính kết bằng một đoạn hiến dâng cho Thánh Linh, cái mà người ta nói rằng đã tạo nên giáo hội trong ngày hạ trần của ông ta (được quy định vào ngày chủ nhật thứ bảy sau ngày chủ nhật Phục Sinh. Trần Chung Ngọc), và được cho là vẫn tiếp tục chứa đầy giáo hội với “sự hiện diện của Thiên chúa”. Thứ nhất, chúng ta cần ghi nhận rằng, tất cả những biểu tượng về ngày hạ trần của Thánh Linh đều bắt nguồn từ cùng một quan niệm về ba tầng trời (theo thánh kinh: thiên đường ở trên các tầng mây, mặt đất phẳng dẹt, đứng yên và là trung tâm của vũ trụ, và hỏa ngục ở dưới mặt đất. Trần Chung Ngọc) trong đó người ta nói rằng Giê-su đã bay lên trời (thiên đường). Giả định đằng sau câu chuyện gửi Thánh Linh hạ trần là cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và Thiên chúa sống ở trên trời có thể đổ xuống những ân sủng. Thứ nhì, Kinh Kinh Tín khẳng định là thánh linh này sẽ được phân phát trong các “hội thánh”, liên tục tiếp sinh khí cho “giáo hội Ca Tô thánh thiện.” Nhưng trong lịch sử giáo hội, giáo hội cũng có những giai đoạn khủng khiếp ghi dấu bởi những cái gọi là “thánh chiến”, “chiến tranh thiêng liêng của các thập tự quân”, những tòa hình án xử dị giáo, chính sách vô nhân đạo chống Do-Thái, và sự công khai giết những người khác giống, kỳ thị phái nữ và chống những người có khuynh hướng đồng giống luyến ái. Trong những giai đoạn này, bạo lực quá mức đã được những người tự gọi mình là tín đồ Ki-Tô dùng thả giàn trên cả những dân của Thiên chúa cũng như những tạo vật của Thiên chúa. Những sự khủng khiếp như vậy đã giáng xuống đầu nhân loại nhân danh một Thiên chúa của tình yêu thương.Trong những giai đoạn này thì hội thánh ở đâu ?  Chúng ta tính sao với những sự kiện lịch sử này mỗi khi chúng ta đọc câu trêntrong Kinh Tin Kín ?

         [John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, pp. 16-17 :  This creed concludes with a paragraph dedicated to the Holy Spirit, who was said to have created the church at Pentecost and who, it is suggested, continues to fill the church with “God presence”.First, we need to note that all of these Pentecost symbols come out of the same three-tired skies into which Jesus was said to have ascended.The assumption lying behind the story of the sending of the Holy Spirit is that the earth is the center of the universe and that onto it the heavenly gifts of the God who lives above the sky can be poured.Second, the creed asserts that this spirit will issue in the communion of saints, which will continually renew the “holy Catholic church.” . . . But the church has also had in its history some rather dreadful moments marked by such things as “holy wars”, “sacred crusades”, inquisitions, inhumane anti-Semitism, and an overt, killing racism, sexism, and homophobia.In these episodes incredible violence has been unleashed upon both God’s people and God’s creation by those who counted themselves as believers.These horrors have even been inflicted in the name of the God of love. Where was the communion of saints during those episodes ?  What do we do with this known history when we recite these words in this creed ?]

         Chúng ta thấy rằng, những tín đồ Ca Tô giáo quả là đáng thương vì bị đưa vào một cấu trúc quyền lực giả tạo mà họ tin rằng đó là một “hội thánh” . . . Chúng ta không thể và không nên trách họ. Đầu óc họ bị nhào nặn từ khi mới sinh ra đời và có thể khả năng hiểu biết của họ không cho phép họ biết rằng mình đã bị lừa dối bởi những lời nói láo vĩ đại. Vì đã được nhào nặn trong một khuôn đúc đức tin không cần biết không cần hiểu cho nên họ không thể tin được và không thể chấp nhận những gì không phù hợp với đức tin của họ, bất kể là những điều này đúng với sự thật như thế nào. Điều duy nhất mà chúng ta có thể làm được ngày nay là giúp họ hiểu rõ thêm về chính tôn giáo của họ được chừng nào hay chừng ấy.Vấn đề chính là chỉ có chính họ mới giúp được họ mà thôi. Điều này tùy thuộc nhiều vào căn trí của mỗi người.

         Tài Liệu Tham Khảo :

         Ambrosini, Maria Luisa & Willis, Maria, The Secret Archives of the Vatican, Barnes & Noble Books, New York, 1996

         Binns, L. Elliott, The Decline and Fall of the Medieval Papacy, Barnes & Nobles Books, New York, 1995.

         Bunson, Matthew, The Pope Encyclopedia, Crown Trade, New York, 1995

         Chamberlin, E. R., The Bad Popes, Signet Book, New York, 1969

         Farquhar, Michael , The Treasury of Royal Scandals:The Shocking True Stories of History’s Wickedest, Weirdest, Most Wanton Kings, Queens, Tsars, Popes, and Emperors, Penguin Books, NY., 2001

         Graham, Lloyd M., Deceptions and Myths of the Bible, The Citadel Press Book, New York, 1995.

         Ide, Arthur Frederick, Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex & Corruption in the Vatican, AA Press, TX, 1987.

         Martin, Malachi, The Decline and Fall of the Roman Church, Bantam Books, New York, 1983

         McCabe, Joseph, The“Black International” Series, Edited by E. Haldeman-Julius [Một tập 20 cuốn sách mỏng, mỗi cuốn độ trên dưới 30 trang, viết về mọi mặt của Công giáo mà Linh mục Joseph McCabe gọi là “Xã hội đen quốc tế” (The Black International)]

         Peter de Rosa, Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy, Crown Publishers, New York, 1988

         Rappoport, Angelo S., The Love Affairs of the Vatican, Barnes & Noble Books, New York, 1995

         Wills, Gary, Why I Am A Catholic, Houghton Mifflin Co., New York, 2002

         Groupe “Les Millénaires”, Le Vatican Mis À Nu [Via Col Vento In Vaticano = Cuốn Theo Chiều Gió Trong Vatican], Bản dịch sang tiếng Pháp của Pierre-Emmanuel Dauzat, NXB

 

Những Tin Cùng Chủ Đề Đã Qua:
Sàigòn kỳ lắm . . .
Nghiệp Đời Còn Ở Đâu Đây . . . ? !
Antenna Vũ Thành An – Tên Tội Đồ Dân Tộc
Thư ngỏ gửi Hội đồng Giám mục Việt Nam, Hội thánh Tin Lành Việt Nam
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ”
Thưa Người Công Giáo Việt Nam Cộng Hòa Hèn Hạ,
Vấn Đề Trách Nhiệm của Hội Đồng Giám Mục
Thư ngỏ gửi Hội đồng Giám mục Việt Nam, Hội thánh Tin Lành Việt Nam
Chuyện Thật Tựa Chuyện Đùa !
1000 Năm Tàn Sát & Man Rợ - Nhân Danh Chúa
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
TỔ ĐÌNH TỪ ĐÀM HẢI NGOẠI
615 N Gilbert Rd Irving TX 75061 - 6240 ĐT:(972)986 - 1019
Bạn là người online số:
3925122
Có 0 Khách Đang Online