Ý-Kiến Về “I” (i-ngắn) Và “Y” (i-dài)
Lê Xuân Nhuận
Trước hết, tiết-mục này nằm trong đề-tài “cải-mệnh”* Tiếng Việt (phần “Chữ Viết”). Vì thế, vị nào đã tự bằng lòng với hình-dạng chữ viết tiếng Việt hiện có, không muốn thay đổi gì nữa, thì xin vui lòng bỏ qua bài này. Tôi chỉ trình-bày với những vị nào chấp-nhận có sự “đổi mới” nào đó [ở đây là trong cách viết] của tiếng Việt.
(*“Cải-Mệnh” là chữ/từ của Lê Xuân Nhuận, có nghĩa là đổi mới, cải-tiến, canh-tân – cốt tránh sử-dụng từ-ngữ “cách-mạng” vốn có nghĩa là “cắt mạng”)
A/ Nguồn gốc (origin) của “i” và “y” :
Điều này thì ai cũng biết là “i” và “y” vốn thuộc 26 mẫu-tự trong bộ mẫu-tự (bảng chữ cái) La-Tin căn-bản hiện-đại (Modern Basic Latin Alphabet).
B/ Âm-loại (part of sounds) của “i” và “y” :
Âm-loại nguyên-thủy của “i” (i-ngắn) là nguyên-âm (vowel) là điều rõ-ràng, không ai bàn-cãi ; nhưng của “y” (i-dài) thì vì ít người chú ý nên đã xảy ra nhiều cuộc tranh-luận trong thời-gian qua.
Như đã nói trên, tôi xin trích dẫn tài-liệu về âm-loại nguyên-thuỷ của “y” (i-dài) như sau :
B1) Theo “Merriam-Webster’s Collegiate Dictionary, Eleventh Edition”, trang 266, thì :
“consonant ... a letter representing a consonant – usu. used in English of any letter except a,e,i,o, and u”
Nghĩa là : “Phụ-Âm là một mẫu-tự miêu-tả một phụ-âm – thường được dùng trong tiếng Anh – của bất-cứ mẫu-tự nào, ngoại-trừ các mẫu-tự a, e, i, o và u.” Do đó, chỉ có các mẫu-tự a, e, i, o và u là nguyên-âm (vowel), còn các mẫu-tự khác (trong đó có y) thì đều là phụ-âm (consonant).
Tóm lại, y (i-dài) là một phụ-âm.
B2) Theo “Merriam-Webster’s Collegiate Dictionary, Eleventh Edition”, trang 1403, thì :
“vowel ... 2: a letter or other symbol representing a vowel – usu. used in English of a, e, i, o, u, and sometimes y.”
Nghĩa là : “Nguyên-âm là một mẫu-tự hoặc ký-hiệu khác biểu-thị một nguyên-âm – thường được dùng trong tiếng Anh – của a, e, i, o, u, và đôi khi của y.” Thế thì mẫu-tự y (i-dài) chỉ được dùng như nguyên-âm trong một số ít trường-hợp mà thôi.
Tóm lại, y (i-dài) chỉ là một kiêm-nguyên-âm (không hoàn-toàn là nguyên-âm), vì nó vốn là một phụ-âm.
B3) Theo “The American Heritage Dictionary of the English Language, Third Edition”, trang 2004, thì :
“vowel ... A letter such as a, e, i, o, u, and sometimes y in the English alphabet, that represents a vowel.”
Nghĩa là : “Nguyên-âm là một mẫu-tự miêu-tả một nguyên-âm, tỷ như a, e, i, o, u, và đôi khi là y, trong bộ chữ cái tiếng Anh.” Bởi vậy, y (i-dài) chỉ là một kiêm-nguyên-âm (không luôn luôn là nguyên-âm), vì nó vốn là một phụ-âm.
B4) Theo “Wikipedia, the Free Encyclopedia”, mục vowel (nguyên-âm), thì:
“The phonetic values vary by language, and some languages use I and Y for the consonant, e.g. initial I in Romanian and initial Y in English.
In the case of English, the five primary vowel letters can represent a variety of vowel sounds, while the letters W and Y can represent both vowels and consonants.”
Nghĩa là : “Tiêu-chuẩn ngữ-âm của mỗi ngôn-ngữ một khác; có một số ngôn-ngữ dùng I và Y như là phụ-âm, thí-dụ trong tiếng Lỗ-Mã-Ni thì I là phụ-âm, trong tiếng Anh thì Y là phụ-âm.
Trong trường-hợp tiếng Anh, 5 mẫu-tự nguyên-âm khởi-thủy (a, e, i, o, u) có thể tượng-trưng cho các tiếng nguyên-âm, trong khi đó thì các mẫu-tự W và Y lại có thể biểu-thị cho cả nguyên-âm lẫn phụ-âm. Bởi thế, Y có thể vừa là nguyên-âm vừa là phụ-âm.
B5) Cũng theo bách-khoa từ-điển nói trên, mục consonant (phụ-âm), thì:
“The word consonant is also used to refer to a letter of an alphabet that denotes a consonant sound. Consonant letters in the English alphabet are B, C, D, F, G, H, J, K, L, M, N, P, Q, R, S, T, V, X, Z, and usually W and Y.”
Nghĩa là : “Chữ phụ-âm cũng được dùng để chỉ một mẫu-tự nào trong bảng chữ cái mà biểu-thị một tiếng phụ-âm. Các chữ phụ-âm trong bộ mẫu-tự tiếng Anh là: B, C, D, F, G, H, J, K, L, M, N, P, Q, R, S, T, V, X, Z, và thường thường là W và Y.” Cho nên Y thường thường là phụ-âm (chỉ trong một số ít trường-hợp mới kiêm-nguyên-âm).
Phụ-chú cho Phần B này :
a- Tôi sử-dụng tài-liệu tiếng Anh, nhưng tôi không nghĩ rằng các nguyên-tắc ghi trên chỉ là đặc-tính riêng của tiếng Anh, mà ngôn-ngữ nào có hệ-thống chữ viết sử-dụng bộ chữ cái La Tin – mặc dù thay đổi cách nào (như chữ quốc-ngữ Việt-Nam lâu nay) – cũng không thể phủ-nhận các nguyên-tắc gốc của các mẫu-tự La Tin.
b- Nhiều người nói đến “bán-nguyên-âm”. Đó là nói về ngữ-âm (cách phát-âm). Đằng này, tôi nói về âm-loại (cách phân-biệt loại âm); mà khi diễn-tả chữ “y” vốn là phụ-âm mà cũng được dùng như nguyên-âm, tức “y” chỉ là “nguyên-âm một phần”, và tôi định gọi nó là bán-nguyên-âm, thì chữ “bán-nguyên-âm” lại đã được dùng về mặt ngữ-âm rồi; nên tôi tạm dùng chữ “kiêm-nguyên-âm” để nói về mặt âm-loại của nó.
C/ Âm-loại* của “Y” trong bộ mẫu-tự tiếng Việt hiện nay :
(*“âm-loại” tức “part of sounds” là chữ/từ do Lê Xuân Nhuận đặt ra)
Các nhà sáng-chế chữ Việt đầu tiên đã dùng mẫu-tự y (i-dài) với tư-cách của một nguyên-âm hoàn-toàn (vowel), không cho nó có một vai trò phụ-âm nào cả. Cho nên, ít ai thấy nó là một phụ-âm (mặc dù người Việt vẫn đọc và viết các chữ nước ngoài trong đó “y” (i-dài) là một phụ-âm, thí-dụ: Yahoo, Yahweh, yam, Yankee, yard, year, yellow, yes, yesterday, yet, yield, yoga, yoke, you, young, v.v. và v.v...)
Tóm lại, ta tái-xác-định âm-loại của mẫu-tự Y, bỏ nó ra khỏi nhóm mẫu-tự thuộc loại nguyên-âm (vowel), kể cả “kiêm-nguyên-âm”, và liệt hẳn nó vào nhóm mẫu-tự thuộc loại phụ-âm (consonant) giống như tất cả các phụ-âm khác.
D/ Cách phát-âm mẫu-tự phụ-âm Y :
Trong tinh-thần “Cải-Mệnh Tiếng Việt (Tiếng Nói và Chữ Viết)”, các mẫu-tự phụ-âm như B, C, D… được phát-âm là bơ, cơ, đơ, v.v… [chứ không phải là bờ, cờ, dờ…] nên mẫu-tự phụ-âm Y được phát-âm là “Giơ”, ngắn-gọn và giản-dị vô-cùng – không còn điểm nào để bị chống+chê.
Cách đánh vần :
ya= giơ+a là gia ; yang= giơ+ang là giang ; ay= a+giơ là ay ; uy= u+giơ là uy
E/ Quá-Trình Dùng I Thay Y:
* Từ cuối thế-kỷ 19, nhà biên-khảo và soạn từ-điển chữ Việt đầu tiên trong văn-học-sử Việt-Nam, tác-giả bộ “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895), đã tự viết tên mình là Huình Tịnh Của [thay cho Huỳnh Tịnh Của];
* Vào đầu năm 1957, trên báo “Bách Khoa”, có một số ký-giả đã dùng mẫu-tự I thay cho Y, trong đó có một nhà văn đã viết tên mình là Nguyễn Ngu Í [thay cho Nguyễn Ngu Ý];
* Năm 1970, cụ Trúc Thiên đã xuất-bản Tập I Bộ “Thiền Luận”, trong đó, theo nhà biên-khảo Minh Di, có cả trên/dưới ngàn chữ mà mẫu-tự “Y” được thay-thế bằng mẫu-tự “I”.
* Vào thập-niên 1970, nhà ngôn-ngữ-học Nguyễn Đình Hòa tại Hàn-Lâm-Viện Illinois (USA); cũng như vào năm 2002, Giáo-Sư Đoàn Xuân Kiên (Anh) trong bài-viết “Nói Thêm về Chữ I và Chữ Y trong Chính Tả Tiếng Việt” (Tạp-Chí Định Hướng); và vào năm 2014, nhà văn Bạch Diện Thư Sinh (Hoa Kỳ) trong tác-phẩm “Mặt Trận Đại Học” (Tủ Sách Hoàng Sa); v.v…, đã từng chủ-trương thay mẫu-tự “Y” bằng mẫu-tự “i”.
* Năm 1996, Giáo-Sư Lê Hữu Mục, tác-giả một bài-viết trong tác-phẩm “Trần Lục” (Canada), đã đổi tất cả các mẫu-tự y “y” (i-dài) ra thành “i” (i-ngắn)…
F/ Kết-Luận :
I đọc là I, thuộc về nguyên-âm.
Y đọc là Giơ, thuộc về phụ-âm.
Cách đánh vần :
Ai= a+i là Ai Ay=a+giơ là Ay
Hai= hơ+ai là Hai (hơ+a là ha + i + ai là Hai)
Hay= hơ+ay là Hay (hơ+a là ha + giơ + ay là Hay)
Ui= u+i là Ui Uy= u+giơ là Uy
Tui= tơ+ui là Tui (tơ+u=tu, u+i=ui là Tui)
Tuy=tơ+uy là Tuy (tơ+u=tu, u+giơ=uy là Tuy)
Thay Y bằng I:
Trong lúc ta viết :
Bi, Chi, Di, Đi, Ghi, Khi, Mi, Ni, Nghi, Nhi, Phi, Ri, Si, Thi, Tri, Vi, Xi, với mẫu-tự “i” sau các phụ-âm liên-hệ,
Tại sao ta lại phải viết :
Hy (sinh), Ký (sự), Ly (cách), Mỹ (thuật), Ty (sở), với mẫu-tự “y” sau các phụ-âm liên-hệ, mà đọc lên thì chẳng khác gì với các chữ tận-cùng bằng “i”?
Vậy ta hãy viết :
Hi (sinh), Kí (sự), Li (cách), Mĩ (thuật), Ti (sở), cùng một âm+thanh giống nhau, mà lại gọn-gàng và thống-nhất với đồng-bọn của chúng ở cuối các chữ khác.
Lê Xuân Nhuận