Nguyễn Trường Tộ : Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất Con Người và Sự Thật
Bùi Kha - California, ngày 1-30-1998
Nguyễn Trường Tộ ít được người biết đến, cho tới khi tờ Nam Phong khởi đăng bài của các ông Sở Cuồng Lê Dư, Lê Thước, Nguyễn Trọng Thuật, đã biến Nguyễn Trường Tộ một người vô danh trở nên một nhân vật lịch sử. Tiếp đến, ông Từ Ngọc Nguyễn Lân đã viết và cho nhà xuất bản Viễn Đệ xuất bản vào năm 1941 ở Huế cuốn “Nguyễn Trường Tộ”. Giai đoạn này, ông Đào Đăng Vĩ dịch ít bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ cho đăng ở báo "La Patrie Annamite", không biết ông đã tìm thấy ở đâu hay ai đã cung cấp cho ông những bản điều trần đó để ông dịch. Tiếp đó, ông Vĩ đã viết và cho xuất bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ et Son Temps”.
Hai mươi năm sau, năm 1961, ông Đặng Huy Vận và Chương Thâu đã viết chung và cho xuất bản cuốn “Những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ cuối thế kỷ 19”.Thời gian này, tập san “Nghiên cứu Lịch sử” cũng cho đăng một số bài của các ông Văn Tân Hoàng Văn Nọn, Hoàng Nam, Hồ Hữu Phước, Đặng Huy Vận, Chương Thâu và bà Phạm Thị Minh Lệ, . . .
Trong thời gian này, ở trong Nam không có quyển sách nào viết về Nguyễn Trường Tộ được xuất bản, nhưng có nhiều bài viết tôn vinh Nguyễn Trường Tộ trên các tạp chí Văn Đàn và Văn Hoá Á Châu, . . . Ngoài ra Tinh Việt Văn Đoàn còn thành lập “Hội phát triển tinh thần Nguyễn Trường Tộ”. Còn trên tạp chí Trình Bầy của chủ nhiệm Thế Nguyên Trần Gia Thoại có đăng một bài ca ngợi Nguyễn Trường Tộ là bài “Nội dung các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ” của sử gia Nguyễn Khắc Ngữ đăng trong số 33-35, từ tháng 12 năm 1971 đến tháng 2 năm 1972.
Đến năm 1988, Linh mục Trương Bá Cần cho xuất bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di cảo” (tập I). Đây là cuốn sách đầy đủ nhất từ trước tới nay. Năm 1991, Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm thành phố Hồ Chí Minh cho tái bản cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di cảo” (Tập I – con người) của linh mục Trương Bá Cần. Đến năm 1992, Trung Tâm Hán Nôm thành phố Hồ Chí Minh cho ra cuốn “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước” do nhiều người viết. Ở hải ngoại, năm 1998 nhóm Giao Điểm cho ra mắt quyển “Nguyễn Trường Tộ - thực chất con người và di thảo”.
Đọc bản tiểu sử của ông Tộ, do ông Lê Thước công bố: “Ông bị bệnh chết trẻ, ông có học nhưng không được đi thi vì là người Gia Tô, ông có tài mà không được trọng dụng, vì thế mà ai không trạnh lòng thương cảm.” Những bài viết về ông đa số là đã dành cho ông nhiều thiện cảm. Nhưng có một số người đã ca tụng, tôn vinh ông quá lố, như ông Lê Thước đã cho rằng : “Tư tưởng của người , học thức của người vượt quá xa người đương thời mấy vạn lần”; ông Nguyễn trọng Thuật đánh giá : “Nguyễn Trường Tộ ngang với Khang Hữu Vi của Tàu” ; còn ông Từ Ngọc Nguyễn Lân cho rằng : “Người Việt Nam sáng suốt nhất trong thời kỳ lịch sử rối ren nhất trong lịch sử Việt Nam, một nhà đại học vấn, đại kiến thức, đại tư tưởng và đại nghị luận. Một người như thế đáng được cả quốc dân tôn sùng, tượng đồng bia đá kể còn ít.” Có người còn cho rằng: “Ông là bậc kỳ tài, có những tư tưởng tân tiến và một tấm lòng sâu nặng vì nước vì dân”. Có người lại hỏi: “Tại sao vua quan thời Tự Đức không biết nghe theo Nguyễn Trường Tộ, nếu không bổ nhiệm ông làm thủ tướng toàn quyền như hiệp sĩ Tòa Thánh Ngô Đình Diệm sau này thì cũng phải mời ông vào ngôi vị cố vấn khoa học kỹ thuật tối cao cho vua quan triều đình”. . . .
Đa số người viết đề cao vai trò canh tân của Nguyễn Trường Tộ thì nội dung trong bài phải đả, phải công kích, mạt sát triều đình Tự Đức như phản động, ngu dốt, phong kiến, bảo thủ, cổ hủ, . . . không chịu nghe lời canh tân của Nguyễn Trường Tộ nên mới mất nước vào tay thực dân Pháp. Có người còn viết bịa ra là phái đoàn Phan Thanh Giản đi sứ sang Pháp, lúc trở về có tường trình cho vua Tự Đức biết văn minh của nước Pháp như “lấy nước ở tường ra”, “đèn cháy ngược” thế mà vua Tự Đức còn u mê không chịu nghe lời ông Nguyễn Trường Tộ mà canh tân đất nước. Luận cứ này còn đem cả vào trường học giảng dạy cho học sinh nữa.
Vua Tự Đức chết năm 1883, ông Phạm Phú Thứ chết năm 1882, ông Nguyễn Trường Tộ chết năm 1871. Tất cả những vị nêu trên cũng như trên toàn cầu, vào giai đoạn đó, chưa có ai biết hình thù cái bóng đèn điện nó ra sao. Cái bóng điện được thắp sáng lần đầu tiên ở trên trái đất này là ở trong phòng thí nghiệm của ông Thomas Edison, vào ngày 19 tháng 10 năm 1879, cháy liên tục đến ngày 21 tháng 10 năm 1879, ông cho tăng voltage, nó tắt liền (At 1:30PM on October 21, Edison decided to increase the voltage. Not until then did the bulb burned out). Phải qua giai đoạn thiết lập nhà máy làm bóng điện, nhà máy phát điện, trạm biến điện, cột điện, contact, dây chuyền điện . . . Đến cuối thế kỷ, các thành phố Mỹ và Châu Âu mới được thắp sáng khắp thành phố và tư gia vào ban đêm. Như vậy, thời ông Phan Thanh Giản, ông Nguyễn trường Tộ làm gì có đèn cháy ngược ? Điều này chỉ là tuyên truyền láo thôi.
* * * * *
Nguyễn Trường Tộ, Ông Là Ai ?
Về năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ, Lm Trương Bá Cần đã viết như sau: “Về năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ thì theo Lê Thước trong bài trong bài Nguyễn Trường Tộ tiên sinh, tiểu sử đăng trong Nam Phong số 102 và hầu hết các tác giả tiếp sau đó đều nói Nguyễn Trường Tộ sinh năm 1828, Minh Mạng năm thứ 9. Riêng Nguyễn Trường Cửu, con trai Nguyễn Trường Tộ, trong sự tích ông Nguyễn Trường Tộ, không nói năm sinh, nhưng nói mất ngày 10 tháng 10 năm Tự Đức 24… thọ 41 tuổi.
Hiện nay chúng ta không có đủ tài liệu để xác định một cách chắc chắn về năm sinh của Nguyễn Trường Tộ. Nhưng nếu ông năm Tự Đức 24, tức năm 1871, và thọ 41 tuổi, thì năm sinh phải là 1830 chứ không thể là 1828. Ngày mất, là tuổi thọ của một người, thường được gia đình truyền đạt một cách chuẩn xác. Trong bài tiểu sử của ông Tộ do ông Lê Thước công bố là năm 1860 ông Tộ đã 33 tuổi. Trong bài viết của ông Đinh Văn Chấp có cho biết ông Tộ sinh năm 1818 và chết lúc 43 tuổi.
Ông Tộ mất lúc ông Nguyễn Trường Cửu vừa được 18 tháng, còn quá nhỏ, chưa thể nào đàm thoại chuyện trò gì với bố được, và lúc lấy vợ có thể ông Tộ nói bớt tuổi để cho người phối ngẫu vui là ông chồng còn trẻ thì sao ? Cho nên ông Tộ sinh năm 1828 hay 1830 tôi cũng chưa tin, có thể tuổi ông còn cao hơn nữa. Trước năm 1858, ông Tộ đã là linh mục. Ông Nguyễn Hoàng sinh năm 1839, mãi đến năm 1868, tức 29 tuổi mới được thụ phong linh mục. Căn cứ vào đó, có thể ông Tộ sinh năm 1828 hay 1827, hay 1826 chứ khó có thể ông Tộ sinh năm 1830 được.
Trong Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ ghi năm sinh của ông Nguyễn Trường Tộ là năm 1827. Trong Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Từ Điển của giáo sư Trịnh Văn Thanh, giáo sư sinh ngữ trường Jean Jaques Rousseau và Leuret ở Saigon, đã bỏ ra 10 năm để hòan thành tác phẩm và nhờ sinh ngữ, có thể ông đọc được tài liệu của Hội Truyền Giáo hay ở đâu đó, mới biết được năm sanh của Nguyễn Trường Tộ là năm 1818. Năm sanh này có vẻ hợp lý , vì lẽ sau đây:
- Trong Di Thảo số 6, ông Tộ viết: Nhân vì chân tôi bị tê bại sắp thành kẻ phế nhân, nằm ngửa ra mà viết, tinh thần buồn bã rối loạn, tự biết nói năng không thứ tự.
- Trong Di Thảo số 7, ông Tộ cho biết: Tôi hiện nay bị bệnh tê thấp chưa khỏi
- Trong Di Thảo số 8, ông Tộ viết: Tôi trước đây bị ốm nằm ở Gia Định, điều dưỡng đã gần hai năm, nay 10 phần đã giảm 5, 6
Những điều ông Tộ cho chúng ta biết ngày nay y khoa gọi là bệnh phong thấp cấp tính, tiếng Pháp gọi là rhumatisme articulaire aigue, tiếng Anh là acute articular rheumatism. Bệnh phong thấp hay tê thấp thường xẩy ra ở người lớn tuổi, khoảng 45 trở lên. Nếu không có thuốc chữa thì tim sẽ yếu dần, đi đến chỗ chết trong khoảng 10 năm. Như vậy ông Tộ bị tê thấp từ cuối năm 1863 hay đầu năm 1864 và ông Tộ qua đời năm 1871, nghĩa là sau 7 năm bị bệnh. Căn cứ vào bệnh lý của ông Nguyễn Trường Tộ, ông Tộ mất vào năm 53 tuổi, nghĩa là năm sanh của ông Tộ là năm 1818 là có lý hơn.
Trong tờ trình của Tỉnh Thần Nghệ An của ba ông Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đản, Trần Nhượng đăng trong cuốn “Nguyễn Trường Tộ - con người và di thảo” năm 1988, Lm Trương Bá Cần, trang 478 và quyển tái bản năm 1991, nơi trang 189, đây là tờ trình lên vua Tự Đức của tỉnh thần Nghệ An, do lệnh của vua hỏi thăm tung tích của Hậu, Tộ. Sau khi tiếp chuyện với giám mục Ngô Gia Hậu (Gauthier), ba ông Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đảm và Trần Nhượng đã viết tờ trình lên vua Tự Đức như sau:
- Lại nói tên Trường Tộ biết khá nhiều về tình thế nước ta, nay lại là đệ nhất thông ngôn cho giám đốc Tây, chỉ vẽ mọi việc thông dịch, xử lý trong các giấy tờ qua lại đều do y cả (quyển tái bản 1988, trang 478).
- Lại nói tên Trường biết khá nhiều tình thế nước ta, nay là đệ nhất thông ngôn cho giám đốc Tây, chỉ vẽ mọi việc thông dịch, xử lý các giấy tờ qua lại đều do y cả (quyển tái bản năm 1991, trang 189). Tên Trường Tộ này còn là tên Trường, bỏ đi chữ Tộ.
Thần hỏi : Gia Hậu đề cập đến Trường Tộ là người như thế nào vậy ?
Đáp : Tên Trường Tộ trước là linh mục. Từ khi thuyền Tây đến Gia Định thì phần kém đạo hạnh, lệch lạc ra ngoài phạm vi đạo trưởng, năng lui tới Tây soát tìm vui (quyển xuất bản năm 1991, trang 189) như trên bỏ đi chữ Tộ.
Tờ trình này viết vào ngày 26-4-1870. Giám mục Ngô Gia Hậu (Gauthier) có thể không ưa Tộ, không còn trọng dụng ông Tộ nữa nên tiết lộ cho triều đình ta những gì trước đã được giữ kín từ lâu về ông Tộ, gọi ông Tộ là kiến trúc sư, có trí nhớ lạ thường, có tài năng lỗi lạc . . . Bây giờ ông Tộ làm việc cho pháp nghạch thông ngôn lên đến hạng nhất, lại là cựu linh mục kém đạo hạnh, là người phản bội tráo trở khi giám mục Hậu nói: Gia Hậu nhân y nói người Tây tráo trở nên lấy câu này mà gọi người đa đoan đó tên là Trường”.
Lại nói : Y đã vốn theo tả đạo, làm đạo trưởng, chẳng biết gì mà bàn lếu láo đến công việc thật là không phải (trang 189-478). Trước giám mục Hậu đánh bóng cho ông Tộ là kiến trúc sư, có trí nhớ lạ thường, có tài năng lỗi lạc. Đến năm 1870, Nguyễn Trường Tộ được giám mục Hậu cho biết là linh mục kém đạo đức, là thông ngôn cho Pháp, chẳng biết gì mà nghị bàn lếu láo đến công việc thật là không phải, kẻ tráo trở…
Người ta cũng ngạc nhiên rằng một người làm việc cẩn trọng như Lm Trương Bá Cần mà chỉ mới ba năm sau ông đã sửa đổi lịch sử. Ông cố che giấu chức vụ linh mục cho Nguyễn Trường Tộ, không biết có ẩn ý gì? Ông viết: “Giáo sĩ (tức là bác sĩ Hernaiz) không phải là một linh mục hay giáo sĩ tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi là giáo sĩ, như Nguyễn Trường Tộ cũng được gọi là giáo sĩ. Người giáo hữu đều có nhiệm vụ tông đồ truyền đạo, lôi kéo được nhiều người ngu ngốc theo đạo thì được giấy ban khen.” Như vậy thì tất cả giáo dân đều được gọi là giáo sĩ không thể phân biệt là trí thức mới được gọi là giáo sĩ, như vậy là sai. Các cụ ta gọi ông đạo trưởng Nguyễn Trường Tộ là giáo sĩ để phân biệt hai chữ tu sĩ cho các tôn giáo khác là có ẩn ý trong đó có giáo dở , gươm giáo và giáo gian, cũng như ở phương tây người ta gọi Jesuit là thầy tu Dòng Tên, vì những công tác họ làm lưu manh lươn lẹo nên sau này Tự Điển có thêm nghĩa chữ Jesuit như sau: “Người hay mưu đồ, người hay mập mờ nước đôi, người đạo đức giả, người giảo quyệt”.
Vì Nguyễn Trường Tộ là đạo trưởng tức linh mục từ trước năm 1858 nên ông phải có thời gian vào học chủng viện. Vì thế bản lý lịch, tiểu sử viết về Nguyễn Trường Tộ của ông Lê Thước và Nguyễn Trường Cửu là giả mạo ngụy tạo vào đầu thế kỷ 20 mà thôi.
* * * * *
Linh Mục Nguyễn Trường Tỗ Là Người Yêu Nước ?
Linh mục Nguyễn Trường Tộ là người Gia-Tô, lúc sanh ra được đem ra nhà thờ để chịu phép rửa tội (baptême). Ghi tên vào sổ đạo của giáo xứ, địa phận để được gia nhập một quốc gia mới là quốc gia Vatican. Nước Vatican bao giờ cũng ở trên quốc gia trên trần thế, nơi đã sinh ra chỉ là tạm bợ. Mà nước Vatican là đồng minh với nuớc Pháp nên ông ta đã về cộng tác, làm việc với người Pháp. Cho nên linh mục Trương Bá Cần đã không ngượng ngùng khi viết: Đầu năm 1861, Nguyễn Trường Tộ trở về Saigon (làm việc cho Pháp) với hoài bão lớn là đem những hiểu biết thu nhập được của mình để giúp đất nước (?) canh tân, tự cường tự lực ngõ hầu tránh được hoạ mất nước” (Nguyễn Trường Tộ, tập I, trang 220). Ở vị thế đó, rất khó mà xét định được ông Tộ có là người yêu nước nồng nàn không ?. Còn với đại khối phi Gia-Tô, lòng yêu nước được chứng tỏ khi có ngoại xâm là lăn xả vào cuộc kháng chiến để đánh quân ngoại xâm để bảo vệ đất nước, hoặc cầm kiếm cầm súng, hoặc cầm bút như cụ Nguyễn Đình Chiểu, cụ Phan Văn Trị, hoặc lao động yểm trợ chiến trường . . . ,Giặc đến nhà đàn bà còn phải đánh huống hồ là nam nhi.
Tác giả bài thơ nổi tiếng “Hồ Trường” là ông Nguyễn Bá Trác cũng bôn ba nơi hải ngoại để tìm đường phục quốc. Nhưng về sau tuyệt vọng phải về nước làm việc cho Pháp. Nguyễn Thái Bạt, người đã du học ở Nhật, đã từng cùng với cụ Phan Bội Châu dựng bia kỷ niệm ông Asaba Sakitaro ân nhân cách mạng Việt Nam. Ông đã tuyệt tích không ai biết tin tức gì cả. Về sau, được biết ông đã đổi tên là Nguyễn Phong Di làm việc ở toà khâm sứ Huế (Hồi Ký Đặng Thái Mai, trang 236). Cả ba người làm việc với Pháp, không biết lòng yêu nước của Nguyễn Trường Tộ có thể so sánh với hai ông Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt được không?
Nếu Nguyễn Trường Tộ mà viết điều trần gửi lên vua Tự Đức trước năm 1858, nghĩa là trước khi đi Hồng Kông đọc tân thư của Tàu thì ông là người có tư tưởng canh tân tôi phải kính phục, và như thế đích thực ông là người yêu nước khỏi phải bàn cãi, không phải thắc mắc nghi ngờ gì nữa.
Trước Nguyễn trường Tộ có ông Vũ Duy Khuê thời vua Minh Mạng đã đề nghị mở các hải cảng cho người ngoại quốc vào buôn bán và cho tự do tôn giáo. Vua Minh Mạng đồng ý cho người ngoại quốc vào tự do buôn bán. Còn về tôn giáo, vua Minh Mạng cử một phái đoàn sang Pháp điều đình. Phái đoàn chỉ được vài bộ trưởng tiếp, còn các giáo sĩ trong Hội Truyền Giáo thì chống đối, tố cáo vua Minh Mạng tàn ác, vô nhân đạo. Họ trông mong chính phủ Pháp đem chiến hạm qua biểu dương ở biển Đông. Phái đoàn trở về Việt Nam thì vua Minh Mạng đã mất, vua Thiệu Trị lên thay. Năm 1847, Lapierre và Rigault de Genouilley đem chiến thuyền đến Đà Nẵng bắn đắm 5 thuyền đồng của ta. Trong “Dương Sự Thuỷ Mạt” có cho biết tên 5 tầu đó là: Kim Đằng, Phấn Bằng, Linh Phụng, Thọ Hạc, Vân Bằng. Đến thời Tự Đức, năm 1851, ông Phạm Phú Thứ qua Macao, sang Hàng Phố, dến Quảng Châu đã tận mắt nhìn thấy hàng hoá của Tây phương tràn ngập, bày la liệt và thuyền máy nhiều tầng của Tây phương chạy trên sông. Lẽ dĩ nhiên đi chuyến này về có tường trình cho vua Tự Đức những điều đã thấy. Năm 1856, khi làm việc ở Nghệ An, ông đã hướng dẫn cho thợ đóng một chiếc tầu vận tải đường biển kiểu mới và một chiếc tầu đồng đặt tên là Thủy Nhạc. Ông đã thi hành thuyết tri hành hợp nhất, ông đã được vua Tự Đức khen thưởng bốn lần.
Ngoài ra còn các bản điều trần của các ông Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Nghĩa, Lê Danh Đề, Nguyễn Tiến Thọ, Hoàng văn Tuyển, Trần Tiễn Thành, . . .
Về các vấn đề cấp bách như cách thức tuyển người, định cư dân chúng, phân chia ruộng đất, việc miễn giảm thuế, luyện tập quân sĩ, dùng đồ nội hoá, khai thác mỏ, đúc súng, . . . vua Tự Đức ban hành dụ ruộng đất không được bỏ hoang, cho phép Chu Triệu Kỳ người Trung Hoa khai thác mỏ vàng An Bảo ở Thái Nguyên, . . . Vua Tự Đức còn là vị vua thông minh ham tìm hiểu, ông đã nhờ các thương gia Tàu mua sách báo. Ông thường đọc báo ngoại quốc viết bằng chữ Hán nhu Hong Kong Daily Press, Pekin Gazette và có thể các sách tân thư của Tàu. Vì thế, sau này, ông Phạm Phú Thứ lập nhà in, nhà xuất bản Hải Học Đường in một số tân thư của Tàu như :
- Bác Vật Tân Biên (khảo cứu về các môn khoa học tự nhiên)
- Khai Môn Yếu Pháp (phương pháp khai mỏ)
- Hàng Hải Kim Châm (kỹ thuật đi biển)
- Vạn Quốc Công Pháp (công pháp các nước)
- Và cuốn Tây Hành Nhật Ký (nhật ký đi Tây của ông)
Ông còn định in các cuốn : Địa cầu Thuyết Lực, Danh Hoàn Chi Lược, Cách Vật Nhập Môn thì bị triệu về kinh, công việc bị bỏ dở và sau đó ông mất ngày 5-2-1882.
Theo sách ông Chương Thâu trang 14 cho biết từ lúc vua Tự Dức lên ngôi cho đến năm 1862, đã có 40 vụ dân chúng nổi loạn và các vụ nổi loạn này phần nhiều do sự xúi giục của bàn tay lông lá. Bản báo cáo ngày 3-6-1859 trong châu bản triều Tự Đức, trang 51, cho biết trên rừng thì dân thiểu số hoành hành, cướp của giết người và trong làng xã thì dân theo đạo Gia Tô nổi lên làm loạn, ngoài biển thì tàu Pháp và thuyền Tầu Ô đánh phá. Thù trong giặc ngoài, triều đình chỉ còncó con đường tái lập an nih và lo chống đỡ, đâu có thì giờ lo đến việc canh tân xứ sở nữa. Kể từ tháng 4 năm 1863, khi các bản điều trần của ông Nguyễn Trường Tộ gửi lên, vua Tự Đức có lẽ đã đọc các tân thư của Tàu rồi nên đã phê: Nguyễn Trường Tộ quá tin những điều y đề nghị…tại sao lại thúc giục nhiều thế, khi mà các phương pháp cũ của Trẫm đã rất đủ để điều khiển quốc gia rồi” ( Lịch sử Việt Nam quyển 2, trang 62)
Muốn thực hiện các dự án lớn có tính cách lâu dài thì đất nước phải có an ninh, phải có tài chánh, phải có người có khả năng chuyên môn, mà người nắm vững vấn đề đó là vua Tự Đức. Một người ngoại quốc, tiến sĩ Yoshihary Tsuboi, sau khi đọc các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã phê bình: Nguyễn Trường Tộ đề nghị đi vay tiền của các thương gia Hương Cảng, nhưng không boa giờ ông đề nghị một giải pháp nào tạo ra các nguồn kinh phí thật sự (Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847-1885, trang 277- Nguyên tác: L’empire Vietnamien face à la Frace et à la Chine 1847-1885 do Nguyễn Đình Đầu dịch ra Việt ngữ). Hiện nay các nước đi vay tiền của ngoại quốc để phát triển quốc gia, các quốc gia này còn được hưởng lợi nhờ cuộc chiến Việt Nam, thế mà nay tiền lời còn không trả nổi, chưa nói đến trả vào vốn, đó là Thái Lan, Đại Hàn, Nam Dương, Mã Lai Á, các nước đó đang trên đường đi đến phá sản. Nói thì dễ, làm mới khó. Trong bài viết của tiến sĩ Vĩnh Sinh có đăng trong sách này đã trưng dẫn nhà đại tư tưởng canh tân Nguyễn Trường Tộ đã mượn ý và đạo văn của Từ Kế Dư trong “Doanh Hoàn Chi Lục” và Ngụy Nguyên trong “Hải Quốc Đồ Chi”.
Tháng tư năm 1863, Nguyễn Trường Tộ bắt đầu gửi bản điều trần đầu tiên “Thiên hạ đại thế luận” đề nghị triều đình ta hoà với Pháp: Sự thế hiện nay chỉ có hoà. Hoà thì trên không cưỡng lại ý Trời, dưới có thể làm cho dân đỡ khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của bọn gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài, thật là hay không kể xiết”.
Nhiều người ca tụng ông Nguyễn Trường Tộ là người thông minh lạ thường, là bậc kỳ tài trong thiên hạ mà ông làm thông ngôn cho Charner lại không biết Charner khẳng định : “Nếu chúng ta đứng vững ở đất Nam Kỳ và tạo ra đây một trung tâm buôn bán quan trọng thì chúng ta không thể chiếm lấy Saigon mà thôi. Quyền lợi của chúng ta đòi hỏi phải bành trướng giao dịch ra toàn Nam Kỳ, một xứ gồm những tỉnh phì nhiêu nhất, giầu nhất của vương quốc này” (Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân, trang 75). Ông làm việc cho Pháp ở Sài Gòn từ năm 1861 há không biết ngày 5 tháng 5, 1862, phái đoàn của Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Sài Gòn ký một hiệp ước hòa bình và hữu nghị với Pháp và Tây Ban Nha ? Trong hiệp ước này có một điều khoản quan trọng là: Triều đình nước Nam không được tự ý cắt đất giảng hoà với bất cứ nước nào nếu chưa được Pháp ưng thuận.” Đây chắc là ông cố vấn cho Pháp để chặt đứt những đề nghị của ông có trong điều trần sau này : “Dùng ngoại giao với Anh để nhờ Anh đánh Pháp” “Nhờ kẻ khác để ly gián họ” “Nhờ người khác để đánh họ”. Như vậy, nếu triều đình nhượng cho Anh hay Mỹ hay Đức hải cảng Đà Nẵng để dùng họ đánh Pháp đâu còn thực hiện nữa mà ông cứ viết điều trần làm gì. Đúng như giám mục Gauthier gọi, ông là tên tráo trở. Chưa đủ quân số, chưa đủ phuơng tiện để dứt điểm thành phố Huế, ngày 10 tháng 6 năm 1859, Pháp đã nhờ một ngưới Trung Hoa tên là Lý Thuận Nhất đưa một bức thư cầu hòa cho triều đình vua Tự Đức. Triều thần họp bàn, đa số chủ trương hòa, có người còn chủ trương hòa vô điều kiện như Lê Chí Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Dao và Nguyễn Hào. Kết qủa là triều đình ta đã đồng ý ký Hiệp Ước Hòa Bình Và Hữu Nghị vào ngày 5 tháng 6 năm 1862 tại Sài Gòn. Như vậy đến tháng 4 năm 1863 ông mới viết điều trần đề nghị hòa với Pháp nghĩa là làm sao, trong khi triều đình Tự Đức đã chủ trương từ lâu rồi và đã ký Hiệp Ước Hòa Bình với Pháp và Tây Ban Nha ngày 5 tháng 6 năm 1862, trước đó một năm rồi.
Ông Tộ đề nghị nhà vua nên dùng giám mục, linh mục Pháp gíup canh tân đất nước. Vua Tự Đức đã phê : “Liệu có giúp được không ?” Trong Di Thảo 12, ông Tộ báo tin giám mục Gauthier có thể nhận giúp đi Pháp thuê thợ thày và mua máy móc để mở trường huấn luyện về nghề nghiệp. Vua Tự Đức đã mời giám mục Gauthier cùng Nguyễn Trường Tộ về Huế, đón rước có lọng che như các quan lớn trong triều đình. Theo đề nghị của giám mục nên cho một số giáo sĩ biết ngoại ngữ sang Pháp học một năm để giúp dạy ứng dụng. Nguyễn Trường Tộ đề nghị Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu, . . . Tất cả đề xuất của Nguyễn Trường Tộ đều được triều đình nghe theo.
Đến Pháp, ông Tộ không áp dụng kế hoạch ngoại giao, vào toà đại sứ Anh hay Đức để vận động họ đánh Pháp cứu nước mà chỉ đi liên lạc với hội khai thác mỏ. Ông không chịu đi gặp lãnh tụ đảng đối lập ở Pháp để thực thi kế họach như ông đã viết, làm áp lực với Pháp. Được dịp để thi thố tài năng cứu nước, ông không làm, tri hành không hợp nhất, thành ra chỉ là thằng nói phét thôi. Ông bảo nhờ giám mục, linh mục để canh tân đất nước thì vua Tự Đức đã thực thi, nhờ giám mục Gauthier và ông mở trường dạy nghề. Kết quả ra sao ? Ông đem về được hai linh mục : Linh mục Thông (Montrousies) và Linh mục Đông (Renault) để làm giáo sư và truyền đạo hợp pháp. Giáo sĩ Hernatz điếc nặng, đến Việt Nam mấy ngày rồi về Pháp. Đem về chỉ có ba giáo sư, cả thảy chỉ còn lại hai người thì mở trường cái gì ? Ông cổ võ nên hoà với Pháp là thượng sách, ông đang ở bên Pháp, thống đốc La Grandière đem quân lấy luôn ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ở Pháp, ông viết nhăng viết cuội bản “Tế cấp bát điều” gửi về, ông không một lời phản đối hay có văn thư phản đối chính phủ Pháp, bộ Ngọai giao Pháp về việc Pháp đã phản bội hòa ước ký ngày 5-6-1862, ngang nhiên chiếm ba tỉnh miền tây Nam Kỳ. Lòng yêu nước của ông để đâu và ông có là người yêu nước không ?
Trong Nguyễn Trường Tộ, Tập I, trang 67, Linh mục Trương Bá Cần cho biết trong Di Thảo số 51, ông Tộ cho biết: “Hiện còn ba bốn tập trình bầy sự việc, xin đợi 6 tháng gửi lên”. Như thế là Nguyễn Trường Tộ còn viết thêm ba bản văn nữa, văn bản số 54 đang dở dang…và từ trần ngày 22-11-1871. Bây giờ có tới 58 bản điều trần cơ. Vậy bản dư ai là người viết ?
Trong “Thiên hạ đại thế luận”, ông Tộ viết : “Hơn nữa ở Âu Châu việc võ bị chỉ có nước Pháp là đứng hạng nhất, hùng mạnh nhất không thua ai cả. Họ lại có tính khẳng khái, hiếu chiến, với uy phong của một quân đội có xe sắt.” Đây có thể là bản điều trần giả, có thể người ở thế kỷ 20 cho thêm vào hai chữ “xe sắt”. Chiếc xe sắt đầu tiên được thế giới biết đến là do Anh chế tạo vào năm 1914, thời ông Nguyễn Trường Tộ làm gì có động cơ nổ, thì Pháp làm gì mà có xe sắt ? Nên biết rằng những văn bản của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta có hiện nay đều là những bản được sao chép lại (Nguyễn trường Tộ của Trương Bá Cần trang 105). Trong sách của Chương Thâu, trang 18, còn cho biết có rất nhiều bản điều trần quan trọng. Bản điều trần số 55 còn đưa Nguyễn Trường Tộ thành nhà tiên tri “nhưng nước ta có một nước mạnh như vậy ở bên cạnh cũng rất đáng lo” ý chỉ đại chiến thứ hai, quân đội Nhật sang chiếm nước ta. Nhưng thời đó nước Nhật đã có cái gì chứng tỏ là canh tân đâu ? Ông Tộ chết năm 1871, năm 1872 nước Nhật mới bắt đầu làm đường xe lửa Tokyo-Osaka và năm 1871 phái đoàn lãnh đạo thượng tầng của Nhật gồm 50 người đi tham quan ở Tây phương 1 năm 10 tháng để học hỏi hầu về nước thực hiện kế hoạch canh tân. Lúc bấy giờ nước Nhật đã có cái gì chứng tỏ canh tân thành công đâu mà ông Tộ biết trước được nước Nhật mạnh? Bản điều trần này có thể được viết ra vào năm 1941, thời ông Từ Ngọc Nguyễn Lân, ở gần có cha Cadière, đang ra sức đánh bóng nhân vật Nguyễn Trường Tộ, và lúc này quân Nhật đã có mặt ở Việt Nam.
Ba mươi năm sau, năm 1971, ông Đào Đăng Vỹ viết trong Bách Khoa số 359 ngày 15-12-1971 một bài viết : “Xã hội Nguyễn Trường Tộ và xã hội Y Đằng Bác Văn” để đính chính về việc Y Đằng Bác Văn và Nguyễn Trường Tộ gặp nhau chỉ là truyền thuyết do các cụ kể lại không có gì chính xác và cho biết hòan cảnh nước Việt lúc bấy giờ thì dầu không bị xâm chiếm cũng khó tiến bộ mau chóng và hùng mạnh như Nhật Bản được. Ông Vĩnh Sinh cũng chứng minh Y Đằng Bác Văn và Nguyễn Trường Tộ không thể gặp nhau được, như vậy câu nói sau đây cũng chỉ là đồ ngụy tạo: “Kể tài trí thì ông hơn tôi nhiều, nhưng cứ tình thế hai nước ta, thì tôi sẽ thành công dễ dàng mà ông sẽ hòa tòan thất bại.” Ngòai ra cũng nên nhớ rằng mấy bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ gửi lên vua Tự Đức cũng chỉ có mấy người được đọc như Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tri Phương, . . . đâu có phổ biến ra ngoài cho dân chúng được đọc đâu; thế mà sau này nhiều bài viết đã tán hươu tán vượn là “những đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ ít gây được ảnh hưởng rộng lớn trong nhân dân vì thiếu một tầng lớp tư sản trong xã hội,” v.v…
Ngày nay bao nhiêu người Việt ở hải ngoại gửi đề nghị về cho nhà nước Việt Nam, người ở ngoài cuộc có ai được đọc, được biết đâu ?
Nguyễn Trường Tộ Hụt Làm Vua
Pháp đánh Đà Nẵng, ông Tộ hẳn đã được hứa hẹn của các giám mục Pellerin và Gauthier về tương lai
Ngày 31-8-1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha dưới sự chỉ huy của trung tướng Rigault de Genouilly đã có mặt tại cửa Hàn (Đà Nẵng) chuẩn bị tấn công - Ảnh tư liệu sẽ được đóng vai trò quan trọng nào đó. Chủ trương của Pháp là đánh chiếm Huế, lật đổ triều Nguyễn để thiết lập tân trào. Sử dụng các thầy tu, kẻ giảng để thiết lập một guồng máy hành chánh với sự trợ lực của 600,000 (sáu trăm ngàn) giáo dân Gia Tô. Giám mục Pellerin còn thuyết trình cho Ủy Ban Cochinchine (Ủy Ban Nghiên cứu về Nam Bộ), giám mục nói rằng : “Chỉ cần tấn công bất kỳ một chỗ nào trên đất An Nam thì người Gia Tô ở đấy cũng sẽ ngả theo quân đội Pháp để chống lại các quan lại An Nam”. Khi Rigault de Genouilly tấn công Đà Nẵng không thấy giáo dân đâu cả như lời giám mục Pellerin đã thuyết trình. Quân Pháp lên bộ bị quân dân ta chặn đánh thiệt hại nhiều. Trong “Dương Sự Thuỷ Mạt” có ghi: “Nguyễn Tri Phương cho đắp luỹ từ bờ biển đến ngoài luỹ Phúc Ninh-Thạc Giản, đào hố hình chữ “phẩm’, cắm chông nhọn, phủ cát rơm lên trên, một mặt cho quân mai phục bên ngoài thành Điện Hải. Quân Tây Dương chia ba ngã tiến đến, phục binh ta vùng dậy đánh, quân Tây sụp hố, bị quân ta bắn phải tháo chạy. Các quân sĩ đều được thưởng tiền, mỗi người 100 quan”. Tháng 9 năm 1858, quân và dân Quảng Nam dùng sọt tre, thùng gỗ chứa đất, đá lấp sông Vĩnh Điện để ngăn chặn đường tiến của giặc vào kinh đô. Rigault de Genouilly có 800 quân gồm 300 quân Tagals (lính đánh thuê Phi Luật Tân) từ chối hành quân chờ ngày hồi hương, chỉ còn 500 quân phòng thủ. Tháng 10 năm 1858, ông Tộ cùng giám mục Gauthier đến Đà Nẵng gặp quân Pháp, ở đây có giám mục Pellerin, linh mục Croc, có tên Việt là cố Hoà biết tiếng Việt, áp lực quân Pháp tấn công Huế cho chóng dứt điểm (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, trang 22). Rigault de Genouilly hiểu rõ tình hình không thể tấn công được nên đã từ chối, vả lại có lẽ ông mất cảm tình với các giáo sĩ người Pháp cho tin không chính xác. Ngoài ra Rigault de Genouilly có chủ trương hợp lý : “Không thể lật đổ vua hiện tại để đưa một người Gia Tô lên cai trị dân chúng không theo đạo có tỉ lệ 200/1” (Paris Xuân 96 của Nguyên Vũ, trang 194). Nguyễn Trường Tộ đã cởi áo linh mục, có thể đóng vai hiệp sĩ Toà Thánh lên lãnh đạo Việt Nam thay vua Tự Đức nhưng đã không được như ý ; cởi áo linh mục, Nguyễn Trường Tộ chỉ còn được giáo dân gọi là Thầy Lân mà thôi.
Về làm việc với Pháp, ông Nguyễn Trường Tộ cũng nghĩ sẽ được đóng một chức vụ quan trọng nào đó. Nhưng Pháp đã không tin dùng, chỉ cho chức vụ thông ngôn nên ông bất mãn. Ông hụt làm vua, hụt làm tể tướng nên quay ra viết mấy bản điều trần để chứng tỏ mình là người yêu nước, để làm thân với vua quan trong triều đình để giữ mạng sống, có thế thôi !
Như nhận xét của Trần Tiễn Thành sau đây : “Cái khoản này năm trước y cũng đã trìng bầy chưa tiện thi hành, nay lại đề cập, viện dẫn lý thế hiện tại và điển cố biện thuyết, chẳng qua chỉ là muốn tỏ ra có lòng vì mình mà thôi. Nhưng bác đi vì thời sự khó thực hành, đó là ý kiến đã được thương nghị cùng thần Nguyễn Tri Phương, thần Phạm Phú Thứ, tất cả đồng ý như vậy” (Nguyễn Trường Tộ tập I, Trang 65-66) và viết mấy bản điều trần để lấy lòng vua quan nhà Nguyễn như “Biểu tạ ơn vua” (Nguyễn Trường Tộ, trang 282), “Ngôi vua là quí , chức quan là trọng” (Nguyễn Trường Tộ, trang 174), “Tâm sự với Trần Tiễn Thành” (Nguyễn Trường Tộ, trang 170), “Lại tâm sự với Trần Tiễn Thành” (Nguyễn Trường Tộ, trang 184).
[Khi đọc xong bài “Nguyễn Trường Tộ học ở đâu” của học giả Đào Duy Anh và phần ghi chú của tòa soạn Đông Dương Thời Báo (Houston, Texas), người đã từng hướng dẫn ông Nguyễn Tấn Dũng và ông Lê Minh Hương đi ăn phở ở Mỹ, đã than : Tiền nhân đã lừa chúng ta và chúng ta bị tiền nhân lừa.]
* * * * *
Nguyễn Trường Tộ : Tổng Quát Tư Tưởng Của Nguyễn Trường Tộ
Bùi Kha - Phần Một
Tổng Quát Tư Tưởng Của Nguyễn Trường Tộ Qua 58 Bản Điều Trần và Những Ca Ngợi Về Ông
Có nhiều điều khó cho tôi lúc viết về Nguyễn Trường Tộ.
Thứ nhất : Nhiều thế hệ học sinh như tôi, lúc còn nhỏ được cô thầy dạy cho biết Nguyễn Trường Tộ là một nhà canh tân lớn. Nhưng rất tiếc Triều đình vua Tự Đức vì ngu muội, hẹp hòi và cố chấp nên đã không áp dụng những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, nên Việt Nam bị nghèo đói, chìm đắm nhiều thế kỷ và bị ngoại bang đô hộ. Lời dạy ấy vẫn ám ảnh mãi trong tôi và có lẽ cũng như một số lớn các học sinh khác.
Thứ hai : Khoảng hơn 125 năm qua, hầu như chưa có một bài viết nào khá súc tích, của phía hoàng tộc, để minh oan hoặc ít nhất là nói lên quan điểm của mình về lời cáo buộc mà đa số những học sinh như tôi đã được dạy như trên.
Thứ ba : Theo sự liệt kê của Linh mục Trương Bá Cần, tác giả cuốn Nguyễn Trường Tộ, Con Người Và Di Thảo, xuất bản năm 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thì có khoảng 60 tác giả viết về Nguyễn Trường Tộ. Trong số 60 tác giả này, có vị là thầy của những bậc thầy, số còn lại hầu hết là những nhà nghiên cứu đứng đắn với kiến thức sâu rộng. Tôi chưa có cơ hội đọc được nhiều bài trong số gần 100 bài của 60 tác giả nói trên. Nhưng nhìn các tựa đề của các bài viết, chúng ta có thể tiên đoán được phần nào về nội dung của chúng : Nguyễn Trường Tộ hầu như hoàn toàn được ca tụng hơn là bị phê phán, mặc dầu phần lớn các bậc lão thành nầy không hẳn có cùng một tín ngưỡng với Nguyễn Trường Tộ. Một trong những tác giả là Nguyễn Trọng Thuật trong bài Nguyễn Tràng Tộ Trên Lịch Sử Việt Nam đăng trong Nam Phong Tạp Chí số 180 tháng 1, 1933, gọi Nguyễn Trường Tộ là bậc vĩ nhân. Người kế tiếp là Từ Ngọc Nguyễn Lân trong cuốn Nguyễn Trường-Tộ, xuất bản tại Huế, 1941 có những lời ca ngợi như sau: Viết cuốn sách nhỏ nầy về Nguyễn Trường Tộ tiên sinh tôi không dám có cao vọng khảo cứu tường tận về học thức tài hoa, sự nghiệp của bậc vĩ nhân đệ nhất của nước Nam. Một người như thế đáng cả quốc dân tôn sùng; tượng đồng bia đá, kể cũng còn là ít...
Thứ tư : Giáo Sư Chương Thâu, phó Tiến Sĩ Sử Học thuộc Viện Sử Học Hà Nội, có một bài viết về Nguyễn Trường Tộ, sâu sắc, đầy đủ và tầm cở nhất mà dưới đây tôi trích đăng (bài nầy mới thêm vào lần nầy) để hầu độc giả (5 trang):
Cách đây ba mươi năm, khi mới về công tác tại khoa Sử Học trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội, tôi được các giáo sư Trần Văn Giàu, Cao Xuân Huy hướng vào nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ - Nhà yêu nước, nhà cải cách lớn của lịch sử cận đại Việt Nam.
Bắt tay vào việc: Sưu tầm, đọc, dịch văn bản, tìm hiểu con người và cuộc đời của Nguyễn Trường Tộ, tôi ngày càng bị hấp dẫn bởi hệ thống những tư tưởng cải cách tiến bộ, và trên hết cả là tấm lòng thiết tha vì nước vì dân của ông. Sau đó, để đánh dấu cho bước đầu nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ, vào năm 1961, tôi và anh Đặng Huy Vận (nay đã qua đời) đã cộng tác với nhau viết chuyên luận Những Đề Nghị Cải Cách Của Nguyễn Trường Tộ Cuối Thế Kỳ XIX (1) nhằm bổ sung cho giáo trình lịch sử cận đại Việt Nam. Đề tài Nguyễn Trường Tộ cũng được đặt ra cho một số sinh viên khoa Sử làm Khóa luận tốt nghiệp trong một số năm học . . .
Sau ngày giải phóng miền Nam (30-04-1975) thống nhất nước nhà, trong niềm vui chung của nhân dân đất nước, tôi có thêm một nguồn vui riêng: Vấn đề Nguyễn Trường Tộ có cơ may sẽ được nghiên cứu trên nhiều chiều kích chung hơn, rộng hơn.
Rồi một ngày đầu xuân năm 1976, tôi gặp anh Trương Bá Cần. Thật đúng là do cái duyên kỳ ngộ. Thuở còn đi học ở Pháp, năm 1962, anh đã gởi thư cho tôi theo địa chỉ của tác giả cuốn sách Những Đề Nghị Cải Cách Của Nguyễn Trường Tộ Cuối Thế Kỳ XIX được lọt sang Paris hồi đó. Thư của anh hỏi tôi nhiều vấn đề liên quan đến Nguyễn Trường Tộ. Nhưng do hoàn cảnh chiến tranh tôi đã không đáp ứng được yêu cầu của anh.
Gặp anh Trương Bá Cần giữa thành phố Sài Gòn đã giải phóng, vui mừng khôn xiết. Tôi có thêm một người bạn là nhà Sử Học để chia sẻ những nỗi niềm, những suy nghĩ về đề tài Nguyễn Trường Tộ mấy lâu nay hằng ôm ấp, nhưng ở hoàn cảnh tôi thật khó có thể tiếp tục triển khai. Theo tôi, chỉ có anh là người có đủ điều kiện nhất để hoàn thành sứ mệnh khoa học nầy.
Anh Trương Bá Cần là người từng theo dõi, tìm hiểu Nguyễn Trường Tộ trước tôi nhiều năm (từ năm 1942, khi anh còn học ở Chủng Viện Xã Đoài, gần quê hương của Nguyễn Trường Tộ). Anh lại có điều kiện tiếp xúc với nhiều nguồn tài liệu. Anh vừa là một nhà khoa học, vừa là một linh mục đầy lòng ngưỡng mộ đối với người công giáo yêu nước Nguyễn Trường Tộ, nên về nhiều mặt, anh thuận lợi hơn so với tất cả những người nghiên cứu khác.
Thực tế đã chứng tỏ đúng như vậy. Những tài liệu về Nguyễn Trường Tộ và liên quan đến Nguyễn Trường Tộ mà anh tập hợp được từ nhiều nguồn, trong nhiều chục năm nay là hết sức phong phú : Từ các văn bản Hán Nôm của các Thư Viện ở miền Bắc và ở miền Nam, - Từ các sách báo, tạp chí tiếng Việt và tiếng Pháp ở trong nước và ở nước ngoài - Từ các tài liệu của các tủ sách và Thư Viện các gia đình mà anh biết được . . . Anh đã bỏ ra không ít công phu để tra cứu, đối chiếu, phối kiểm để giới thiệu và chú thích một cách rất cẩn thận... Tóm lại anh đã giám định, khảo chứng và xử lý các văn bản một cách khoa học. Với tất cả công sức lao động bền bỉ và nghiêm túc trong nhiều năm tháng, cho đến nay anh đã cho ra mắt công chúng công trình khoa học : Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Thảo.
Đây là một tập đại thành về Nguyễn Trường Tộ của ba thế hệ nghiên cứu từ những năm 20 đến nay . . .
Qua toàn bộ Di Thảo của Nguyễn Trường Tộ được công bố lần này, những người làm công tác nghiên cứu khoa học, nhất là các ngành khoa học xã hội như lịch sử, triết học, kinh tế học, xã hội học . . . sẽ có thể khai thác, lấy ra rất nhiều vấn đề để nghiên cứu. Bởi vì, có thể nói, Nguyễn Trường Tộ đã đề cập đến hầu hết mọi vấn đề về xã hội, kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao . . . như là một hệ thống các vấn đề cần phải cải cách đổi mới ở xã hội đương thời. Đặc biệt về đường lối xây dựng phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, đối với Nguyễn Trường Tộ, luôn luôn được coi là một vấn đề cốt tử nhất. Về đường lối chiến lược là khá toàn diện và sâu sắc. Về sách lược biện pháp thực hiện là cụ thể và rõ ràng, và về thái độ và tấm lòng thành của ông là vô cùng chân thành và cảm động. Ông đã kiên trì đề đạt những kiến nghị cải cách đó trong hơn mười năm ròng rã, đến mức độ khi bị bệnh phải nằm ngửa để viết tiếp các bản kiến nghị, ông vẫn không chán, không chùn. Vì như ông vẫn tự xác định : Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không nói hết là bất nghĩa.
Những vấn đề Nguyễn Trường Tộ đặt ra cách đây trên một trăm hai chục năm, đối với chúng ta ngày nay, trong thời điểm lịch sử của những ngày tháng sôi động trước phong trào đòi phải đổi mới tư duy hiện nay, vẫn còn có một ý nghĩa thời sự, vẫn có những giá trị tham khảo nhất định.
Cách đây không lâu, tôi, có một anh bạn lớn tuổi, từng là cán bộ khoa học có trình độ lý luận cao và đã có một quá trình công tác cách mạng lâu dài, sau khi tôi đưa cho mượn đọc một số Di Thảo của Nguyễn Trường Tộ, đọc xong, anh đã xúc động nói rằng:
- Quả tình càng đọc Nguyễn Trường Tộ, tôi càng thấy xót xa thương cảm ông, càng giận vua quan triều đình nhà Nguyễn.
Và ông bạn này nói thêm :
- Giá như những Di Thảo của Nguyễn Trường Tộ, nhất là tập Tế Cấp Bát Điều, được công bố sớm hơn, trước Đại Hội VI của Đảng ta chẳng hạn, thì nhân dân ta, các cán bộ lãnh đạo cũng tham khảo được một số ý kiến rất xác đáng của một nhà yêu nước sớm có tư duy đổi mới, sớm có một hệ thống những vấn đề cải cách xã hội và kinh tế xuất sắc, thật đáng cho mọi người kính phucï.
Công trình nghiên cứu Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Thảo. ra đời có thể là hơi muộn so với đòi hỏi của công chúng, nhưng giá trị khoa học của nó vẫn y nguyên. Tấm lòng của Nguyễn Trường Tộ đối với sự nghiệp canh tân đất nước, vẫn là như hoa quỳ luôn hướng về mặt trời. Chính vì vậy mà cách đây đúng 80 năm, nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu, khi viết cuốn Việt Nam Quốc Sử Khảo, xuất bản tại Nhật Bản năm 1908 đã nhận định đánh giá rằng: ông chính là người đã giống cái mầm khai hóa trước tiên (2) ở nước ta. Và có lẽ cũng do có sự chỉ dẫn đó, nên người viết những dòng này sớm có duyên nợ với Nguyễn Trường Tộ, luôn dõi theo công trình nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ và hôm nay niềm vui của tôi thật sự được nâng lên với công trình nghiên cứu mới này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7-1988
Chương Thâu - Phó Tiến Sĩ Sử Học
(Trích từ bài viết có tựa đề Lời Bạt trong tác phẩm của Linh mục Trương Bá Cần, SĐD, trang 487, 490 & 491).
Thứ năm : Tại hải ngoại, tập san Thế Kỷ 21 là một tạp chí đứng đắn, số tháng 12-1991, nhà văn Thế Uyên điểm cuốn Nguyễn Trường Tộ : Con Người và Di Thảo của Trương Bá Cần (Thế Uyên Đọc) có những lời nhận định như sau :
Trương Bá Cần ? là một linh mục tốt nghiệp tiến sĩ về môn Sử ở Paris từ rất lâu trước 1975.
Về phần con người Nguyễn Trường Tộ, sưu khảo của Trương Bá Cần thật đầy đủ, công phu đến tận chi tiết điều đó là lẽ đương nhiên vì không là như thế làm sao lấy được bằng tiến sĩ của Pháp.
Người đọc không khỏi ngậm ngùi. Ngậm ngùi vì hai lý do: Lý do thứ nhất là tư tưởng cải cách của Nguyễn Trường Tộ rộng lớn bao quát hơn chúng ta có thể tưởng; lý do thứ hai là tại sao vua quan Việt Nam thời Tự Đức lại không biết nghe theo Nguyễn Trường Tộ, không bổ nhiệm ông làm thủ tướng toàn quyền thì cũng phải mời ông ngồi vô ngôi vị cố vấn khoa học kỹ thuật tối cao cho vua và triều đình. (trang 66, TCĐD).
Thứ sáu : Gần đây hơn, cuối năm 1992, Viện Khoa Học Xã Hội, Trung tâm Hán Nôm, thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức khóa hội thảo về chủ đề Nguyễn Trường Tộ, Nhà Cải Cách Lớn Của Dân Tộc. Có 47 bài (gồm cả bài phỏng vấn của đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh) được chọn đăng trong cuốn kỷ yếu Hội Thảo Khoa Học Nguyễn Trường Tộ với vấn đề Canh Tân Đất Nước. Có thể nói đây là một công trình nghiên cứu tập thể gồm nhiều vị giáo sư và nhiều học giả lỗi lạc, các bài viết khách quan nghiêm túc. Ngoại trừ một vài tác giả, phần lớn còn lại là những vị không cùng tín ngưỡng với giáo sĩ Nguyễn Trường Tộ. Điều đó cho thấy việc đánh giá cao về Nguyễn Trường Tộ được phát xuất từ tinh thần khoa học khách quan không bị vướng mắc bởi tình cảm tôn giáo.
Cũng như gần 100 bài viết của các tác giả đi trước, 44 trong số 47 bài của khóa hội thảo nầy, kể cả bài của Tiến Sĩ Sử Học Vĩnh Sính hiện ở Ca-Na-Đa cũng có những nhận định tương tự, nghĩa là xác tín Nguyễn Trường Tộ là một nhà đại tư tưởng, có những đề nghị cải cách vượt thời đại*, ngoại trừ ba bài của giáo sư Lê Xuân Diệm, giáo sư Phạm Thị Hảo, nhất là bài của nhà nghiên cứu văn học Thái Hồng. Ba tác giả này nhất là nhà nghiên cứu Thái Hồng, đã có những đánh giá về Nguyễn Trường Tộ tiên sinh qua mối tương quan lịch sử. Tuy vậy, ông Thái Hồng cũng chỉ mới phác họa một vài nét tổng quát, trong việc phê phán Nguyễn Trường Tộ mà thôi. Có thể nói ba con én chỉ báo hiệu nhưng chưa đủ để tạo nỗi mùa xuân. Trái lại, hầu hết các tác giả của tuyển tập đã ca tụng Nguyễn Trường Tộ hết mực, mà chúng ta có thể hình dung sự ca tụng nầy qua Lời Nói Đầu của cuốn sách như sau:
Bạn nên đọc quyển sách này. Vì đây không phải là một tập sách gồm những luận văn bàn về những vấn đề khô khan ít bổ ích mà là viết về một con người, một trí thức đầy tâm huyết đối với dân tộc và đất nước.
Đây cũng là một dịp để bạn tìm hiểu sâu hơn về một thế kỷ đau thương và đen tối của Việt Nam và chắc chắn bạn sẽ không tránh khỏi kinh ngạc khi thấy lóe lên một tư tưởng lớn, một trí tuệ lớn mang tầm cỡ quốc tế: Trí tuệ và tư tưởng Nguyễn Trường Tộ.
Chắc chắn tuyển tập về Nguyễn Trường Tộ đã có hằng ngàn người đọc, và cuộc phỏng vấn Ban Tổ Chức khóa hội thảo do đài truyền hình thành phố Hồ Chí Minh thực hiện đã có hằng triệu người nghe. Nhưng đến nay hầu như chưa có một bài bình luận nào.
Gần đây, có người quen yêu cầu tôi viết một bài về Nguyễn Trường Tộ, tôi cảm thấy ngại không dám. Ông bạn lại còn nói thêm, Nguyễn Trường Tộ là Một tên Việt gian vì ông ta là người Công Giáo. Đánh giá một nhân vật lịch sử mà đã có những tiên kiến như thế thì khó có thể khách quan và trung thực được. Tôi quan niệm rằng lúc nghiên cứu một nhân vật hay một sự kiện lịch sử, chúng ta nên vượt ra ngoài các tình cảm tôn giáo, ngay cả vượt khỏi tinh thần quốc gia và chủng tộc, mới mong đạt được hiệu quả cao cho công trình nghiên cứu.
Với những khó khăn nêu trên, tôi rất lúng túng, không dám suy nghĩ và viết về Nguyễn Trường Tộ, và xem như sự đánh giá về ông đã đến hồi chung cuộc, không nên mất thêm thì giờ vào đó nữa, vô ích.
Nhưng sau khi đọc hết 58 bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ (Có người gọi là 58 Di Thảo), tôi thấy cần có vài ý kiến của một người thuộc lớp hậu học mà quí độc giả sẽ cảm thấy rất ngạc nhiên về những hành động và tư tưởng tai hại cho đất nước nhưng lợi ích cho ngoại bang không thể ngờ được của Nguyễn Trường Tộ qua các sử liệu chính xác không thể phủ bác.
Nhận xét tổng quát về 58 bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ :
1.- 58 bản Điều Trần (1) được sắp theo thứ tự thời gian, từ bài số 1 Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ (Thiên Hạ Đại Thế Luận) viết vào khoảng tháng 3 - 4 năm 1863, đến bài cuối cùng, thứ 58, Bài tựa sách Đàm Thiên Luận, không thấy đề ngày tháng. Không biết vì lý do nào mà Linh Mục Trương Bá Cần lại sắp Bài tựa Sách Đàm Thiên vào cuối cùng, thay vì bài Di Thảo số 56 Nên Mở Cửa Không Nên Đóng Kín viết vào tháng 10 - 11, 1871. Có lẽ đây là bài cuối đời của Nguyễn Trường Tộ. Ông mất vào ngày 24-11-1871. Tuy vậy, chi tiết nầy cũng không đáng quan tâm.
Điều quan trọng là qua 58 bản Điều Trần sắp theo thứ tự thời gian, chúng ta sẽ thấy tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ không được bố cục một cách nhất quán, mà viết theo những biến chuyển của tình hình quân sự và chính sách thuộc địa của Pháp tại Việt Nam cũng như viết theo bối cảnh lịch sử Việt Nam thời bấy giờ, để xoáy vào chủ điểm chính: Tại sao nên hợp tác với Pháp.
2.- Với giọng văn điêu luyện, sắc sảo, chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ đã xử dụng hai luận điểm chính để thuyết phục dân Việt Nam nhất là triều đình vua Tự Đức. Hai luận điểm có tính chiến lược và chiến thuật đó có thể đặt tên là Củ cà rốt và Cục xương.
Chiến thuật “củ cà rốt” là đưa ra một miếng mồi béo bổ như khai thác hầm mỏ, xử dụng tài nguyên thiên nhiên... để làm cho dân giàu nước mạnh. Muốn đạt được mục đích đó thì phải làm gì ? Trả lời: phải hợp tác với Pháp, phải cầu khẩn Giáo-hoàng La Mã giúp sức như trong Di Thảo số 5.
Chiến thuật “Cục xương” là đưa ra một số đề nghị không thể thực hiện được như chỉnh trang võ bị, đào kênh từ Hải Dương đến Huế v.v... (Di Thảo số 27) để qua đó buộc triều đình nhà Nguyễn phải mất thì giờ gặm, nhấm cục xương để không thể làm gì khác hơn.
3.- Nguyễn Trường Tộ khéo léo tài tình lồng tư tưởng Kinh Thánh vào hầu hết những bản Di Thảo để một mặt thì hăm dọa rằng Tạo vật đã định như vậy, “sao cưỡng được” (Di Thảo số 1), mặt khác thì an ủi chấp nhận số phận . . . “Vì tạo vật đã an bài” (trong nhiều Di Thảo khác).
4.- Một số Di Thảo, thì đưa ra các dữ kiện sai lầm về sử liệu để bi thảm hóa tình hình, nhằm kêu gọi người Việt nên hòa với Pháp (Di Thảo 1), và để biện minh cho những đề nghị của mình (Di Thảo số 5 và 27).
5.- Nguyễn Trường Tộ nhìn đất nước Việt Nam trong lăng kính Gia Tô, mang đầy tính chất cuồng tín, phản tiến hóa phản khoa học để từ đó dẫn đến hai hệ luận :
Thứ nhất, Việt Nam là một phần tử trong tổng thể của vạn vật mà tạo hóa đã sáng tạo, do đó không có “tự do làm theo ý muốn” (Di Thảo số 2). Và vì là sản phẩm của tạo vật nên phải chịu số phận cần được khai hóa (Di Thảo số 1).
Thứ hai, liên đới với hệ luận thứ nhất về mặt trần thế, do đó, Việt Nam nên Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân đất nước (Di Thảo 17).
6.- Có 8 trong số 58 Di Thảo không có nhiều giá trị cho việc đề nghị canh tân cũng như văn chương học thuật, nên không đáng được quan tâm nhiều như Di Thảo số 6 Về Việc Mua Đóng Thuyền Máy ; Di Thảo số 7 Về Việc Đào Tạo Người Điều Khiển Và Sửa Chữa Thuyền Máy ; Di Thảo số 9 Về Việc Mua Tàu London ; Di Thảo 11 “Tâm Sự Với Trần Tiển Thành” ; Di Thảo số 16 Bài Bạt Mừng Đào Xong Thiết Cảng ; Di Thảo 28 Biểu Tạ Ơn Vua, tháng 3, 1868 ; Di Thảo số 56 Bài Khải Quyên Tiền Sửa Cầu ; Di Thảo số 58 Bài Tựa Sách Đàm Thiên Luận (cọng chung có 17 trang khổ 8x11).
Trái lại, có 3 Di Thảo dầu không liên quan nhiều đến chính trị, kinh tế hoặc canh tân, nhưng về phương diện văn chương, lý luận và sự kiện thì rất hay, xuất sắc, nhất là tác giả lúc bấy giờ đang ở lớp tuổi 35 và cách đây 130 năm. Đó là Di Thảo số 10 Thảo Thư Gởi Tây Soái; Di Thảo số 47 Về Việc Cải Cách Phong Tục; Di Thảo số 50 Về Việc Chỉnh Đốn Quân Đội Và Quốc Phòng. (Ba Di Thảo nầy gồm 18 trang).
Bốn Di Thảo khác được viết trong bối cảnh bị triều đình Tự Đức nghi ngờ nên giọng văn và ý tưởng có vẻ nịnh bợ hoặc phân trần, hoặc viết để thăm dò ý của triều đình. Đó là Di Thảo số 13 Ngôi Vua Là Quí ; Chức Quan Là Trọng ; Di Thảo số 40 Bổ Túc Kế Hoạch Đánh Úp Gia Định ; Di Thảo số 51 Cần Nắm Vững Tình Hình Chính Trị Ở Pháp; Di Thảo số 52 Canh Tân Và Mở Rộng Quan Hệ Ngoại Giao, cọng chung có 18 trang.
Ngắn gọn, ba loại nói trên gồm có 15 Di Thảo, tổng cọng là 53 trang. Số còn lại gồm 43 Di Thảo, tổng cọng khoảng 250 trang, tức là chiếm 5 lần hơn so với tổng số 15 Di Thảo nói trên.
Trong số 43 Di Thảo nầy có 3 Di Thảo dài nhất và gói ghém phần lớn tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ. Đó là Di Thảo số 1 Bàn về Những Tình Thế Lớn Trong Thiên Hạ (Thiên Hạ Đại Thế Luận, gồm 6 trang) ; Di Thảo số 5 Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh (Dụ tài tế cấp bẫm từ = Lục Lợi Từ, 17 trang) ; Di Thảo số 27 Tám Việc Cần Làm (Tế Cấp Bát Điều, 56 trang). Như vậy, ba bài chính chứa đựng phần lớn tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ, tổng cọng khoảng 80 trang. Ba mươi lăm (35) Di Thảo còn lại chiếm 160 trang. Những tư tưởng trong 35 Di Thảo nầy thường là lặp lại hoặc bổ túc những ý kiến trong các Di Thảo khác. Nếu có vài ý kiến mới trong số các Di Thảo ngắn nầy nhưng những ý kiến đó không có gì đặc sắc lắm, ngoại trừ các Di Thảo có tính tôn giáo.
Bằng cách phân loại như trên, dĩ nhiên là có tính tương đối, hy vọng độc giả sẽ dễ dàng theo dõi tư tưởng chính yếu của Nguyễn Trường Tộ trong ba Di Thảo quan trọng mang tính kinh tế và chính trị, và bốn Di Thảo bàn về tôn giáo trong bài viết nầy.
* * * * *
Nguyễn Trường Tộ Trong Chiều Dài Canh Tân
Bùi Kha - 10 tháng 1, 2008 - Phần Hai
Dựa vào các bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ và những sử liệu mà đa số là các tài liệu mật để nhận định tư tưởng chính trị và những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ qua ba bản Di Thảo quan trọng nhất nói trên.
Chương 1 ; Nguyễn Trường Tộ và Vấn Đề Cộng Tác Với Pháp
Một trong ba Di Thảo quan trọng nhất của Nguyễn Trường Tộ là bài Thiên Hạ Dại Thế Luậnmà qua đó chúng ta sẽ thấy sự sai lầm và hậu ý của Nguyễn Trường Tộ lúc ông kêu gọi dân Việt nam nên hòa và hợp tác với Pháp.
Nhận định bản Di Thảo số 1 Thiên Hạ Đại Thế Luận (Bàn về những tình thế lớn trong thiên hạ). Viết khoảng tháng 3-4-1863.
Chúng ta biết rằng Đà Nẵng bị mất ngày 1-9-1858 vì cuộc viễn chinh xâm lăng của quân đội Pháp do Đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy. Ngày 21-6-1859 triều đình đành phải chấp nhận thương thuyết với Pháp. Tháng 3, 1860 Pháp rút khỏi Đà Nẵng và vào Sài Gòn để chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ. Với Hòa ước 1862 giữa Pháp, Tây Ban Nha và Việt Nam, Pháp được thỏa mãn tất cả những gì mà họ đòi hỏi như : nhường cho Pháp ba tỉnh phía đông Nam Bộ: Biên Hòa, Gia Định và Định Tường, thừa nhận quyền tự do truyền đạo của các phái bộ Gia Tô (Công giáo)...
Tình hình dân Việt Nam lúc bấy giờ chia làm hai phe: Quần chúng thì chủ chiến, còn triều đình thì chủ hòa mà đứng đầu và tích cực nhất của phe chủ hòa nầy là Phan Thanh Giản.
Trong bối cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Trường Tộ viết bản Điều Trần số 1 Bàn Về Những Tình Thế Lớn Trong Thiên Hạ (Thiên Hạ Đại Thế Luận) gởi cho triều đình Tự Đức vào tháng 3-4 năm 1863. Lồng nội dung bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ vào tình hình chính trị và quân sự của đất nước lúc bấy giờ, chúng ta có thể đánh giá khá chính xác về tư tưởng của Nguyễn Trường Tộ trong bài Điều Trần nầy.
Nguyễn Trường Tộ viết :
Tôi là Nguyễn Trường Tộ, bề tôi nước Đại Nam đã từng trốn ra nước ngoài xin đem những điều mà tôi đã biết và thấy một cách chính xác về sự thế trong thiên hạ, mạo tội kính bẩm.
Trộm nghĩ việc trong thiên hạ chỉ có Thế mà thôi. Chữ thế là nói bao gồm cả thiên thời nhân sự. Cho nên người biết rõ thế thì không trái trời không mất thời, không hại người, không hỏng việc.
Hãy nói về thiên đạo trước. Khí đất là từ Bắc đến Nam, vận trời từ Tây sang Đông, theo Hà đồ thì thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy.
Ngày nay các nước phương Tây, đã bao chiếm suốt từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, toàn lãnh thổ Châu Phi cho tới Thiên Phương, Thiên Trúc, Miến Điện, Xiêm La, Tô Môn Đáp Lạp, Trảo Oa, Lữ Tống, Cao Ly, Nhật Bản, Trung Quốc và các đảo ở ngoài biển, kể cả Tây Châu, không đâu là không bị họ chẹn họng bám lưng. Nước Nga thì từ Tây Bắc đến Đông Nam gồm tất cả các nước Đại Uyển, Cốt Lợi Cán, Mông Cổ và các xứ ở phía Bắc Mãn Châu, không đâu là không chiếm đất và nô dịch dân những nơi đó. Ở trên lục địa, tất cả những chỗ nào có xe thuyền đi đến, con người đi qua, mặt trời mặt trăng soi chiếu, sương mù thấm đọng thì người Âu đều đặt chân tới, như tằm ăn cá nuốt, ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa; ai hòa với họ thì được yên, ai cự lại thì dùng binh lực giao tranh; trong thiên hạ không ai dám kháng cự lại họ. Như thế, nếu đó không phải là ý trời định, địa thế xoay vần, thì sao không lấy số đông của bốn đại châu mà kháng cự lại người Tây phương ? Huống hồ nước Việt ta là một nước bé nhỏ, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được ?
Đến như địa thế Trung Hoa chiếm 1 phần 3 Đông phương nhân số đến 360 triệu, uy thế lẫy lừng, ai cũng phải thần phục họ cả, thế mà từ thời Minh về sau, người Tây phương vượt biển sang Đông, hai bên đánh nhau, thây chất thành đống, sau phải giảng hòa không biết bao nhiêu lần. Còn như ta là một xứ nóng, gần kề Quế Hải, là trạm nghỉ chân của người Tây phương trên đường sang Đông. Con giao long khi thấy đầm vực thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi.
Mới đây người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ rằng quân ta mới nghe thanh thế họ đã “phách lạc hồn xiêu rồi”.
Nhận định về đoạn văn nêu trên của Nguyễn Trường Tộ.
1.- Tại sao Nguyễn Trường Tộ trốn ra nước ngoài ?
Nguyễn Trường Tộ đã phạm trọng tội gì đến nỗi phải trốn ra nước ngoài, trong lúc toàn dân đang cùng nhau nổi lên chống Pháp xâm lược để giữ gìn giang sơn ? Nếu trả lời rằng vua quan nhà Nguyễn hẹp hòi, kỳ thị tôn giáo, giết người theo đạo Gia Tô thì phải tự hỏi tại sao tín đồ các tôn giáo khác ở Việt Nam thời bấy giờ, như tín đồ đạo Khổng, đạo Lão, đạo Phật, không bị giết mà chỉ có tín đồ đạo Gia Tô bị ? Ngay cả tín đồ đạo Gia Tô thời đó, không phải ai cũng bị giết ? Nếu không nói là chỉ có những người đạo Gia Tô làm Việt gian cho Pháp mới bị giết hay bị trừng phạt mà thôi, còn những người Gia Tô hiền lành vì dân vì nước đâu có bị nạn gì nguy hiểm mà phải trốn ra nước ngoài. Lịch sử đã cho thấy điều đó. Như thế Nguyễn Trường Tộ tự nhận là đã từng trốn ra nước ngoài ắt hẳn phải có lý do thật quan trọng mà chúng ta sẽ thấy trong bài viết nầy.
2.- Tàu diệt Việt, Pháp diệt Đông Dương
Lúc viết Thủy ở về phương Bắc, hỏa ở về phương Nam, kim ở về phương Tây, mộc ở về phương Đông. Thủy thì diệt hỏa, kim diệt mộc, ấy là lẽ tự nhiên của trời đất luôn luôn như vậy. Theo nội dung và tư tưởng cũng như dụng tâm của Nguyễn Trường Tộ trong bài Di Thảo nầy, chúng ta có thể đoán mà không sợ sai rằng Nguyễn Trường Tộ muốn ám chỉ : Trung Hoa (thủy, phương Bắc) diệt Việt Nam (hỏa, phương Nam), và Pháp (kim, phương Tây) diệt Đông Dương (mộc, phương Đông), trong Đông Dương có Việt Nam. Nguyễn Trường Tộ dùng một định luật ngũ hành của Đạo Học đã được công nhận như một tiền đề để biện minh cho một lý luận chính trị. Nhưng thực tế sai lầm qua một số dẫn chứng sau đây :
Thật vậy, nước dập tắt được hỏa, nhưng lửa cũng làm cho nước bốc hơi khô cạn sông ngòi. Kim và mộc cũng thế. Vàng sợ gì củi nhưng củi đun nóng cũng làm cho vàng chảy hết.
Trên cơ sở sử học cũng thế. Đọc sử Việt chúng ta đều thấy Ngàn năm bị đô hộ giặc Tàu, nhưng nhân dân ta đã dũng mãnh nổi lên dành lại độc lập. Suốt thời Lý Trần, quân Nguyên Mông chiếm cứ cả thiên hạ, nhưng lúc qua Việt Nam họ không những thua trận một lần mà thua trận đến ba lần. Nhà học giả Phan Khôi nhận định nhận định : “. . . vào thuở nhà Lý nhà Trần đạo Phật tràn ngập cả nước. Chùa chiền khắp nơi, thầy tu làm dân tráng, nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược như thời Lê trung hưng hay Nguyễn thống nhất là cái thời đại Nho học thịnh hành. Trái lại, nhà Lý, nhà Trần mạnh lắm, dân khí còn hăng lắm, mấy phen giặc Tàu sang chúng ta đuổi đi như đuổi vịt (Dẫn theo Nguyễn Lang), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, (tập 3, Lá Bối xuất bản, Paris, 1985, trang 29).
Một cuộc chiến thắng phương Bắc (Trung Hoa) khác, trước thời Nguyễn Trường Tộ, là vua Quang Trung Nguyễn Huệ đã đuổi 20 vạn quân Thanh về Tàu vào năm 1789. Đó là bằng chứng trong vô số chứng cớ qua lịch sử cho thấy làm gì có chuyện Tàu diệt Việt (Thủy diệt Hỏa) như Nguyễn Trường Tộ khẳng định. Và nếu Tàu diệt được Việt thì có lẽ không có được một Nguyễn Trường Tộ ra đời trên mảnh đất Việt để viết bài hù dọa đồng bào mình.
Còn Kim diệt Mộc hay Pháp diệt Á đông trong đó có Việt Nam, là thêm một nhận xét khác thiếu cơ sở sử học của Nguyễn Trường Tộ.
Qua lịch sử, chúng ta hẳn còn nhớ, lúc Pháp chiếm Việt Nam có một số không ít chạy theo ngoại bang rước voi dày mả tổ, nhưng hầu hết đại bộ phận dân tộc đã kháng Pháp quyết liệt dưới mọi hình thức, mọi phương tiện Người có dao, giết giặc bằng dao, có gậy chống giặc bằng gậy ? . . . Toàn dân vùng lên chống Pháp, và trận Điện Biên Phủ năm 1954 đã kết thúc chính sách thuộc địa gần 100 năm của Pháp, và thực dân đã phải đầu hàng để trả lại chủ quyền đất Việt cho người Việt. Rồi đến cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam Bắc mà cuối cùng Hoa Kỳ cũng phải rời bỏ Việt Nam tháng 4, 1975, dẫu sự rời bỏ nầy dưới tình thế nào. Qua một số sử liệu, trích dẫn dưới đây, ta thấy nếu năm 1858 Pháp đánh Đà Nẵng và lúc Pháp mới chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ năm 1860 nếu triều đình Tự Đức không giảng hòa với Pháp, và hô hào toàn dân kháng chiến thì Pháp đã thua trận và rút về nước ngay từ đầu. Như thế không những không có sự lý luận hoang đường Kim diệt Mộc hay Pháp diệt Việt Nam mà trái lại, Mộc diệt Kimhay Việt nam diệt Pháp. Sau đây là dẫn chứng :
a.- Ngày 4-1-1859 Đô đốc Rigault de Genouilly gởi cho viên Thượng-thư Bộ Hải Quân một văn thư bi thảm như sau :
. . . Quả thật tôi thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài về tình trạng tồi tệ về sức khỏe chung. Thiếu tá Levêque, Đại úy Hải quân Virot, phó kỹ sư Delautel đều đã đi Ma-cao và chắc phải đưa về Pháp. Tôi không biết phải đối phó thế nào với các lỗ trống đó. Mỗi ngày lại có nhiều người chết, và thời tiết xấu mà các nhà truyền giáo bảo là sẽ chấm dứt vào đầu tháng 12 vẫn tiếp tục với những trận mưa dầm dề không tưởng tượng nỗi. Chỉ nội sự kiện đó, ngài cũng có thể đánh giá về các tin tức đang đến với tôi về mặt này và lòng tin tưởng của tôi đối những cuộc hành quân phải thực hiện.
Dù thế nào đi nữa, thưa ngài Thượng Thư, chúng ta đang nhanh chóng tuột dốc đến kiệt quệ và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng. Mọi phương cách để cải thiện tình trạng quân sĩ đều đã được sử dụng hết và không kết quả. Các y sĩ trước tình trạng bệnh tật đã kết luận là người Âu không nên làm việc gì trong khí hậu nầy, nhưng làm sao được khi ở đây, phải làm những việc cần thiết cho sự phòng vệ, xây cất bịnh viện, lều trại v.v... Đó là một cái vòng lẩn quẩn khiến chúng ta phải điên đầu. (Thư Khố Quốc Gia, tài sản Hải Quân, B 84769), dẫn theo luận án tiến sĩ của Cao Huy Thuần Christianisme et Colonialisme au Viet Nam 1857 - 1914 (Đạo Gia Tô và Chủ Nghĩa Thực Dân Pháp Tại VN, 1857-1914 Paris, France, 1968, bản ronéo, trang 108).
Nguyên văn tiếng Pháp :
“. . . Je dois en effet et bien malheureusement confirmer à Votre Excellence l'état déplorable de la santé générale. M. le Commandant Lévêque, M. le Lieutenant de Vaisseau Virot, M. le S. Ingénieur Delautel vont à Macao et devront être probablement renvoyés en France. Je ne sais plus comment faire face à tous ces vides. Chaque jour amène de nombreux décès et les mauvais temps, qui d'après les missionnaires, devaient finir avec le décembre, continuent avec une abondance de pluies qui dépasse toute idée. Par ce seul fait, Votre Excellence peut juger de la valeur des renseignements qui me viennent de ce côté, et de la foi que je puis leur accorder, pour les opérations à entreprendre avec la division. Mais quoiqu'il en soit, Monsieur le Ministre, nous descendons par une pente rapide vers l'impuissance radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dans ce climat aucun travail, mais alors comment s'y établir, pourvoir aux nécessités de la défense, des constructions d'hôpiteaux, de baraques etc... C'est un cercle vicieux contre lequel on viendrait se briser la tête. (Archives Nationales (Fonds marine) BB4769 CHT, SĐS. trang 108).
b.- Trước tình hình nguy ngập như trên, ngày 8-4-1859 một chỉ thị khác của Bộ Hải Quân và Thuộc Địa gởi cho Đô đốc R. de Genouilly như sau :
Vì thế Hoàng Thượng tin cậy ở kinh nghiệm và sự sáng suốt của Ông trong mọi quyết định, với lực lượng dưới quyền Ông điều khiển, có nên theo đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên Vương quốc An Nam không; hay chỉ nên cưỡng bức Chính phủ họ, nhờ vào việc chiếm đóng Đà nẵng và nhiều cứ điểm khác mà Ông đã chiếm hay sẽ chiếm được. Cùng với việc phong tỏa một hay nhiều cảng ở Nam Kỳ để đi đến sự ký kết một hiệp ước trên nền tảng kế hoạch 25-11-1857; hay cuối cùng là chúng ta đành bỏ các vị trí mà chúng ta chiếm đóng và từ bỏ hẳn mọi mưu toan rõ ràng ngoài tầm các phương tiện hoạt động mà Ông có. (Chỉ thị của Thượng thư Bộ Hải Quân và Thuộc Địa 8-4-1859, Thư Khố Quốc Gia, Tài Sản Hải Quân, BB4 1045. CHT, SĐD, trang 118 & 119).
Nguyên văn tiếng Pháp :
“Sa Majesté s'en rapporte donc à votre expérience et à votre sagacité pour décider si avec les forces placées sous votre commandement, il convient de poursuivre l'établissement de notre protectorat sur l'Empire annamite ; s'il est préférable de se borner à peser sur son gouvernement par l'occupation de Tourane et de tels autres points dont vous avez pu ou vous emparer, ainsi que par le blocus d'un ou de plusieurs ports de Cochinchine, pour arriver à conclure un traité sur les bases du projet du 25 Novembre 1857 ; ou enfin s'il faut nous résigner à abandonner les positions que nous occupons et à renoncer complètement à une entreprise, décidément hors de proportion avec les moyens d'action dont vous disposer”. (Instruction du Ministre de la Marine et des Colonies 8-4-1859, Archives Nationales, Fonds Marine, BB4 1045).
c.- Sau khi Phan Thanh Giản và Lê Duy Hiệp đại diện triều đình Huế ký Hòa ước Nhâm Tuất 1862 với Pháp bị dân chúng lên án là hai kẻ phản quốc. Như thế triều đình Huế đã bỏ rơi phong trào kháng Pháp. Nhưng toàn dân Nam Kỳ đã kháng cự kịch liệt dưới sự điều khiển của Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân v.v... và đã làm cho quân Pháp vô cùng khốn đốn. Sau đây là một đoạn trong bản báo cáo của Bonard đề ngày 18-12-1862 như sau:
Các tàu tôi hiện có, trừ hai chiếc Forbin và Cosmao, đều không thể ra khơi . . . Đoàn quân viễn chinh bị bệnh tật, chết chóc, sự giảm quân làm cho yếu kém, đang bị sử dụng quá sức: Tôi hoàn toàn bị tê liệt về các phương tiện hành động; tàu bè thì thiếu và bị hư . . . Tình trạng thảm hại đó nếu không sửa chữa sẽ đưa thẳng chúng ta đến một tai họa không xa ! Tôi thấy có bổn phận phải báo cho ngài biết . . . Thật là đau đớn, sau bao cố gắng quá sức con người mà tôi đã làm từ 15 tháng nay, bây giờ thì mọi thứ đều phải xem xét lại, do sự bỏ rơi các vấn đề của Nam Kỳ . . . các cuộc khởi nghĩa đồng loạt nổi lên khắp nơi . . . Tôi bị đẩy vào thế tự vệ, không có phương tiện để lập một đoàn quân chỉ 200 người... Tôi yêu cầu Đô đốc Jaurès gửi ngay cho một số viện quân. Nếu lực lượng tăng viện đến ngay, tôi có thể làm chủ được tình hình, nếu không thì đành bất lực. (Thư khố Bộ Ngoại Giao Châu Á, kỷ yếu và tài liệu, tập 28 trang 221-224. Dẫn theo CHT, trang 170).
Nguyên văn tiếng Pháp :
“Les vieux bâtiments dont je dispose sont, à l'exception du Forbin et du Cosmao, incapables de prendre la mer . . . Le personnel du corps expéditionnaire affaibli par les maladies, les morts et les congédiements, est surmené: Je suis complètement paralysé dans mes moyens d'action; mes navires sont insuffisants et en trop mauvais état... Cet état déplorable, si l'on n'y porte un prompt remède, nous mène droit à une catastrophe qu'il est de mon devoir de signaler à Votre Excellence comme imminente... Il est pénible, après les efforts surhumains que je fais depuis 15 mois, de voir tout remis en question, par suite de l'abandon dans lequel sont laissées les affaires de Cochinchine . . . L'insurrection a éclaté partout à la fois . . . Je suis réduit à la défensive, n'ayant pas les moyens de former une colonne de 200 hommes... Je demande à l'amiral Jaurès instamment de m'envoyer quelques renforts. Si ces renforts arrivent promptement, je pourrai me rendre maitre de la position, si non, non”. (Dépêche du 10, 12, 1862, Archives du Ministère des Affaires Étrangères Asie, Mémoires et Documents, vol. 28, fol. 221-224).
d.- Ngày 27-1-1863 Bonard cũng than thở :
Lực lượng chúng ta giảm dần vì chết, vì bệnh, vì rút quân, đang bị đuối sức từng ngày, rõ ràng không thể tiếp tục trong sáu tháng một chiến trận như thế này. Chúng ta thiếu Bộ binh, thiếu Hải quân, thợ máy, phương tiện chuyên chở, tất cả trang bị Hải quân chúng ta hoàn toàn cũ mèm mà không có phương tiện sửa chữa; sự vận tải trên đất cũng thành vô hiệu, vì thiếu tài xế cho xe bộ binh, thiếu xe cứu thương, thiếu thực phẩm v.v... (Văn thư 27.1.1863 trang 295 và 318).
Nguyên văn tiếng Pháp :
“Notre effectif réduit par les morts, les maladies, les évacuations est accablé de fatigue; chaque jour il diminue ; il est matériellement impossible de continuer 6 mois une pareille campagne. Nous manquons d'hommes, de marins, de mécaniciens, de moyens de transport ; tout notre matériel naval est complètement usé, et sans que nous ayons les moyens de pouvoir les réparer ; les transports par terre sont aussi radicalement anéantis, faute de conducteurs pour le train d'artillerie, les ambulances, les vivres etc . . .” (Dépêche du 27-1-1863, fol. 295 et 318, CHT, SĐD, trang 170 & 171).
Qua bốn chứng liệu của các viên chức cao cấp trong bộ Hải Quân và Thuộc Địa, chúng ta thấy rõ triều đình Huế đã không nắm vững tình hình của Pháp, bằng không, thì Pháp đã bị bại trận từ đầu.
Trong lúc số phận của quân thực dân Pháp sắp cáo chung đến nơi, như chúng ta thấy ở trên, thì Nguyễn Trường Tộ lại viết :
Nay các nước phương Tây, đã bao chiếm từ Tây Nam cho đến Đông Bắc, . . . ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa, ai hòa với họ thì được yên, . . . Từ đó, Nguyễn Trường Tộ dõng dạc khuyên dân Việt Nam:
Huống hồ nước Việt Nam ta là một nước nhỏ bé, tại sao lại muốn trái đạo trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được.
Nói cách khác, theo Nguyễn Trường Tộ, thuận với đạo trời (Thượng Đế, BK) thì nên dâng tổ quốc cho giặc Pháp, chống làm gì cho thêm họa. Nguyễn Trường Tộ còn viết tiếp: Con giao long (người Pháp, BK) khi thấy đầm vực (Việt Nam) thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi. Câu quả quyết chắc nịch nầy của ông có một giá trị nào không? Qua vài dẫn chứng ở trên và sau nầy, và qua trận Điện Biên Phủ, 1954, chúng ta đã thấy được câu trả lời rồi.
3.- Lính Việt Nam hèn nhát, chưa đánh đã chạy.
Nguyễn Trường Tộ đánh giá quân đội Việt Nam rất thấp lúc viết :
Quân ta mới nghe thân thế họ đã phách lảng hồn xiêu rồi . . .
. . . Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa xáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên như nước chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi.
Không biết Nguyễn Trường Tộ căn cứ vào đâu mà đánh giá quân đội ta một cách tồi tệ bi thảm hóa tình hình và quá sai lạc như thế. Sau đây là vài bằng chứng.
Văn thư đề ngày 21-9-1859, Đô đốc R. de Genouilly viết :
Càng đi sâu vào tình hình Vương Quốc An Nam, các bức màn càng vén lên, những lời khẳng định dối trá (của các giáo sĩ, BK) càng tan biến, không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh chống lại xứ nầy còn khó hơn cuộc chiến tranh chống lại thiên triều . . .
Nguyên văn tiếng Pháp :
. . . à mesure que l'on pénètre dans la situation de l'Emprire annamite, que les voiles se lèvent, que les assertions mensongères disparaissent, il est impossible de ne pas reconnaitre qu'une guerre contre ce pays est plus difficile qu'une guerre contre le Céleste Empire. (Trích trong Dépêche de l'Amiral Rigault de Genouilly, Archives Nationals, Fond Marine # BB4 769: Dẫn theo CHT, trang 117-118).
Bonard cũng lo âu kêu cứu :
Người An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ đây họ tấn công chúng ta ngay những vị trí của chúng ta (Poyen - Notice sur l'Artillerie de la Marine en Cochinchine - Paris 1893 - tr. 81-82. Dẫn theo Thái Hồng trong Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước, SĐD, trang 263). Hai dẫn chứng vừa nêu, cho thấy sự đánh giá tệ mạt của Nguyễn Trường Tộ về tình hình chiến đấu của dân Việt Nam là hoàn toàn sai, và hình như có mục đích nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập của quân đội Pháp.
4.- Giết giáo sĩ, xin một miếng đất, nếu thỏa mãn Pháp sẽ đi.
Nguyễn Trường Tộ viết : Hơn nữa, người Pháp đến đây, một là hỏi ta vì sao giết hại giáo sĩ, hai là hỏi vì sao không chịu giao thiệp, ba là xin ta cắt cho một vài chỗ để làm đường giao thương như các nước thường làm. Lúc đầu họ không có ý đi cướp nước người. Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn như đã ước định chứ đâu đến nỗi dây dưa lan rộng như thế. Cũng ví như nước lụt, người hiểu biết thì thuận theo thế nước mà cho chảy xuôi, để nước chảy về sông về biển thì hết, nếu ngăn đọng lại thì úng núi ngập gò, tắc lại thì trôi nhà trôi cửa. Cho nên người khéo trị lụt, thì việc làm hết sức đơn giản”.
Qua đoạn văn ấy chúng ta thấy Nguyễn Trường Tộ nêu ra mấy vấn đề: Vì sao giết giáo sĩ, sao không chịu giao thiệp, xin ta cắt cho một vài chỗ, họ không có ý đi cướp nước, nếu yêu sách thỏa mãn họ sẽ chấm dứt... Rồi Nguyễn Trường Tộ khuyên rằng, nay đã lỡ rồi, không nên cản ngăn cho sinh họa, nên buông vận mạng quốc gia cho Pháp: như nước chảy về sông về biển thì hết, ngăn lại thì úng núi ngập gò.
Trước lúc đưa ra những dữ kiện để cho thấy cái sai lầm của Nguyễn Trường Tộ, tôi muốn dựa trên cái lý để nêu ra vài câu hỏi: Tại sao giáo sĩ bị giết ? Quốc gia Việt Nam có hay không, quyền không giao thiệp, quyền không cắt nhượng giang sơn ?
Lồng các nhận định của Nguyễn Trường Tộ nêu trên vào khung cảnh nước nhà lúc bấy giờ, và trước lúc Nguyễn Trường Tộ viết bản Di Thảo nầy vào giữa năm 1863 các sử liệu sau đây cho thấy lý do tại sao giáo sĩ bị giết.
4.1.- Giáo sĩ Dòng Tên Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) 1593-1660 đã có chương trình dẫn thực dân Pháp vào chiếm đất nước ta. Trong cuốn Hành Trình Và Truyền Giáo”, (trang 263 & 264, phần Việt ngữ. Hồng Nhuệ dịch, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo xuất bản, Thành phố Hồ Chí Minh 1994). Nguyên văn chính A. De Rhodes chứ không ai khác đã viết như sau:
Tôi tưởng nước Pháp là nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn cõi Đông Phương đưa về qui phục chúa Ki Tô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó tôi rời Rôma ngày 11-9-1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo Hoàng.
Tôi đi qua Marxây và Lyon rồi tới Paris, theo tôi thì Paris là thu gồm hay đúng hơn là bản mẫu tất cả những gì đẹp nhất tôi đã thấy ở khắp trái đất nầy.
“Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Để ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của hoàng hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé này. Trong mười lăm ngày, tôi thấy nơi ngài rất nhiều nhân đức và thương yêu suốt đời tôi, tôi quí mến công ơn và sẽ đề cao hội ngộ may mắn nhất trong suốt các cuộc hành trình của tôi.
Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Đàng Trong, ở Đàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm ở những nơi cùng kiệt cõi đất.
Tôi nhận được vô vàn thư của các cha dòng chúng tôi tự nguyện xung phong trong đoàn binh vinh quang. Tất cả năm tỉnh dòng ở Pháp đều có nhiều người quảng đại ghi tên. Các ngài viết thư về Rôma, các ngài cầu nguyện, các ngài thỉnh cầu bề trên và bề trên đã chọn hai mươi người để trẩy đi trong ít ngày sắp tới . . .
Nguyên văn tiếng Pháp :
J'ai cru que la France estant le plus pieux Royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conqueste de tout l'Orient, pour l'assujettir à Jésus-Christ, & particulièrement que j'y trouuerois moyen d'avoir des Euesques, qui fussent nos Pères, & nos Maistres en ces Églises, je suis sorti de Rome à ce dessein le vinziesme Septembre de l'année mil six cents cinquante deux après avoir baisé les pieds au Pape.
Je suis venu par Marseille, & par Lyon jusques à Paris qui est, à mon aduis, l'abrégé ou plutost l'original de tout ce que j'ai veu de beau dans tout le reste du monde.
C'est en ce chemin de Lyon jusques à Paris ó j'ai encore experimenté vne sset très particulier de la Prouidence qui m'a toujours seruy de guide, & de mère, il me falloit pour paroistre en France, auoir vn Ange tutelaire, qui me donnast vne entrée fauorable dans la Cour du plus grand Monarque de toute la terre .J'eus la rencontre à Roiiane du Puy de Monseigneur Henry de Maupas Euesques, Abbé de Saint Denys, premier Aumônier de la Reyne, il eut la bonté de me tenir en sa compagnie, pendant ce petit voyage, je vis en ce grand Prélat pendant onze jours tant de vertus, & tant de bonté, que je cheriray toute ma vie le souvenir de son mérite, & seray estat que cette rencontre est l'une des plus heureuses de tous mes voyages.
Je n'eus pas plutost publié cette belle Croisade, contre tous les ennemis de la Foy qui sont dans le Japon, dans la Chine, dans le Tunkin, la Cochinchine, & la Perse, qu'aussit-tost vn grand nombre d'enfants de Saint Ignace, animez du mesme esprit, qui a porté Saint Francois Xauier en trois cens Royaumesse sót embrazés de désir, pour prendre la Croix de leur maistre, & l'aller arborer à ces extremites de la terre.
J'ai reccu vn nombre infini de lettres de nos Pères, qui me demandoient d'etre enrollez en cette glorieuse milice, toutes nos cinq Prouinces de France ont suplies de ces genereus pretendants, ils ont escrit à Rome, prié Dieu, solicité nos Superieurs, ils en ont choisi vingt entre plusieurs qui vont partir dans peu de jours. (Đây là loại tiếng Pháp thế kỷ 17).
Đó là một bằng chứng rõ ràng mà chính Linh mục Dòng Tên A. de Rhodes xác nhận là chính ông ta đã vận động triều đình Pháp đánh chiếm Việt Nam.
Chỉ với một thí dụ trên thôi, chúng ta thấy chính Đắc Lộ và ngay cả Giáo hoàng La Mã (người mà Đắc Lộ hôn chân trước lúc đi Pháp) đã âm mưu vận động chính phủ Pháp Cướp nước (chữ Nguyễn Trường Tộ dùng) Việt Nam từ năm 1625, tức là hơn 200 năm trước lúc Nguyễn Trường Tộ ra đời.
4.2.- Lời phê bình của Đô đốc R. De Genouilly :
Để cho vấn đề được vô tư hơn, và để thấy ngay các hành động mà giáo sĩ đạo Gia Tô La Mã đã tác hại cho đất nước Việt Nam, xẩy ra lúc mà Nguyễn Trường Tộ vào khoảng 30 tuổi, chúng ta nên nghe lời than phiền của Đô đốc Rigault de Genouilly về hành động mà họ gọi là kẻ tử đạo.
“Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Gia Tô, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành”.
“Fut - elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affaires politiques, civiles et militaires qui ne sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée, pour les mêmes chefs d'accusation, par une autorité Vietnamienne, la presse des missionnaires aurait crié partout persécution.” (Văn thư 29-1-1859, dẫn theo CHT, SĐD, trang 113).
Đó là hai dữ kiện lịch sử cho chúng ta thấy Giáo hoàng và các giáo sĩ có âm mưu gây tang tóc cho dân tộc Việt Nam hay không ? Và qua sự kiện đó chúng ta cũng thấy được nguyên nhân của các vụ trục xuất và đàn áp giáo sĩ cũng như con chiên. Thế mà Nguyễn Trường Tộ, một nhà thông thái, đã thực sự không biết, hay muốn xuyên tạc lịch sử để nói rằng : Lúc đầu họ không có ý cướp nước người.
Nguyễn Trường Tộ nhận định thêm rằng Nếu những yêu sách . . . được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn. Để đánh giá lời phát biểu nầy, chúng ta nên biết qua một vài sử liệu dưới đây:
4.3.- Bản tường trình của Đô Đốc Bonard :
Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông ở Nam Kỳ là : Biên Hòa, Gia Định, và Định Tường, Việt Nam ký với Pháp Hòa-ước 1862, Đô đốc Bonard gởi cho chính phủ ông một bản tường trình bằng cách đặt bốn câu hỏi, mà câu hỏi thứ tư như sau :
Bằng lòng với ba tỉnh đang chiếm được, tổ chức lại để đảm bảo an ninh và tự do buôn bán dưới ngọn cờ của nước Pháp ư? Đặt câu hỏi như thế, rồi chính Bonard tự trả lời câu hỏi ấy như sau :
Giải pháp thứ tư, đòi hỏi phải có những hy sinh mới, nhưng có thể dẫn đến kết quả là tổ chức và xử dụng được cái xứ rộng lớn mà vũ khí đã may mắn đặt nó vào tay chúng ta. Những hy sinh nầy rất cần thiết để duy trì những ảnh hưởng tốt của chúng ta ở Viễn Đông, bằng không sẽ còn phải thêm bao nhiêu máu và tiền bạc, đổ ra nữa mà không có gì hy vọng trước mắt hoặc trong tương lai.
Nguyên văn tiếng Pháp :
"Se contenter des trois provinces acquises, les organiser, y assurer la sécurité commerciale sous le drapeau Francais ? . . .
“La quatrième combinaison exige de nouveaux sacrifices, mais elle peut amener à organiser et à utiliser le vaste pays que les chances de la guerre ont mis entre nos mains. Ces sacrifices sont indispensables pour maintenir très haut l'influence que nous avons conquise dans l'Extrême Orient, sous peine de voir tout les sang et l'argent dépensés venir s'ajouter à celui tout à fait perdu qu'il faufra pour subvenir aux demi-mesures, desquelles il n'y a rien à espérer ni dans le présent, ni dans l'avenir..”. (Trích trong “Correspondance de Cochinchine, Tom VI,pp. 130 à 147. Archives du ministère de la France - Outremer, Paris : Thư quan hệ giữa Nam Kỳ, tập 4, trang 130- 147. Lưu trử Bộ Ngoại giao Pháp, Paris. Dẫn theo Nguyễn Xuân Thọ trong cuốn Histoire de la Pénétration Francaise Au Vietnam" (1858-1897. Trung tâm văn hóa Linh Sơn xuất bản, Hawaii, 1993, trang 91-92).
Qua ý kiến của Đô đốc Bonard như trên, chúng ta thấy Pháp thỏa mãn với Hòa Ước 1862 sau khi đã ký kết với triều đình vua Tự Đức, nhưng sau đó không lâu, tháng 6, 1867 Pháp chiếm trọn cả Nam Kỳ, Phan Thanh Giản tự tử. Đến ngày 20-11-1873, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết khoảng 2 năm, Pháp lại chiếm luôn Bắc Kỳ, anh hùng Nguyễn Tri Phương bị thương và sau đó cũng uống thuốc độc tự tử.
Như thế, lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ : Nếu những yêu sách của họ được thỏa mãn, họ sẽ chấm dứt những hành động gây hấn là một đề nghị chỉ có lợi cho Pháp mà thôi.
5.- Chiến là đổ thêm dầu vào lửa, hòa là thượng sách.
Nguyễn Trường Tộ viết :
Hiện nay quân Pháp đã chỉnh cư thành Gia Định và các phủ huyện thuộc hạt, họ đào kinh đắp lũy trù kế lâu dài để tỏ ra không chịu đi, như hổ đã về rừng, rồng đã xuống biển. Bây giờ như ta muốn cố thủ thành trì đợi cho họ tê liệt thì thật chẳng khác nào muốn quét sạch lá rừng, tát cạn nước biển. Không hòa mà chiến, khác nào cứu lửa đổ thêm dầu, không những không cứu được mà còn cháy nhanh hơn nữa.
Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà biết rằng hòa với Pháp là thượng sách.
Nếu như ngày kia Pháp đưa quân đến thì việc vượt biển cũng như đi trên đất bằng, trèo non như đi trên đường bộ. Nước ta tựa núi kề biển, địa thế như một con rắn dài. Nếu họ dùng hỏa thuyền chia nhau đánh cắt các tỉnh dọc bờ biển, lại cho các tàu đậu ngoài cửa sông lớn để triệt sự vận tải đường biển của ta, lại cho một đạo quân đóng giữ ở Hoành Sơn để chận đường tiếp tế bằng đường bộ và cắt đường qua lại của đội quân Cần Vương, rồi lại đổ bộ tiến đánh các chỗ xung yếu, gấp rút truyền hịch khắp Nam Bắc, chiêu mộ bọn giặc cướp ẩn náu dùng làm bọn dẫn đường, thì thủy binh của ta sẽ trở thành vô dụng.
Suy nghĩ về 2 đoạn trong bản Điều Trần của Nguyễn Trường Tộ nêu trên, được gởi cho triều đình Tự Đức khoảng tháng 3-4,1863, và một tối hậu thư đề ngày 28-2-1863 của đại diện toàn quyền chính phủ Pháp và Tây Ban Nha gởi cho Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, chúng ta thấy có những ý tứ và những chữ dùng trùng hợp nhau như sau:
Nếu chấp thuận (phê chuẩn hiệp ước) thì dân chúng và vương quốc An Nam sẽ không còn những khốn khổ.
Nếu không, thì Vương quốc ông sẽ không còn nữa, vì điều đó sẽ dẫn đến sự tham dự của những người nổi loạn miền Bắc và sự chiếm đóng tức thời ba tỉnh phía Nam. Như thế vương quốc của ông sẽ mất đi cùng lúc cả Nam Kỳ và Bắc Kỳ.
Nguyên văn tiếng Pháp :
Oui, c'est la fin des malheurs du peuple et du royaume d'Annam.
Non, c'est la ruine de ce royaume, car il entrainera nécessairement l'assistance aux insurgés du Tonkin et la prise immédiate des trois provinces du sud : Votre royaume perdra donc, du même coup le Nam Ky et Bac Ky. (Archives du Ministere des Affaires, Asie, Mémoires et Documents, Tome 28, pp.403 - 404: Trích trong CHT, SĐD, trang 171. Thư khố Bộ ngoại giao, Á Châu, kỷ yếu.)
Sở dĩ có sự hăm dọa như trên vì vua Tự Đức một mặt kiếm cớ trì hoãn sự phê chuẩn hiệp ước, mặt khác vận động chuộc lại các tỉnh đã mất.
Như thế, Nguyễn Trường Tộ có đi đêm với Pháp hay không? Quí độc giả đọc lại lời Nguyễn Trường Tộ khuyên triều đình và những lời hăm dọa hỗn xược của thực dân, như đã nêu trên, rồi tự tìm cho mình câu trả lời.
6.- Nên nhường đất cho lính nghỉ, giáo sĩ chỉ mở rộng đạo không tranh giành đất.
Nguyễn Trường Tộ viết : Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình miếng đất mà thôi, nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết...
Không thấy một nước Trung Hoa to lớn là thế mà còn phải cắt đất cầu hòa . . . Việc cống nạp của Tống (nước Tống bên Tàu thời xưa nộp tiền và hàng hoá cho nước khác, BK), tất cả đều lấy việc không đánh là hơn...
Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổ ngày xưa cắt Quan Trung cho hạng Võ (*) để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới . . .
Còn như các giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến những việc tranh thành tranh đất cả . . .
Trong lúc Tổ-Quốc lâm nguy bị thực dân Pháp cướp nước, toàn dân nổi lên chống Pháp khắp nơi. Người có gậy đánh bằng gậy, người có dao chém kẻ thù bằng dao, người dân nghèo nàn đói khổ thì bỏ nhà ra đi bất hợp tác với quân xâm lăng, thế mà Nguyễn Trường Tộ khuyên quân lính nên nghỉ ngơi, không đánh, nhường đất để họ giữ bờ cõi cho mình . . . tôi xin nhường sự đánh giá này cho độc giả.
Riêng phần tôi xin góp thêm hai ý kiến như sau :
Một, qua các sử liệu mà chúng ta đã thấy, nếu triều đình vua Tự Đức biết được tình hình rối loạn của địch và thấy được thế mạnh của ta, thì quân xâm lược bị chôn xác xuống lòng đất ngay từ những tháng đầu của việc chiếm đóng.
Hai, triều đình Vua Tự Đức muốn giảng hòa với Pháp khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đã mất, nhưng vấn đề đó không thể thực hiện được một cách có lợi cho quốc gia Việt Nam, vì những kết quả tốt đẹp có được tại bàn hội nghị sẽ tùy thuộc vào những chiến thắng quân sự tại chiến trường. Còn không, thì Việt Nam là người đi xin mà Pháp là kẻ bố thí. Người xin chỉ được những gì mà người cho phế thải ra mà thôi.
Thật vậy, trước lúc phái bộ Phan Thanh Giản vào Nam Kỳ để thương thuyết với Pháp, cuối buổi tiệc khoản đãi phái bộ trước khi lên đường, vua Tự Đức nói với các đình thần những lời cảm động như sau:
Đất nước hôm nay đang bị dồn vào ngõ cụt khó khăn; muốn đưa nó thoát ra, chỉ có bàn tay của những người tôi trung tài năng và tận tụy. Có hai điểm cơ bản các khanh cần luôn luôn ghi nhớ: vấn đề nhường đất và vấn đề hành đạo Cơ Đốc giáo. Về hai điểm quan trọng hàng đầu ấy, các khanh đừng nhẹ dạ trong việc ký kết. Đừng vì một sự yếu đuối hay vội vàng nào đó mà làm thiệt hại đến vận mệnh và danh dự của cả giang sơn đang được giao phó vào tay các khanh. Các khanh phải xác định đinh ninh như vậy và dù bất cứ vì lý do nào và bất cứ giá nào cũng đừng đi trệch cái chương trình đã vạch. Các khanh đi! Và cầu cho những lời ước nguyện của Trẫm luôn luôn theo bước các khanh! Cầu mong cho các khanh được sớm trở về, đầy vinh quang vì đã bảo vệ danh dự của non sông và giữ gìn được sự vẹn tròn lãnh thổ. Đây là lời cầu chúc duy nhất của Trẫm cho các khanh trước lúc lên đường.
Nhưng : Ngày 7. 6. 1862, các sứ thần Việt Nam rời Sài Gòn trở về Huế tường trình về nhiệm vụ của sứ bộ: Kết quả đáng buồn, chẳng đáp ứng được bao nhiêu với những ước vọng của nhà vua.
Đất nước bị cắt mất ba tỉnh miền Đông: Gia Định, Định Tường, Biên Hòa, người Pháp bắt một nước đã bị xơ xác vì bao nhiêu nạn chiến tranh và chiếm đóng, phải trả một số chiến phí quá nặng nề: 4 triệu đồng bạc tức khoảng 2.800.000 lượng bạc. Sau nữa, là chuẩn y mười hai điều khoản liên quan đến vấn đề hành đạo Ki Tô và mở cửa đất nước cho việc buôn bán đối ngoại. Dĩ nhiên là trong bữa tiệc tiễn đưa sứ đoàn, tuy có vẻ lạc quan bên ngoài, triều đình chẳng ai hy vọng họ sẽ về với những thắng lợi lớn. Nhưng không ai có thể nghĩ rằng họ sẽ ký kết một hòa ước tai hại như vậy.
Tự Đức khi đọc văn bản hòa ướùc ấy chỉ còn biết thở dài :
Than ôi ! Nào Trẫm có làm nên tội tình gì cho đến nỗi nhân dân phải chịu một số phận tàn khốc đau thương như vậy đổ xuống trên đầu ?
Còn các khanh, những sứ thần khốn khổ, các khanh đã làm gì ? Các khanh đã hoàn thành nhiệm vụ của mình như vậy đó sao ?
Chao ơi ! Các khanh không chỉ là những người mang trọng tội dưới triều đại của Trẫm mà các khanh sẽ phải chịu hậu quả nặng nề về tội lỗi của mình trước lịch sử muôn ngàn đời!. Nguyễn Xuân Thọ Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam (1858-1897), tác giả xuất bản, Hoa Kỳ, 1995, trang 66, 67, 68).
Do đó, ý kiến của Nguyễn Trường Tộ: nên cho quân lính nghỉ ngơi để Pháp giữ bờ cõi cho mình, là một ý kiến nhằm có lợi cho Tây.
Riêng câu nói Còn như giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến việc tranh thành tranh đất cả.
Dưới đây tôi nêu ra hai thí dụ nhỏ trong muôn ngàn thí dụ để thấy cái sai lầm mà hầu như cố ý của nhà thuyết khách Nguyễn Trường Tộ.
Một đoạn trong mật thư đề ngày 24-7-1862, Đô đốc Bonard gởi cho Chasseloup Laubat như sau :
Ai (các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giá-mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục nầy, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ.
Nguyên văn tiếng Pháp :
“Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins.” (Trích trong Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents, Vol, 28, Fol.85 - 88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, trang 85-88. Dẫn theo CHT, SĐD trang 150). Đoạn thư của Bonard nói trên mô tả về âm mưu của các linh mục, giám mục người Pháp. Và một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha như sau :
Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền Thượng Du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn : hăng hái và quá cuồng tín, đa số trong bọn nầy phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ.
“Quant aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils sont beaucoup plus ingouvernables : ardents et fanatiques au dernier degré, un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps, aux révoltes qui affligent le Tonkin”. (CHT, SĐD, trang 152).
Hai dẫn dụ nêu trên, đã cho thấy Nguyễn Trường Tộ bênh vực và đánh giá sai về vai trò của các giáo sĩ Công Giáo La Mã.
Trên đây là vài nhận xét thuộc lãnh vực chính trị của Nguyễn Trường Tộ đối chiếu với các sử liệu chính xác không thể chối cãi. Những sai lầm nghiêm trọng, những lời khuyên, cố vấn và nhận xét hoàn toàn sai lạc về tình thế về lịch sử mà Nguyễn Trường Tộ viết trong bản Điều Trần, giả sử ông không có hậu ý giúp Pháp, thì ông cũng nên được lịch sử phê phán cho đúng mức vì đề nghị sai chỉ có lợi cho Pháp mà thôi. Sau đây là nhận xét về chương trình cải cách của Nguyễn Trường Tộ trong lãnh vực có nhiều tính kinh tế qua một số bản Điều Trầnkhác.
Đi từ nhận định rằng vai trò của kinh tế trong việc làm cho dân giàu nước mạnh, và rằng lúc quốc gia đã mạnh thì có thể giải quyết được mọi vấn đề. Và từ cơ sở Việt Nam là một nước nghèo nàn. Bộ máy hành chánh có thể hoạt động được chỉ nhờ vào các khoản thuế mà nhân dân đóng góp chứ không biết khai thác các nguồn lợi thiên nhiên như hầm mỏ, cây rừng, canh tác nông nghiệp và xử dụng máy móc để phát triển kinh tế. Từ đó, Nguyễn Trường Tộ viết một số bản Điều Trần để đề nghị công cuộc cải cách kinh tế. Bản Điều Trần số 5 Kế Hoạch Làm Cho Dân Giàu Nước Mạnh (Dụ Tài Tế Cấp Bẫm Từ) và Di thảo 27 “Tám Việc Cần Làm Gấp” (Tế Cấp Bát Điều).
Không gì nguy hiểm hơn bạn bè ngu dốt; tôi thà có kẻ thù khôn.
Nothing is as dangerous as an ignorant friend; a wise enemy is to be preferred.
La Fontaine
* * * * *
Nguyễn Trường Tộ : Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất
Nguyễn Trường Tộ Con Người và Sự Thật - Nguyễn Trường Tộ Trong Chiều Dài Canh Tân
Bùi Kha - Phần Ba
Chúng ta sẽ phân tích thêm một số bản Điều Trần quan trọng khác của Nguyễn Trường Tộ về vấn đề tôn giáo, để thấy rõ thêm bản chất. Nhà Canh Tân Vĩ Đại Của Dân Tộc như thế nào?
Thế kỷ 19, vấn đề truyền đạo luôn luôn song hành với phong trào đi chiếm thuộc địa. Nhiều lúc truyền giáo là một cái cớ và tự do tôn giáo là một khí cụ lợi hại cho chủ nghĩa thực dân. Ông Nguyễn Trường Tộ hay tự khoe là người thông thái nhưng ông đã không biết hay cố tình làm hại cho đất nước ông qua một bản điều trần về tôn giáo mà chúng ta sẽ thấy sau đây.
Chương 1 : Tự Do Tôn Giáo
Qua bản di thảo số 2 , chúng ta sẽ thấy những nhận xét sai lầm của Nguyễn Trường Tộ về tôn giáo.
Trong phần đầu của bài viết nầy tôi đã cố tránh vấn đề Gia Tô giáo. Vì không phải mục đích của bài viết nầy là để bàn về cái đó. Nhưng xét thấy, lúc Bàn Về Tự Do Tôn Giáo (Giáo Môn Luận) và các bản Điều Trần có tính tôn giáo cũng là những bài quan trọng của Nguyễn Trường Tộ, nên tôi phải thảo luận thêm vài điểm chính của Gia Tô giáo. Để từ đó, chúng ta sẽ thấy cái oái oăm đau thương của vận mạng dân tộc, đồng thời cũng để thấy được cái đúng cái sai của tư tưởng Nguyễn Trường Tộ về vấn đề tôn giáo nói chung.
Sơ Lược Về Thuyết Thượng Đế, Thánh Kinh Và Hành Động Của Gia Tô Giáo.
Ki Tô giáo (gồm cả đạo Gia Tô La Mã và Tin Lành) khởi đi từ ý niệm tin rằng Thượng đế sinh ra vạn vật, và tổ tông của loài người là ông Adam và bà Eva. Hai người nầy bị rắn dụ dỗ ăn trái táo Thượng đế cấm vì thế mà mang tội, con cháu của hai ông bà về sau, tức là cả nhân loại, bị tội tổ tông từ ông Adam và bà Eva mà ra. Do đó, mới có thuyết Chúa Ki Tô giáng trần để chuộc tội cho nhân loại.
Câu chuyện về Thượng Đế (God) được trình bày rõ ràng tỉ mỉ trong cuốn sách có tựa đề �How The Great Religions Began (Các Tôn Giáo Lớn Được Bắt Đầu Như Thế Nào), tác giả là giáo sư Joseph Gear, dạy khoa Tôn Giáo Đối Chiếu (Comparative Religions).
Giáo sư Gear khám phá ra rằng cách đây trên 4000 (bốn ngàn năm) tại tỉnh UR, địa phận Chaldae, nằm giữa sông Euphrates và Tigris vùng Trung Đông (Do Thái, Ai Cập . . .) có ông thợ làm đồ gốm (đất sét) tên Terah. Ông nặn tượng đủ các loại thần như thần cây, thần sông, thần núi, thần lửa (giống như thần bình vôi ông táo ở Việt Nam). Thiên hạ trong vùng mua về thờ. Họ tin rằng các vị thần nầy sẽ phù hộ cho họ trong cuộc sống.
Một hôm ông Terah sai đứa con lớn tên là Abraham vào dọn dẹp xưởng nặn tượng. Abraham đập bể tất cả các tượng đã nắn xong sẵn sàng để bán. Sáng hôm sau ông bố vào xưởng thấy tượng bể ngổn ngang thành những mảnh đất sét vụn. Bị bố vặn hỏi lý do, người con trả lời rằng các ông thần nầy cãi lộn, đánh nhau vỡ tan tành chỉ còn một ông sống sót đang cầm cái búa trong tay. Dĩ nhiên là bố không tin lời giải thích hoang đường ấy, cuối cùng người con thú nhận đã đập vỡ các pho tượng.
Vì sợ dân trong vùng biết chuyện tượng thần mà họ hằng tin tưởng nay bị đập vỡ, nên bốn bố con ông Terah dời nhà về vùng Canaan tức là nước Palestine bây giờ. Abraham còn có tên là Ibri (Hebrews tiếng cổ của Do Thái). Ông lập nghiệp tại đây và sinh được một người con tên là Isaac.
Issac sinh Jacob. Jacob có tên là Israel, con cháu của Israel gọi là Israelites. Dòng họ nầy sinh nhiều tạo thành một bộ lạc, sống nghề chăn chiên. Con thứ 11 của Jacob (Israel) là Joseph đã dẫn cả bộ lạc của mình qua Ai Cập để sống vì nạn đói tại địa phương.
Dân Ai Cập rất ghét dân Israel vì người Ai Cập thờ đủ loại thần như thần chó, mèo, trâu, bò, cá sấu . . . mà dân Israel thì không. Vua Ai Cập bắt dân Israel làm nô lệ để họ phải thờ thần như người chủ của họ, nhưng họ vẫn hờ hững. Vua Ai cập ghét, ra lệnh giết tất cả các trẻ sơ sinh của dân Israel bằng cách nhận xuống nước.
Có một em bé tên Moses (Môi Se), bị thả trôi sông trên một cái giỏ. Công chúa vua Ai Cập tắm sông, vớt được đem về nuôi. Lúc lớn lên Moses thấy người Ai Cập hành hạ người nô lệ Israelites (cũng gọi là Hebrews) Moses bèn giết người lính Ai Cập rồi ít lâu sau ông dẫn cả đoàn người Hebrews ra khỏi căn nhà nô lệ. Moses cùng em là Aaron tới gặp Vua Ai Cập và nói rằng Thượng Đế sai tôi tới đây để đòi cho dân Hebrews được tự do. Vua Ai Cập (Pharaoh) mở sách có liệt kê Thượng Đế của dân các bộ lạc Edom, Moab v.v... nhưng không thấy tên Thượng Đế của Moses đâu cả, nên không trả tự do cho dân Hebrews, Moses đưa cho Pharaoh xem cây gậy thần có chữ D viết tắt chữ Daan có nghĩa là máu. Moses nói sẽ làm cho dân Ai Cập đổ máu và sẽ giết tất cả những ai là con sinh đầu lòng. Vua Pharaoh sợ vì ông là con đầu lòng. Câu chuyện thần thoại cho rằng, Moses có tài biến hóa, tạo ra ếch nhái xuất hiện khắp xứ Ai Cập và nhiều phép lạ khác. Vì thế Pharaoh cho Moses dẫn đoàn người Do Thái (Israelites) ra khỏi ngục tù nô lệ và về trú tại Vùng Đất Hứa (Promised Land, hay vùng Canaan) tức là xứ Palestine bây giờ.
Đoàn người Do Thái nầy tin rằng Vùng Đất Hứa là đất mà Thượng Đế dành cho một giống dân được Thượng Đế chọn lựa (Chosen People).
Trước lúc tới Vùng Đất Hứa, Moses dẫn đoàn người qua núi Sinai, ông để họ nghỉ tại chân núi, còn ông lên trên đỉnh núi. Sau 40 ngày ông xuống và cầm theo một tấm đá có khắc 10 điều răn (Ten Commandments) và nói là của Thần (God). Hai trong 10 điều giáo lệnh đó là cấm dân Hebrews không được thờ bất cứ một loại thần nào ngoại trừ thần Jehovah cũng gọi là Yahweh và cấm không được giết người. Nhưng chính Moses giết người lính Ai Cập và giết những người thờ bò vàng (Golden calfs) dưới chân núi.
Từ hơn 3000 năm nay tín đồ Do Thái làm lễ Vượt Qua (Passover) vào ngày thứ Bảy, để tưởng nhớ ngày Moses dẫn họ vượt ra khỏi Ai Cập sau hơn 400 năm làm nô lệ.
Đó là tóm lược sự tích về thần hay cũng gọi là Thượng Đế (God) trong cuốn sách kể trên (tóm lược và dẫn theo Hoàng Hà Thanh trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại. (Văn hóa California xuất bản, Hoa Kỳ 1996, trang 15-19).
Chữ God (tiếng Anh) dịch đúng nghĩa là thần. Do đó, mới có môn Thần học (Theology). Nhưng để tăng vẻ quan trọng và thần thánh hóa, người Gia Tô Việt Nam dịch là Thượng Đế cũng còn được gọi là Chúa trời (Lord).
Đoạn tóm lược về sự tích Thượng Đế nêu trên cho chúng ta biết sự xuất xứ gốc tích của Thượng Đế qua nhiều thế hệ để phát triển bộ lạc, để giữ đất, người ta đã phủ lên danh từ God, một màu sắc thần bí và gán cho nó một nhiệm vụ là tạo ra trời đất muôn loài. Nhất là thời hoàng đế Constantine thế kỷ thứ tư. Theo ông Geoffrey Post báo Register, chủ nhật 25, 9-1988, Cali, Hoa Kỳ. Hoàng đế Constantine đã đốt tất cả kinh sách của Ki Tô giáo, và thuê người viết lại theo quan điểm và chính sách của thời đại ông, để giữ thuộc địa và bành trướng thế lực.
Qua nhiều lần sửa đổi bởi nhiều người phàm trần viết, nhưng sợ thiên hạ không tin. Vì thế, lại phủ lên những màu sắc thần bí khác rồi gọi đó là Thánh Kinh chứ không phải Phàm Kinh.
Bởi vì không đọc Thánh Kinh, không biết sách lược của thực dân nên Nguyễn Trường Tộ, cuồng tín đi theo họ, rồi đưa ra những nhận định sai lầm về Thượng Đế (Tạo vật, Chúa trời) như sau:
1.- Không thấy Thượng Đế là Chúa tể cai trị các nước cũng như vua là chúa tể trị vì một nước đó sao ? Các nước khác nhau rất xa về ngôn ngữ . . . nhưng Thượng đế cũng lấy một lẽ mà đối chung cả vạn vật khiến tất cả đều thỏa ý nguyện . . . có thế mới sáng tỏ cái tài năng lớn . . . và cái độ lượng rộng rãi . . . Vua đảm đang công việc giúp Thượng Đế không phải là vua có thể biệt lập một trời đất mà một mình cầm quyền được, chẳng qua chỉ là nhân các dân vật đã được Thượng Đế tạo thành an bài đó mà thương yêu làm cho an ổn . . . (Giáo Môn Luận, TBC, sách đã dẫn trang 116 & 117).
So sánh đoạn văn trên của Nguyễn Trường Tộ với sắc lệnh của Giáo Hoàng Martin V (1417-1431), sau đây chúng ta thấy có những ý tứ trùng hợp :
Sắc lệnh phát xuất từ nguyên lý là tất cả đất đai đều thuộc về Chúa Ki Tô và người đại diện Chúa Ki Tô (tức là Giáo Hoàng, BK) có quyền xử dụng tất cả các đất đai của người không theo đạo Gia Tô, những kẻ ngoại đạo không có quyền sở hữu một mảnh đất nào. Nếu những người phi Gia Tô được cấp phát đất đai thì họ phải theo đạo Gia Tô dù tự ý hay bị cưỡng bách.
Năm 1493 Giáo Hoàng Alexandre VI cũng ký sắc lệnh chia thế giới cho Bồ Đào Nha và Tây Ba Nha, và buộc họ phải truyền đạo để giải thích lý do việc chiếm thuộc địa.
Nguyên văn tiếng Pháp :
La bulle, écrit Henri Martin, partait du principe que la terre appartient au Christ et que le vicaire du Christ a droit de disposer de tout ce qui n'est point occupé par des chrétiens, les infidèles ne pouvant être légitimes possesseurs d'aucune portion de la terre. Le don des terres détenues par les infidèles entrainait implicitement l'assujettissement des habitants pour leur plus grand bien, pour leur conversion volontaire ou forcée à la loi chrétienne”. Plus tard le Page Alexandre VI, de par la bulle de 1493, partageait le monde entre le Portugal et l'Espagne en leur imposant l'obligation de propager la foi du Christ en tant que justification de toute occupation. La bulle pose formellement comme conditon de toute mise en possession le devoir de catéchiser tous les indigèles. (Henri Martin, Histoire de France, Paris, Furme... T. VII p. 293), CHT, SĐD, trang 7).
Đối với tín hữu đạo Gia Tô, thì Giáo Hoàng là người đại diện duy nhất cho Chúa. Từ đó, chúng ta mới thấy cái thâm ý của Nguyễn Trường Tộ : �Không thấy Thượng Đế là Chúa tể cai trị các nước . . .� mà Giáo Hoàng là đại diện cho Thượng Đế. Vậy Giáo Hoàng có quyền cai trị các nước! Và �Vua đảm đang công việc giúp Thượng Đế . . . � mà Giáo Hoàng là đại diện cho Thượng Đế. Như vậy, vua chỉ là người giúp việc cho Giáo Hoàng mà thôi ! Thế thì Giáo Hoàng có thể cách chức vua bất cứ lúc nào ! Con người “thông thái” như Nguyễn Trường Tộ trình bày có khác !
Đoạn văn trên Nguyễn Trường Tộ cũng rập khuôn theo mấy cố đạo người Tây để nói rằng Thượng đế độ lượng. Trong Di Thảo Lục Lợi Từ ở phần trước mục số 5 (tr. 72-73) Nguyễn Trường Tộ cũng nói rằng Tạo Vật yêu người, Tạo Vật quí trọng sự sống, Tạo Vật nhân ái . . . nhưng thực tế đó là một ông thần (God) rất dã man qua đoạn trích trong Thánh Kinh dưới đây :
Dân Số Ký (Numbers) là một trong năm cuốn Kinh Cựu Ước của Gia Tô Giáo, Chương 31, đoạn 1 đến đoạn 46 cho ta những chi tiết như sau :
Đức Chúa Trời bảo ông Môi-Se rằng Hãy báo thù dân Do Thái, thuộc giống Mi-đi-an rồi người sẽ được về làm dân nước Chúa (31:1-2). Vì vậy ông Môi-Se truyền cho dân rằng : Các ngươi hãy sắm sửa binh khí mà ra trận hãm đánh dân Mi-đi-an để báo thù cho đức Chúa Trời (31:3). Vậy, chúng giao chiến cùng dân Mi-đi-an, như đức Chúa Trời đã bảo ông Môi-se và giết hết thảy đàn ông (31:7). Dân Y-sơ-ra-ên bắt đàn bà và con nít Mi-đi-an dẫn theo. Cướp hết thảy súc vật, bầy chiên và của cải họ (31:9), đốt hết thành, nhà ở, và quê hương chúng nó (31:9) cũng lấy đem theo hết thảy của đoạt được, bất kỳ người hay vật (31:11). Bây giờ hãy giết hết thảy các người đàn ông trong đám trẻ con và giết những người đàn bà nào mất trinh (31:17), nhưng các cô gái còn trinh thì để lại làm quà cho các giáo sĩ và binh lính (31:18).
Ông Môi-se và E-lê-a-sa, thầy dòng, làm y như lời đức Chúa Trời dạy bảo (31:31). Tài sản cướp được là 675 ngàn con chiên cái, 72 ngàn con bò, 61 ngàn con lừa đực (31:34) và 32 ngàn cô gái còn trinh (31:35). Số 675 ngàn con chiên cái nói trên chia cho các binh lính 50% còn đức Chúa Trời 50% (31:35-36) . . . 16 ngàn cô gái còn trinh chia cho binh lính, 32 cô dâng cho đức Chúa Trời (31:40). Môi-se và E-lê-a-ra lấy vật cướp được và cô gái còn trinh bắt được dâng cho đức Chúa Trời, y như đức Chúa Trời đã phán dặn cùng Môi-se. (31:41).
Chính Chúa Trời chứ không phải ai khác đã trực tiếp ra lệnh phải cướp của, giết người, cưỡng dâm. Rồi chính �đức� Chúa Trời cũng đòi thụ hưởng gái trinh nữa ! Thế mà Nguyễn Trường Tộ nói Chúa Tạo Vật, Thượng đế độ lượng, thương yêu, nhân ái...
Sau đây là nguyên văn Anh ngữ để quí độc giả đối chiếu :
(Kinh Cựu Ước, cuốn Numbers, chapter 31, từ đoạn 2, 3, 7 - 41) :
And the Lord spake unto Moses, saying, 2 Avenge the children of Israel of the Mid'i-an-ites: afterward shalt thou be gathered unto the people.
3 And Moses spake unto the people, saying, Arm some of yourselves unto the war, and let them go against the Mid'i-an-ites, and avenge the Lord of Mid'i-an.
. . . . . . . . .
7 And they warred against the Midi-an-ites, as the Lord commanded Moses; and they slew all the males.
. . . . . . . . .
9 And the children of Israel took all the women of Mid'i-an captives, and their little ones, and took the spoil of all their cattle, and all their flocks, and all their good.
10 And they burnt all their cities wherein they dwelt, and all their goodly castles, with fire.
11 And they took all the spoil, and all the prey, both of men and of beasts.
. . . . . . . . .
17 Now therefore kill every male among the little ones, and kill every woman that hath known man by lying with him.
18 But all the women children, that have not known a man by lying with him, keep alive for yourselves.
. . . . . . . . .
31 And Moses and E-le-a'zar the priest did as the Lord commanded Moses.
32 And the booty, being the rest of the prey which the men of war had caught, was six hundred thousand and seventy thousand and five thousand sheep.
33 And threescore and twelve thousand beeves.
34 And threescore and one thousand asses.
35 And thirty and two thousand persons in all, of women that had not known man by lying with him.
36 And the half, which was the portion of them that went out to was, was in number tree hundred thousand and seven and thirty thousand and five hundred sheep:
. . . . . . . . .
40 And the persons were sixteen thousand; of which Lord's tribute was thirty and two persons.
41 And Moses gave the tribute, which was the Lord's heave offering, unto E-le-a'zar the priest, as the Lord commanded Moses.
Chúng ta có thể thông cảm ông Nguyễn Trường Tộ về thuyết vũ trụ và sinh vật mà khoa học mới khám phá sau nầy. Nhưng ở thời đại của ông (1830-1871) ít nhất là đã có ba cuốn sách nổi tiếng viết về vũ trụ, về Thượng Đế và Kinh Thánh, và về sự tiến hóa của sinh vật. Đó là cuốn Dictionnaire Philosophique (1764) của Voltaire; cuốn The Age of Reason của Thomas Paine (1737-1809) và cuốn The Origin of Species (1859) của Darwin.
Nguyễn Trường Tộ tự khoe : Về việc học cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ? không môn nào tôi không khảo cứu (Di Thảo số 3. TBC, SĐD, trang 120). Nếu việc học quả tình được như vậy, thì ông Nguyễn Trường Tộ nên đọc Kinh Thánh và đọc ba cuốn sách vừa kể trên để khỏi bị mấy giáo sĩ Pháp lừa gạt và không nên tin những điều sai lầm.
Với những lý sự cuồng tín về tôn giáo, hiểu sai vai trò và sự có thật của tạo vật, của Thượng Đế, Nguyễn Trường Tộ lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài Trần Tình về Giáo Môn Luận nầy và rải rác hầu hết 58 bài Trần Tình của ông, đã làm cho ông có một cái nhìn sai lầm về lịch sử và cổ xúy cho việc hợp tác với thực dân Pháp và Vatican mà tôi đã chứng minh và sẽ chứng minh đó là giải pháp rất tai hại.
Trong Giáo Môn Luận, Nguyễn Trường Tộ viết tiếp :
2.- Xét ra đạo Công Giáo vào nước ta từ thời Lê. Trước tiên các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại”. Bản Điều Trần số 2 Giáo Môn Luận. (TBC, SĐD, trang 116).
Đoạn trên Nguyễn Trường Tộ cho rằng vì lệnh cấm đạo nên mới sinh ra ghen ghét, kỳ thị, tội lệ, giáo dân bị lưu đày và bị hình phạt, là những ý tưởng rất sai lầm và chắc chắn nếu ai có lòng yêu Tổ Quốc thì cũng không thể chịu được các kế hoạch thực dân xâm lược của các ông cố đạo sau đây:
2.1.- Linh mục Legrand De La Liraye viết :
Theo thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh tại nước đó. Cần phải chấp nhận chiến tranh như là cách tốt nhất, phải đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được thì lật đổ chính phủ, bàn chuyện giải phóng cho hai dân tộc thua trận ở Cochinchine và đặt lên ngôi ở Bắc bộ một kẻ giả danh là con cháu nhà Lê.
Nguyên văn tiếng Pháp :
La guerre suivant moi est le seul moyen d'arriver avec ce pays à un résultat serieux. Il faut l'accepter comme ce qu'il y a de mieux, la faire avec promptitude au Tonkin, à Huế et Tourane à la fois, renverser s'il y a moyen le gouvernement, parler de l'emancipation des deux peuples vaincus en Cochinchine et du placement sur les trône d'un pretendant de la famille des Lê au Tonkin. (CHT, SĐD, trang 72).
2.2.- Giám mục Retort (viết thư cho M. Kleckowski) :
Nước Pháp cần phải làm cái gì lớn lao quan trọng lâu dài, xứng với nó và Hoàng Đế của nó. Nếu nước Pháp chinh phục xứ nầy (có lẽ việc nầy không khó) và cai trị trực tiếp, người dân Bắc Kỳ sẽ bằng lòng, nhưng họ thích sống dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với một ông vua riêng. (Đưa ra ảo tưởng để thuyết phục triều đình Pháp, BK).
Nguyên văn tiếng Pháp :
La pensée de Mgr. Retort était plus nette encore; Il faut, déclarait-il, que la France fasse quelque chose de grand, d'important, de durable et digne d'elle et de son Empereur. Si la France faisait la conquête de ce pays (et cela ne lui serait pas difficile) et le gouvernait directement, les Tonkinois en seraient assez contents, mais ils aimeraient mieux être sous la protection et l'influence de la France avec un roi particulier de leur nation. (Lettre de Mgr. Retord à M. Kleckowski précitée: Thư giám mục Retord gởi Kleckowsky trong công văn 12-10-1857 của Đô đốc Rigault de Genouilly. Thư khố quốc gia, tài sản Hải Quân BB4 752, CHT, SĐD, trang 80).
2.3.- Linh Mục Huc : Nên chiếm cả nước Việt Nam. Ông trình bày trước Ủy ban Nam Kỳ :
Có một gia đình cho rằng mình thuộc dòng vua chính thống và có lẽ chúng ta có thể xử dụng nó để lật đổ triều đình hiện nay . . . Ngay từ đầu, nên lập chế độ bảo hộ mà giữ nước của vua nầy lại nghiên cứu tổ chức trong nước giống với tổ chức của chúng ta và cuối cùng sẽ tuyên bố chúng ta là chủ của xứ đó".
Nguyên văn tiếng Pháp :
Une famille qui prétend être la branche royale légitime et qu'on pourrait peut-être s'en servir pour renverser la dynastie actuelle . . .; il faudrait dès le principe établir le Protectorat en gardant la personne du Roi, étudier l'organisation du pays qui ressemble beaucoup à la nôtre et arriver enfin à nous déclarer maitres du pays. (Réponse du Père Huc, Procès-verbal, 5è séance, commission de Cochinchine, CHT, SĐD, trang 81, Linh mục Huc trả lời, biên bản phiên họp thứ 5, Ủy ban Nam Kỳ).
2.4.- Giám mục Pellerin :
Việc lập một hiệp ước có chữ ký của vua, việc có mặt của một lãnh sự, việc mở các cảng, việc xuất hiện của Hải quân bảo đảm được trong một thời gian mọi quyền lợi của chúng ta, nhưng một sự chiếm đóng hay một nền bảo hộ thì tốt hơn nhiều.
Nguyên văn tiếng Pháp :
La conclusion d'un traité signé par le roi, la présence d'un consul, l'ouverture des ports, l'apparition des forces navales garantiraient pour un temps tous nos intérêts mais une occupation ou un protectorat serait de beaucoup préférable. (Géséance, Commission de Cochinchine, CHT. SĐD, trang 81).
Những trích dẫn trên cho chúng ta thấy từ thời chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, giáo sĩ Dòng Tên A. de Rhodes đã vận động chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam. Về sau nầy, trước lúc Pháp đánh chiếm Đà Nẵng 1858, các Giám mục, Linh mục Pháp như Pellerin, Legrand, Retort, Huc đã trình bày với triều đình Pháp và với Ủy Ban Nam Kỳ (Commission de Cochinchine) để chiếm Việt Nam. Vậy mà nhà “thông thái” Nguyễn Trường Tộ lại nhận định quá sai lầm trong bài Giáo Môn Luận.
Để cho vấn đề được vô tư, rõ ràng và chính xác hơn, tại sao triều đình nhà Nguyễn cấm đạo Gia Tô La Mã, tôi xin trích dẫn ý kiến của Đô đốc Page trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859 sau đây :
Sau khi đi khắp nước thấy nhiều, nghe nhiều cuối cùng Đô đốc Page công nhận lý lẽ vững chắc của triều đình Huế, chính ông cũng bực mình về thái độ của các nhà truyền đạo và con chiên của họ :
Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Gia Tô đi theo Pháp và xin được đưa vô Saigòn là nơi mà Page đã dựng lên một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao? khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Sao! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chận đứng trộm cướp du đảng, cướp bóc thành phố ? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Gia Tô tại An Nam đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó : Ngoài ra không người Việt Nam theo Gia Tô nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù ?.
Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng, cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ chứ trách gì các vua quan triều Nguyễn.
Nguyên Văn tiếng Pháp :
Après avoir beaucoup parcouru le pays, beacoup regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens.
En effet, tandis que la population fuyait avec épouvante à l'approche des troupes francaises et que des milices armées s'organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000 catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise ? Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c'est leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale ? Pour empêcher les voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage ? Et je suis confus d'avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement par les associations annamites catholiques . . . “Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enriler comme soldat sous le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n'était point leur roi”. Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis ? (Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777. CHT, trang 128 & 129).
Tôi dẫn chứng hơi dài dòng về các hành động tình báo và chính trị mà các linh mục, giám mục ngay cả và các Giáo Hoàng La Mã, để thấy rõ sự sai lầm và nguy hiểm của Nguyễn Trường Tộ lúc Bàn Về Tự Do Tôn Giáo, và khuyên triều đình nên “Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân” cũng như bài “Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp”.
Dưới đây là sẽ trình bày một bản Điều Trần khác cũng thuộc về lãnh vực tôn giáo.
* * * * *
Chương 2 : Dùng Giám Mục, Linh Mục Vào Việc Canh Tân - viết vào tháng 8-1866.
Trong bản Di Thảo số 17 nêu trên, Nguyễn Trường Tộ lại còn táo bạo hơn lúc đề nghị nên dùng giám mục linh mục vào việc canh tân, và qua đề nghị nầy, chúng ta càng thấy rõ hơn cái tư tưởng trọng đạo hơn quê hương của ông.
Nguyễn Trường Tộ viết :
Nay giám mục lên Kinh đô, những điều trước đây tôi đã bẩm điều gì hoãn điều gì gấp giám mục có thể trình bày rõ được. Còn việc sắp đặt và sai phái như thế nào sẽ do triều đình quyết định.
Trước đây giám mục đã từng bàn bạc với tôi rằng nếu triều đình muốn lần lượt canh cải để làm theo các phương pháp mới thì người rất vui mừng ủng hộ. Chỉ vì nay ta chưa có người. Nếu thật tâm tin nhau khẩn khoản yêu cầu, giám mục sẽ đưa các linh mục và đạo đồ, một số có khả năng am hiểu tiếng Tây, học qua một vài phương pháp của phương Tây như Nguyễn Huấn, Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu chẳng hạn sang Tây trước, học gấp các kỹ thuật mới mỗi thứ một năm rồi về sớm giúp vào việc áp dụng thi hành. Bởi vì bọn họ học sơ qua gấp rút trong một năm vẫn còn kết quả hơn là triều đình mở trường mời người Tây đến dạy học trong mười năm. Đó là những điều giám mục nói riêng với tôi như vậy. Về phần tôi, tôi chỉ dùng lời khéo léo dẫn dụ giám mục và các người ấy để họ vui vẻ cầu tiến mà thôi, chứ tôi không có quyền sai sử. Nếu triều đình muốn gấp rút thực hành để tạm thời ứng dụng thì chỉ nên bắt đầu một hai người và trong khi thương nghị cùng giám mục nên nêu rõ tên những người triều đình muốn khẩn phái sang Tây học tập giám mục sẽ không từ chối được. Nhưng không nên nói cho giám mục biết đó là những điều tôi đã góp ý trước với triều đình. (Dẫn theo TBC, SĐD trang 188).
Một cách tổng quát, qua các sử liệu đã dẫn ở trên, chúng ta thấy từ con chiên đến Linh mục, Giám mục như Pellerin, Retort, Gauthier, Húc... và ngay cả các Giáo Hoàng là những người rất nguy hiểm cho vận mạng quốc gia Việt Nam, nên không thể nhờ và dùng vào việc canh tân được. Tuy vậy để được công bằng, chúng ta nên tìm hiểu lý lịch các linh mục mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị trong đoạn văn nói trên.
a. Sơ lược về các Linh mục và Giám mục mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị vào việc canh tân.
Chúng ta có các chi tiết sau đây :
1.- Theo bài viết Nguyễn Trường Tộ Học Ở Đâu của nhà học giả Đào Duy Anh trong tạp chí Tri Tân, số 7 năm 1941, trang 167 cho chúng ta biết chi tiết về Nguyễn Trường Tộ và Linh mục Nguyễn Hoằng như sau:
Nguyễn Trường Tộ học rộng nhưng viết và nói tiếng Pháp không thạo lắm, vì ông không chuyên học chữ Pháp ở Pê Năng (Trường huấn luyện thông ngôn ở Mã Lai, BK) như các ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Hoằng. Bởi thế ông không khi nào làm thông ngôn. Mà khi giúp việc cho súy-phủ thì chỉ làm việc từ-hàn (Lettré) cũng như Tôn Thọ Tường. Mỗi khi triều đình cần dùng người thông ngôn thì Nguyễn Trường Tộ cứ giới thiệu Nguyễn Hoằng (Linh mục Hoằng) chứ tự mình không khi nào đương việc ấy.
2.- Về những người làm thông ngôn như Nguyễn Hoằng, những viên thư ký, như Nguyễn Trường Tộ, nhà sử học Cultru đánh giá họ như thế nào ? Xin xem lại phần 2. Dưới đây tôi chỉ tóm lược :
Về sau, Đề đốc Rieunier nói : “Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thủ du thực.”
Đại tá Bernard cũng viết bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét, hoặc vì tội phạm xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ ham sống sợ chết, họ hoàn toàn hờ hững với cuộc đấu tranh của dân tộc họ, phụng sự bất cứ những ông chủ nào...
Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ tất cả nhân viên hành chánh cần thiết cho địa phương hoặc những người giúp việc gia đình: làm đày tớ, khuân vác, chạy giấy, và có những tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép, được đào tạo thô sơ qua các nhà trường của hội Truyền giáo, chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn nầy mà quân đội thực dân mới đổ bộ lên làm quen với người Việt Nam.
Qua ba sử liệu vừa trích dẫn trên cho thấy chính Đề đốc và đại tá người Pháp cũng đánh giá người Việt Nam theo Gia Tô lúc bấy giờ, những người thông ngôn, phiên dịch, ghi chép là những kẻ khốn nạn . . . ; “Lưng mềm, dễ uốn, ham sống, sợ chết, phụng sự bất cứ những ông chủ nào . . .”.
3.- Còn Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều là những tên gián điệp mà tôi đã đưa ra nhiều dẫn chứng ở phần trước nhất là từ các trang 118 đến 135. Sau đây là một số dẫn chứng khác cho thấy cả thầy lẫn trò của Gauthier nói trên là những thành phần nào ?
3.1.- Theo Sự Tích Ông Nguyễn Trường Tộ thì năm 1858, Giám mục Gauthier có đem theo vào Đà Nẵng cụ Khang, cụ Điều (người An Phú), cụ Huấn (người Trung Hậu), khi ấy cả ba ông chưa thụ chức thầy cả. (TBC, SĐD, phần chú thích, trang 190).
Sau nầy chúng ta chỉ thấy Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Joannes. Vị cùng đi Pháp với Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ (1867-1868). (TBC, SĐD, trang, 90).
Gauthier dẫn mấy ông nầy vào để đón giặc Pháp chiếm Đà nẵng năm 1858 mà chúng ta được biết rõ thêm như sau :
3.2.- “Theo lời khai của một lang y (người thôn Thuận An, tổng Thanh Vân, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An) tên Trần Vinh bị tàu Pháp bắt đem đi rồi sau trốn thoát được, kể lại thì ngày 10 tháng 9 (tức 16-10-1858), tàu Pháp (trên đó có Trần Vinh) đến đảo Nhãn Sơn, trước cửa Mành Sơn, để đón “Đức Thầy Huy và Cố Lý” (tức Giám mục Gauthier và Linh mục Croc, cũng có tên là Hậu và Hòa) nhưng “hôm qua hai vị đã lấy thuyền Nhà Chung với 8 người đi rồi”. Khi tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó rồi.” (Xem Châu bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài Gòn. Do đó, trước khi đem quân vào Sài Gòn, Đô đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859”. (TBC, SĐD, trang 22).
Qua hai đoạn văn trên mà tôi đã trích lại của Linh mục Trương Bá Cần, Tiến Sĩ Sử Học Pháp, chúng ta thấy Giám mục Gauthier, Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh mục Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ . . . tổng cọng là 8 người đã có mặt tại Đà nẵng để chào mừng quân viễn chinh xâm lăng Pháp chứ không thể có hành động nào khác như đi truyền đạo hay du lịch ! Đoạn văn thứ hai trên còn cho biết các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo tại Đà nẵng, đứng đầu là Giám mục Pellerin (là người được Giáo Hoàng Pie IX tán thành cuộc vận động để Pháp chiếm Việt Nam, BK, xin xem phần trước), đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm . . .”. Đô Đốc R. de Genouilly không đồng ý vì thấy đó là vấn đề nguy hiểm nên đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ, Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi sang Hồng Kông . . . đầu năm 1859.
3.3.- Linh mục Trương Bá Cần cho biết thêm :
“Hơn nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là giữa năm 1859 (14) mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông đầu năm 1861 để cùng với Giám Mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài gòn. (TBC, SĐD, trang 22).
Nối kết ba đoạn vừa dẫn trên, theo thứ tự thời gian chúng ta thấy, hai Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình dùng vào việc canh tân thì tất cả hai ông đều đã có mặt trong đám linh mục Pháp mà đứng đầu là Giám mục Pellerin áp lực để quân Pháp đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Còn Nguyễn Trường Tộ thì có mặt trong đám giáo sĩ gián điệp và thực dân hai lần. Lần đầu là tại Đà Nẵng 1858, bị Đô Đốc Genouilly bắt buộc đi Hồng Kông cùng với thầy mình là Gauthier. Lần thứ hai, 1861 cùng với Giám mục tình báo Gauthier trở về Sài Gòn theo yêu cầu của Đô Đốc Charner . . . để mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn . . .
Qua đó chúng ta đã thấy rõ, Nguyễn Trường Tộ có mặt giữa đoàn quân xâm lăng Pháp trong hai biến cố trọng đại: chiếm Đà nẵng năm 1858 và mở rộng vùng chiếm đóng ở Sài Gòn năm 1861. Lịch sử đã không cho thấy Linh mục Hoằng, Linh mục Điều và Nguyễn Trường Tộ có một lời phản đối nào trước hai cuộc xâm lăng của thực dân Pháp nói trên mà chỉ cho thấy họ có mặt trong đoàn quân chiếm đánh nước ta.
Để làm sáng rõ thêm các chi tiết như số lính, ngày tháng và kết quả của đoàn quân Charner, trong đó có cả Nguyễn Trường Tộ và Gauthier mà Linh mục Trương Bá Cần nêu trên, sử liệu cho thấy rằng: Lúc ký xong hòa ước với Trung Quốc ngày 25-10-1860, Phó Đô Đốc Charner lên đường đi Sài Gòn để tăng cường việc chiếm đóng. Ông ta đến đây vào tháng 2-1861 cùng với ba tiểu đoàn bộ binh, 1.200 lính thủy đánh bộ và gần cả một hạm đội mang theo vật dụng cần thiết.
Liên tiếp các ngày 25, 26, 27 tháng 2, lực lượng Pháp chiếm Kỳ Hòa . . . (CHT, SĐD, bản luận án in bằng Rônéo, trang 133).
Nguyên văn tiếng Pháp :
La paix signée avec la Chine (25 Octobre 1860), le vice-amiral Charner se mit en route vers Saigon pour renforcer l'occupation. Il arriva en février 1861, suivi de 3 bataillons des troupes de la guerre, douze cents hommes d'infanterie de marine et presque toute l'escadre apportant le matériel nécessaire. Les 25 - 26 - 27 fevrier, les forces Francaises s'emparèrent de Kỳ Hòa . . .”. (CHT, SĐD,trang 133).
(Ghi chú : Charner lúc đó chỉ là phó Đô đốc, Vice-admiral, chứ chưa phải Đô đốc. Có lẽ Linh mục Trương Bá Cần nhầm lẫn).
Nếu các vị linh mục nêu trên không thuộc loại người Khốn nạn, cong lưng, chạy theo chủ mới như đại tá Bernard người Pháp nhận định thì cũng không thể dùng mấy vị nầy vào việc canh tân đất nước được. Không phải ai nói được tiếng Pháp, làm được thông ngôn thì có thể học được các kỹ thuật mới ?. Nghề linh mục thì có thể canh tân giáo hội, còn canh tân đất nước thì cần đặt lại vấn đề. Hơn nữa bốn vị Linh mục trên được vị Giám mục tình báo Gauthier dẫn dắt, cũng làm chúng ta vô cùng lo âu cho cuộc canh tân nếu triều đình dùng đến họ. Ngay cả Nguyễn Trường Tộ đi sát với một vị giám mục tình báo trong một bối cảnh đất nước lúc bấy giờ, và có mặt ít nhất là hai lần trong đoàn quân xâm lăng nước ta, và theo đám giáo sĩ gián điệp nước ngoài có cho phép chúng ta nghi ngờ Nguyễn Trường Tộ là một người Việt gian hay không? Và Linh mục Nguyễn Hoằng và Nguyễn Điều đã đến Đà Nẵng đón rước quân xâm lược Pháp. Vậy họ chỉ được dùng vào việc canh tân cho sách lược của Pháp để dễ đồng hóa dân tộc Việt Nam ta mà thôi.
Sử liệu cũng cho thấy, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, năm 1871, ý kiến đề nghị “Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân” đã có phần “kết quả” như sau :
“. . . Sau khi Hàm Nghi lên ngôi đi kháng chiến, Chánh Mông sang tòa khâm sứ Pháp xin De Courcy để tên đại tướng giặc thương tình cho hai đội lính Pháp hộ tống sang thành nội làm lễ đăng quang lên ngôi hoàng đế, đặt ra niên hiệu Đồng Khánh thì ông vua bù nhìn nầy được sự cố vấn của Trương Vĩnh Ký và Linh mục Nguyễn Hoằøng (Chức Ngự Tiền Hành Nhân) hợp cùng tay sai đắc lực Pháp như Nguyễn Hữu Độ, Phan Liêm . . . ra sức dùng mồi danh lợi kêu gọi nghĩa quân . . .” (Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam , trang 340). Cùng trang 340 sách nầy, tác giả Nguyễn Sinh Duy, chú thích thêm :
“Còn Nguyễn Hoàng (có chỗ chép Hoằng), sinh 1839, người Hà Tĩnh, theo đạo Thiên Chúa, từng du học ở chủng viện Pénang, Mã Lai. Năm 1876, được cử làm Tham Biện Thương Chính ở Hải Phòng và Hải Dương, năm 1885, hàm Hường lô tự Khanh kiêm Tham Biện việân Cơ Mật, năm 1886, giữ chức Phụ tế đại thần và Ngự Tiền triều vua Đồng Khánh.”
Thật là đại họa, triều vua nhà Nguyễn nuôi ong tay áo, nhận giặc làm con. Đến lúc Đồng Khánh được De Courcy cho lên làm vua bù nhìn để dễ sai bảo. Thực dân Pháp đã đưa được ít nhất là hai tên Việt gian là Linh mục Nguyễn Hoằng và Trương Vĩnh Ký giữ chức quan trọng trong triều vua tay sai Đồng Khánh. Trương Vĩnh Ký là một giáo sĩ Gia Tô tu xuất và đã viết thư tay yêu cầu chính phủ Pháp đánh chiếm Việt Nam. Xin xem cuốn “Ki Tô Giáo, Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại” như đã dẫn chứng ở đoạn truớc. Nguyễn Trường Tộ đề nghị dùng giám mục linh mục “canh tân” kiểu nầy thì thật là hoàn toàn đúng ý và đúng kế hoạch của Giám mục Puginier và Gauthier : nhanh chóng biến “Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ” dĩ nhiên, sau đó là đến lượt Trung Kỳ và Nam Kỳ.
Muốn rõ thêm một linh mục, giám mục có thể dùng để canh tân xứ sở hay không, chúng ta nên biết qua cái bổn phận mà họ được đào tạo từ xưa đến nay.
b. Nhiệm vụ của một linh mục giám mục :
Để vấn đề được chính xác hơn, chúng ta nên nghe lời phát biểu của Linh mục Trịnh Văn Phát: "Giúp quê hương không phải là bổn phận trực tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội vì tôi là người của giáo hội và được đào tạo để sau nầy, phục vụ cho giáo hội. Có nhiều anh em yêu cầu tôi giúp địa phận, tôi thẳng thắn trả lời là tôi không có tự do lựa chọn, tôi đã được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của giáo hội (Tập san Giáo Hoàng Học Viện PIO X Đà Lạt - Liên Lạc, số 2 tháng 7 năm 1995 trang 72. Nhóm Úc Châu thực hiện, dẫn theo Lê Trọng Văn trong tác phẩm “Việt Nam những sự kiện lịch sử trong thế kỷ 20”, Hoa Kỳ, 1997, trang VIII).
Mục đích huấn luyện linh mục là để phục vụ cho giáo hội mà các giáo hội Gia Tô trên toàn cầu lại phải trực tiếp lệ thuộc Vatican, giám mục linh mục không có quyền thoát khỏi sự đặt để và chỉ thị trực tiếp của Giáo Hoàng La Mã. Vì thế, chúng ta không ngạc nhiên lúc Vatican bật đèn thì các cố đạo ngoại quốc hướng dẫn hoặc toa rập với các phong trào chiếm thuộc địa như chúng ta đã thấy trong bài nầy. Cũng vì vậy mà ngay cả 70 năm, sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, Giám mục Nguyễn Bá Tòng năm 1940, tại nhà thờ Phát Diệm đã nhận lãnh Ngũ Hạng Bắc Đẩu Bội Tinh, do thống tướng Pétain, quốc trưởng Pháp tặng. Trong phần đáp lễ, Giám mục Nguyễn Bá Tòng nói Tỏ lòng cảm ơn chính phủ, tỏ lòng trung thành con dân Việt Nam đối với Mẫu quốc Pháp. (xin xem cuốn Hội Hè Đình Đám của Toan Ánh). Với bổn phận của một giám mục linh mục như thế, nên trong thư viết tay ngày 21-8-1944 Giám mục Ngô Đình Thục (anh của TT. Ngô Đình Diệm) từ tòa truyền giáo Vĩnh Long gởi cho Đô đốc Jean Decoux chúng ta thấy có đoạn :
Với tư cách của một Giám mục, của một người Annam và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi (tức là Ngô Đình Khả, BK) được phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An Nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy tại Nghệ An và Hà Tịnh".
Nguyên văn tiếng Pháp :
Je la désapprouve au font du coeur, comme évêque, comme Annamite, et comme membre d'une famille dont le père a servi la France dès sa première venue en Annam et a exposé maintes fois sa vie pour elle dans les expéditions menées, comme lieutenant de Nguyễn Thân, contre les rebelles commandés par Phan Đình Phùng au (à) Nghệ An et Hà Tịnh. (Xin xem thêm cuốn Hồi Ký "Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi". Hoành Linh Đỗ Mậu, Hoa Kỳ 1995, phần phụ lục).
Linh mục Hoàng Quỳnh cũng đã từng tuyên bố Thà mất nước không thà mất Chúa.
Linh mục giám mục được đào tạo với mục đích để phục vụ Giáo hội (hay phục vụ Vatican cũng thế, BK). Còn Nguyễn Hoàng và Nguyễn Điều thì đã cong lưng theo Pháp. Vậy mà Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị triều đình Tự Đức nên dùng giám mục linh mục vào việc canh tân là một hậu ý hết đường phê phán !
Đoạn kế tiếp của bản Điều Trần nầy, Nguyễn Trường Tộ viết :
Xin giám mục giúp đỡ . . . nói rõ rằng triều đình muốn giám mục (tức Giám mục gián điệp Gauthier, BK) đến La Mã đạo đạt lên Giáo Hoàng về ý muốn giao hảo. Tôi quả thật bị choáng váng với cái đề nghị tai hại nầy nên không dám bàn thêm sợ thiếu ái ngữ.
Cũng như hầu hết những người Việt Nam khác, lòng tự ái dân tộc, tình yêu quê hương nồng nàn, nhưng lúc thấy Giám mục Gauthier, Giám mục Sohier, Giám mục Croc, Linh mục Nguyễn Hoằng, Linh mục Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ là những người hoặc có tham dự ít nhiều vào việc mở trường tại Huế, hoặc Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình nên dùng vào việc canh tân đất nước, thì chính những người nầy lại có những hành động đón rước, hợp tác, hỗ trợ cho thực dân Pháp xâm lăng quê hương trong bước đầu chiếm Đà nẵng và mở rộng vùng bị chiếm đóng tại Sài Gòn. Nghĩ lại cái cảnh toa rập, “áp lực” và cong lưng ấy, lòng tôi bị quặn đau, bị se lại và buồn thương cho đất nước, cho triều đình vua Tự Đức không hề biết gì về hành động nguy hiểm của các người đó.
Vì thế, để tránh thiếu ái ngữ, tôi không dám nhận định thêm một số bài Di Thảo có tính tôn giáo như Di Thảo số 13 Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Di Thảo số 48 Thương lượng với Giám Mục Croc.
Nhưng đất nước Việt Nam vẫn còn có phước, triều đình nhà Nguyễn vì Ngu muội không chịu áp dụng những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ, còn không thì những con vi trùng trong thịt sư tử đã ăn hết cả thịt lẫn xương của con sư tử từ lâu rồi!
Trước khi qua phần tổng luận tôi có một ý kiến nhỏ với Linh mục Trương Bá Cần về danh từ giáo sĩ. Tôi chưa hề nghe ai nói giáo sĩ là nhân sĩ tôn giáo bao giờ. Chỉ được biết danh từ giáo sĩ là chỉ các vị đi tu bên đạo Gia Tô. Và theo Tờ Trình Của Tỉnh Nghệ An ngày 26-4-1870 của Hoàng Tá Viêm, Ngụy Khắc Đản và Trần Nhượng thì Nguyễn Trường Tọa trước là linh mục (TBC, SĐD, trang 478). Có lẽ, vì thế mà nhiều người gọi Nguyễn Trường Tộ là giáo sĩ, chứ không phải giáo sĩ là nhân sĩ tôn giáo ?
Alexandre de Rhodes
Linh Mục Alexandre de Rhodes, người đầu tiên vận động Pháp đánh Việt Nam.
Nguyễn Trường Tộ : Trong Chiêu Bài Canh Tân
Bùi Kha
http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha01d_NTT.php
Bản in toàn bộ Nguyễn Trường Tộ - 10 tháng 1, 2008 - Phần Bốn : Tổng Luận
Nhận định một số bài Di Thảo quan trọng nhất của Nguyễn Trường Tộ, bằng cách lồng chúng vào trong bối cảnh lịch sử của nước nhà và tình hình tôn giáo chính trị, kinh tế của thế giới lúc bấy giờ, cho phép chúng ta có được một bức tranh khá chính xác về Nguyễn Trường Tộ :
1.- Về Kiến thức và tâm huyết
Nguyễn Trường Tộ tự trình bày về kiến thức của mình như sau :
“Về việc học không môn nào tôi không để ý tới, cái cao của thiên văn, cái sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào tôi không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan hợp trong thiên hạ” (Di thảo số 3).
Nhưng thực tế, tất cả 58 bài Di Thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện có được, Nguyễn Trường Tộ dẫn chứng điển tích hầu như hoàn toàn là của Trung Hoa. Không có bao nhiêu điển tích về Tây Âu, ngoại trừ về “Tân Thế Giới” (Hoa Kỳ), “Năm xứ Ấn Độ”, và tình hình giữa Anh và Pháp . . . , nhưng lại dẫn sai sự kiện lịch sử có hậu ý mà tôi đã chứng minh trong phần nhận định về bản Di Thảo Lục Lợi Từ. Về Thánh Kinh và sách lược của đạo Gia Tô La Mã thì Nguyễn Trường Tộ hầu như sai lầm hoàn toàn vì cuồng tín thiếu trí tuệ, yêu La Mã và làm lợi cho Pháp chứ không phải cho quê hương Việt Nam. Đã thế Nguyễn Trường Tộ còn có những câu đả kích nặng nề những người dùng điển cố Trung Hoa như sau:
“. . . Ngày đêm luôn miệng kêu réo những người từ bên Tàu, chết đã mấy ngàn năm, như Tiêu Hà, Hàn Tín ! Phải chăng chúng ta ngày nay còn mang ơn họ ? Phải chăng người thời nay không bì kịp người thời xưa ? Hay muốn kêu cho họ sống lại ? Như vậy mà cứ học cho đến bạc tóc, thật là quái gở, không thể nào hiểu nổi !” (Di Thảo số 27, “Tế Cấp Bát Điều”). Nhưng hầu hết trong 58 bản Điều Trần, Nguyễn Trường Tộ lại dùng rất nhiều điển cố Trung Hoa !
Ngay cả về võ bị Nguyễn Trường Tộ cũng không có những sáng kiến nào về cách bày binh bố trận theo lối hiện đại của phương Tây thời bấy giờ, mà toàn là lặp lại những mưu lược trong cuốn Tôn Ngô Binh Pháp, là một cuốn về sách lược binh bị của Trung Hoa cổ, mà hầu như các người cầm quân ai ai cũng đều có đọc qua, ngay cả các học sinh trung học như tôi lúc trước.
Sở dĩ Nguyễn Trường Tộ không thể xử dụng một số điển tích Tây Âu vì tiếng Pháp của Nguyễn Trường Tộ chỉ đủ để làm “từ hàn” tức là thư ký - phiên dịch. Hơn mười năm khắng khít với thầy của mình là Giám mục tình báo Gauthier, không biết Nguyễn Trường Tộ có biết thầy mình là tình báo hay không ? Nếu không thì Nguyễn Trường Tộ là một người quá ngây thơ thiếu trí tuệ. Nếu biết mà vẫn theo không chịu tố cáo thì Nguyễn Trường Tộ là người đồng lõa và có tội với đất nước. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai rằng, Nguyễn Trường Tộ biết rất rõ kế hoạch và âm mưu đồng hóa dân tộc Việt Nam của thầy mình (Giám mục Gauthier) vì, hai người khắng khít với nhau, không phải một thời gian ngắn mà suốt hơn 10 năm, ít nhất là từ 1858 đến lúc Nguyễn Trường Tộ chết năm 1871. Đó là chưa nói đến các nghi vấn khác là, Nguyễn Trường Tộ chỉ dạy chữ Hán một thời gian ngắn ở Xã Đoài và được triều đình vua Tự Đức cung cấp tiền bạc lúc nào triều đình sai phái công việc. Các khoản chi tiêu đắt đỏ còn lại, như sống ở Hồng Kông, ở Pháp, đi các nước, tiền trị bệnh và nuôi mẹ già... lấy đâu ra ? Dĩ nhiên là Giám mục Gauthier giúp, nhưng giúp nhiều như vậy chẳng lẽ không có lợi ích gì cho công tác làm gián điệp và chương trình Pháp hóa và Gia Tô hóa nước ta của vị giám mục nầy ?
Do đó, nếu lời nói đầu của cuốn “Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước" viết rằng : “. . . một con người, một trí thức đầy tâm huyết đối với dân tộc và đất nước”, thì phải hiểu đây là dân tộc Pháp, nước Pháp và nước La Mã, chứ có lẽ không phải là dân tộc Việt và nước Việt ? Còn đề nghị “mời ông làm thủ tướng hay cố vấn” như nhà văn Thế Uyên thì kế hoạch đồng hóa của Pháp, của Giám mục Puginier và Gauthier chắc chắn đỡ tốn kém và thành công nhanh chóng !
2.- Về sự nghiệp :
Nguyễn Trường Tộ xây được hai cái nhà thờ để làm chỗ trú ẩn cho các giáo sĩ tình báo, đồng lõa lừa dối triều đình vua Tự Đức trong việc mua máy, mời thầy giáo để mở trường kỹ thuật ở Huế, không có mặt trong hàng ngũ nhân dân Việt Nam để kháng Pháp tại Đà Nẵng, trái lại cùng đi với Giám mục tình báo Gauthier với Linh mục Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và 4 người khác đến Đà nẵng trước giờ Pháp đánh chiếm để chào mừng, và có mặt trong đám giáo sĩ người Pháp mà những người nầy đã “làm áp lực quân đội Pháp đánh Huế cho chóng dứt điểm”. Nhưng bị Đô đốc Genouilly đuổi đi Hồng Kông, vì Genouilly không đồng ý đánh Huế do áp lực của các giáo sĩ nầy. Trong đám giám mục, linh mục bị đuổi có Nguyễn Trường Tộ.
Năm 1861, vâng lời của phó Đô đốc Charner để cùng với Giám mục tình báo Gauthier về lại Việt Nam “để mở rộng vùng chiếm đóng tại Sài Gòn”. Nguyễn Trường Tộ được giao phó công việc từ hàn (phiên dịch) cho tổng hành dinh Pháp.
Sau khi thôi làm việc thư ký nầy, Nguyễn Trường Tộ làm một công việc trọng đại hơn là tùy theo tình hình xâm lược của Pháp để viết các bản Điều Trần, lộng giả thành chân, lúc thì hăm dọa quân dân Việt Nam “ở đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa”, lúc thì đưa ra những đề nghị canh tân không tưởng, hoặc những đề nghị vô cùng tai họa cho quốc gia để có lợi cho Pháp và Vatican, lúc thì nịnh bợ triều đình để dễ bề “làm việc” như bài “Ngôi Vua Là Quí, Chức Quan Là Trọng”, lúc thì làm như có vẻ yêu tổ quốc và chống Pháp như bài “Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định” viết năm 1871.
Thực ra, viết bài nầy là để tránh sự bại lộ và che đậy âm mưu của mình, hoặc để thử lòng triều đình rồi sau đó thông báo cho Pháp. Chứ nếu Nguyễn Trường Tộ thực lòng muốn đánh úp Gia Định tại sao không bàn với triều đình vận động và hỗ trợ phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ đánh, vì lúc đó Phong trào kháng Pháp tại Nam Kỳ rất hùng hậu dưới sự thống lãnh của Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Trương Công Định v.v... Hơn nữa chúng ta nên nhớ rằng Pháp đã chiếm thêm ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ vào năm 1867, và lúc Nguyễn Trường Tộ đề nghị đánh úp Gia Định là 1871, nghĩa là Pháp đã củng cố và tổ chức chặt chẽ bộ máy cai trị của họ toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ, để chuẩn bị chiếm Bắc Kỳ năm 1873. Vì thế, nếu giả sử việc đánh úp Gia Định được thực hiện thì phải có một kế hoạch qui mô: dương Đông, kích Tây, dữ đàng trước, đánh úp đằng sau, chận địch viện trợ, cắt đường tiếp tế, cân nhắc lực lượng giữa ta và địch . . . chứ không thể làm khơi khơi như trẻ em chơi trò "trốn tìm": tuyển chọn một nhóm người từ Bắc và Trung vào, lương thực, khí giới và tinh thần không có thì đánh được ai! Do đó, trong Châu Bản Triều Nguyễn, chúng ta cũng thấy triều đình vua Tự Đức đã nghi ngờ kế hoạch nầy của Nguyễn Trường Tộ, tức là triều đình đã thấy được ông ta một phần nào.
3.- Hô hào “canh tân” : như chúng ta đã thấy có nhiều đề nghị của Nguyễn Trường Tộ không thế áp dụng được, vì :
Thứ nhất, xa vời với thực tế, sai sử liệu và nguy hiểm như trong bài Thiên Hạ Đại Thế Luận, Lục Lợi Từ, Tế Cấp Bát Điều v.v...
Thứ hai, hoàn cảnh đất nước không cho phép, quốc gia không có chủ quyền, như vụ mua tàu London bị lừa gạt, vụ tên lái buôn Dupuis ở Bắc Kỳ. Do đó, lúc đề nghị dùng “Hội nước ngoài” để khai thác tài nguyên, chúng ta phải thận trọng, mà bằng chứng hùng hồn là tổ quốc Việt Nam có nhờ Giáo Hoàng La Mã, có nhờ mấy ông cố đạo đem “văn minh” Kitô vào đất nước Việt Nam đâu ? Và triều đình Việt Nam đâu có nhờ thực dân Pháp “khai hóa” và đồng hóa dân tộc Việt đâu ? Mà họ cũng ngang nhiên xâm lược. Nhiệm vụ hàng đầu của Việt Nam trong giai đoạn Pháp xâm lăng là đánh giặc cứu nước, thiết lập lại chủ quyền là công việc ưu tiên. Nhà cháy không bàn tính phương pháp cứu chữa, mà đi lo kêu người khác đến bàn chuyện “đi buôn” ! Đó là chưa nói đến việc dồn hết tâm lực vào việc phụ để quên việc chính là đánh đuổi quân xâm lăng. Do đó, tôi đồng ý với giáo sư Văn Tân lúc nhận định rằng "Nhưng giả sử các đề nghị cải cách (giả sử có giá trị) của Nguyễn Trường Tộ được thi hành, thì việc đó không những không cứu được nước Việt Nam, mà trái lại chỉ tạo điều kiện làm cho nước Việt Nam chóng mất". (Trích trong bài Nguyễn Trường Tộ Và Những Đề Nghị Cải Cách Của Ông, Văn Tân, Tập San Nghiên Cứu Lịch Sử Hà Nội số 23, tháng 2, 1961, trang 26).
Thứ ba, thực ra, Nguyễn Trường Tộ viết những bản Điều Trần theo sách lược “củ cà rốt” và “cục xương” và Núp Bóng (dưới chiêu bài) Canh Tân để làm lợi cho Pháp và Vatican. Mặc dầu một vài bản Điều Trần trông có vẻ thành khẩn và thực tế như “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh”, “không nên cho giám mục biết tôi nói . . .” nhưng hậu ý của Nguyễn Trường Tộ là cái khác chứ không phải cái đó.
Thứ tư, một số đề nghị khác của Nguyễn Trường Tộ, nếu triều đình Tự Đức áp dụng thì Việt Nam trở thành một cổ ba tròng :
Tròng thứ nhất, là thỏa hiệp với thực dân Pháp mà tôi đã chứng minh là hoàn toàn sai lầm: mục đích của Nguyễn Trường Tộ là để cho Pháp có thì giờ “Dưỡng binh súc nhuệ” (chữ của Nguyễn Trường Tộ) để thực hiện kế hoạch tằm ăn dâu.
Tròng thứ hai, là giao hiếu với Giáo Hoàng để cho các Giáo sĩ thực dân như Legrand, Pellerin, Retort, Huc . . . và các linh mục Việt Nam bản xứ được có đầy đủ “Trị ngoại pháp quyền” để dễ đồng hóa và Gia Tô hóa dân tộc ta, đem tổ quốc dâng hiến cho Pháp và La Mã.
Tròng thứ ba, là đề nghị một số giám mục linh mục tình báo và Việt gian vào trong triều đình để dễ dàng đồng hóa biến người Việt Nam trở thành người Pháp và nước Việt Nam trở thành một nước Pháp ở Á Châu.
Một con người như thế, tại sao có nhiều người nhầm lẫn? để ca tụng ông bằng những danh từ cao quí như “Nguyễn Trường Tộ nhà cải cách lớn của dân tộc . . .” .
Theo tôi, sở dĩ có tình trạng đó vì mấy lý do :
Một, thiếu sử liệu để đối chiếu những đề nghị của Nguyễn Trường Tộ vào tình hình quốc nội và thế giới lúc bấy giờ.
Hai, vài tác giả trích dẫn một số đoạn trong các bài Trần Tình mà không đọc kỹ toàn bộ bài đó và lồng nó vào trong cái khung của tình hình thời đại lúc bấy giờ, để biết cái hậu ý của Nguyễn Trường Tộ, nhất là trong bài “Thiên Hạ Đại Thế Luận” , “Lục Lợi Từ” và “Tế Cấp Bát Điều” mà tôi đã phân tích.
Ba, bị ám ảnh, vì từ trước đến giờ ai ai cũng ca tụng cả, “mình” đâu có đủ hoặc có một số sử liệu để trình bày dưới cái nhìn từ những góc độ khác của lịch sử.
Bốn, bị thu hồn vào lối hành văn tài tình điêu luyện của Nguyễn Trường Tộ như :
“Cái gì không chứa đựng được hết gọi là lớn, chồng chất thành đống nhiều lớp mà không chống chọi nhau gọi là khéo, nhiều thế lực khác nhau, nhiều tính tình khác nhau mà hợp được làm một gọi là giỏi”. (Giáo Môn Luận). TBC, SĐD, trang 116 & 117).
Năm, phát xuất từ lòng yêu Tổ Quốc muốn cho dân giàu nước mạnh và thoát khỏi cái nhục bị đô hộ, nên các tác giả đã không tiếc lời ca ngợi những ai có tinh thần và có chương trình canh tân xứ sở. Thúc đẩy bởi tâm tình yêu nước đáng quí đó, nhưng lúc ca tụng Nguyễn Trường Tộ lại thiếu đối chiếu những đề nghị của ông ta với bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, nhất là không phân tích cẩn thận để xem những hư thực và hậu ý của Nguyễn Trường Tộ thập thò sau bức màn canh tân là gì ? Vì thế, việc ca tụng ông ta không những sai lầm từ những cá nhân, mà sai lầm trên tầm cỡ quốc gia qua nhiều thế hệ, trong suốt hơn một trăm ba mươi năm qua. Rất đáng tiếc !. Còn những người như Linh mục Trương Bá Cần, tôi nghĩ là ông biết rất nhiều về Nguyễn Trường Tộ, vì thấy có trích dẫn một số tài liệu mật của phái bộ Truyền Giáo Hải Ngoại Pháp (Missions Etrangères de Paris), nhưng có lẽ vì tình tôn giáo nặng hơn yêu tổ quốc, nên linh mục hình như chỉ vì vô tình và sơ hở lúc viết, nên để lộ ra cho chúng ta biết một vài chi tiết nhỏ về Giám mục tình báo Gauthier, thực chất ông thầy giáo “trường Kỷ thuật” , các Linh mục Việt gian Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều và Nguyễn Trường Tộ, mà tôi đã trích dẫn một phần trong đoạn viết về “Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân”.
Hy vọng bài viết của tôi đã mở một lối đánh giá khá chính xác về Nguyễn Trường Tộ, lúc đứng trên các góc độ lịch sử thời bấy giờ và căn cứ trên các sử liệu mà hầu hết là các văn thư mật được trao gởi giữa các viên chức Pháp trong các bộ Hải Quân, Bộ Thuộc Địa, Bộ Ngoại Giao và các nhà truyền giáo.
Ở dưới cõi âm, ông Nguyễn Trường Tộ có nhận ra rằng thầy mình và các linh mục giám mục người Pháp đều phục vụ cho Tổ Quốc của họ. Họ có thể bị trách và bị lên án về hành động đó nhưng không thể bị khinh. Còn ông, là người Việt tại sao lại thuộc loại “lưng mềm dễ uốn, chạy theo chủ mới” để bị muôn đời nguyền rủa.
Tuy nhiên chúng ta cũng nên hiểu rằng Nguyễn Trường Tộ chỉ là một con lừa giữa rừng beo. Thế lực của "kẻ mạnh" lúc nào cũng muốn đồng hóa các nước yếu. Không phải chỉ có Giám mục Puginier và Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ mà khi thực dân Pháp sắp bại trận tại Điện Biên Phủ thì Giáo hoàng Pious XII, vận động và đề nghị Hoa Kỳ thả từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt để tiêu diệt dân tộc ta. Sau đó, tại miền Nam, ngoại bang và Vatican đã bồng Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, hai người theo đạo Gia Tô, lên làm tổng thống của một quốc gia mà tín đồ đạo nầy chỉ chiếm chưa đến 10% dân số.
Ngày nay ý đồ đồng hóa ấy vẫn còn tiếp tục dưới những hình thức tinh vi hơn. Để thấy rõ điều đó, tôi xin trích dẫn sáu kế hoạch mà tác giả Hồng Ngọc đã tế nhị khéo léo trình bày một cách bóng bẩy nhưng đúng đắn về sách lược của tôn giáo Tây Phương tại Việt Nam như sau :
a.- Ném đá dấu tay, xúi dục kẻ khác chống Cọng để tạo mâu thuẫn, mà tiếc thay nhiều người bị trúng kế, dọn cỗ cho họ xơi.
b.- Dùng phương tiện ngoại giao cấp cao làm giảm thiểu căng thẳng giữa đôi bên để bành trướng.
c.- Đút lót, hối lộ các cơ quan công quyền để phát triển.
d.- Đưa một số khoa bảng giúp việc cho các cơ quan nhưng thực chất là để lấy tin và làm nội gián.
e.- Tạo điều kiện, giúp phương tiện du học cho một số thành phần trẻ “Con ông cháu cha” để trồng người, đợi chờ cơ hội chính trị lúc thời cơ đến.
g. Thay đổi niềm tin người sắc tộc để lập các quốc gia nhỏ trong một quốc gia lớn.
(Hồng Ngọc "Những Đại Pháp Nạn Của Phật Giáo Việt Nam" trong cuốn "Phật Giáo Trong Thế Kỷ Mới" tập I. Giao Điểm, 1996, trang 113, 114).
Do đó, nghiên cứu để đánh giá các biến cố và sự kiện lịch sử, sẽ giúp chúng ta và các thế hệ mai sau học được bài học “Ôn Cố Tri Tân”.
Mong ước cuối của tôi, nhân viết về Nguyễn Trường Tộ là, đề nghị các sử gia chuyên về lịch sử Việt Nam, trong thời Pháp thuộc và Viện Sử Học Việt Nam, nên có một chương trình và kế hoạch sưu tầm các tài liệu mật tại các Thư Khố Pháp và tại Bộ Truyền Giáo Hải Ngoại Paris, để có một sự đánh giá xác đáng về các nhân vật lịch sử thời bấy giờ trong đó có Nguyễn Trường Tộ. Còn bài viết của tôi cũng còn hạn hẹp cần bổ túc rất nhiều, ước mong được các bậc cao minh chỉ giáo.
Bùi Kha - California, ngày 1-30-1998