Chùa Hà Trung, Thừa Thiên – Huế
Với Tuyệt Tác Bảo Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm Bằng Sa Thạch Cổ Xưa Nhất Việt Nam
Chùa Hà Trung tọa lạc ở làng Hà Trung, xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.Chùa cách trung tâm thành phố Huế khoảng 50 km. Chùa được lập vào thời Hậu Lê, gắn với hành trạng Thiền sư Nguyên Thiều. Thiền sư từ Quảng Đông, Trung Quốc sang Quy Nhơn lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau ra Thuận Hóa lập chùa Quốc Ân. Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu cử ngài đến trụ trì chùa Hà Trung.Ngôi chùa ngày nay được trùng tu năm 1995, đại trùng tu năm 2009. Trụ trì chùa là Hòa thượng Thích Chơn Tế (trụ trì chùa Tường Vân, Huế kiêm nhiệm), Tri sự là Đại đức Thích Quảng Huệ. Ngôi chánh điện có kiến trúc mái chồng diêm. Trên hai nóc mái trước và sau có các cặp rồng chầu mặt rồng ở giữa đội pháp luân. Sân trước chùa có đài Bồ tát Quán Thế Âm và cổng tam quan xưa. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm, thờ tượng Tam Thế Phật ở tầng trên cao. Hương án giữa thờ Đức Phật Thích Ca, phía trước tôn trí tượng Đức Phật A Di Đà.Án thờ hai bên tôn trí tượng Bồ tát Văn Thù và tượng Bồ tát Phổ Hiền.Tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng sa thạch tôn trí ngay giữa Phật điện, bên trong cửa ra vào, hai bên có bàn thờ Hộ Pháp, Tiêu Diện. Bàn thờ Tổ đặt mặt sau điện Phật.Chùa còn giữ nhiều pháp khí, tượng cổ như : tượng đức Phật A Di Đà bằng gỗ phủ sơn, tượng Bồ tát Địa Tạng bằng đồng, chuông đồng đúc năm 1672. Đặc biệt, pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng sa thạch cao 2,43m (phần tượng cao 1,33m, ngang gối 0,87m), được các nghệ nhân chạm trỗ tinh xảo. Tổ chức Kỷ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục vào ngày 05/5/2008 : “Ngôi chùa có tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng sa thạch xưa và lớn nhất Việt Nam”. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã cấp bằng xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa chùa Hà Trung vào ngày 13/10/2006. Sau đây là một số bài viết giới thiệu Chùa Hà Trungvà Thiền sư Nguyên Thiều. Một số thông tin có giống nhau, có khác nhau ; chúng tôi xin cung cấp nội dung để bạn đọc tham khảo. Trang Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) cho biết : “Thiền sư Nguyên Thiều (chữ Hán : 元 韶, 1648-1728) là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Ông là vị Tổ truyền phái Lâm Tế vào Miền Trung Việt Nam đầu tiên, và đã đóng góp nhiều công đức trong việc phục hưng và phát triển Phật giáo ở Đàng Trong. (. . .)
Sư theo thuyền buôn sang Đại Việt (Việt Nam ngày nay) vào năm Đinh Tỵ (1677), và trú ở tại phủ Quy Ninh (tức Quy Nhơn, thuộc tỉnh Bình Định), rồi lập chùa Thập Tháp Di Đà (nay thuộc khu vực Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định) để làm nơi tu và truyền dạy đạo Phật. Năm 1682, Thiền sư Hương Hải của thiền phái Trúc Lâm dẫn theo khoảng 50 đệ tử bỏ Đàng Trong ra Đàng Ngoài. Ở Thuận Hóa vì thế thiếu tăng sĩ, nên chúa Nguyễn Phúc Tầncho người mời sư từ Quy Ninh ra Thuận Hóa. Đến Thuận Hóa, sư chọn chân đồi Hòn Thiên (còn gọi là núi Bân), phía trái núi Ngự Bình để dựng chùa Vĩnh Ân (1689, chúa Nguyễn Phúc Trăn cho đổi tên là chùa Quốc Ân) và tháp Phổ Đồngvào khoảng năm1682-1684. Tiếp theo (trong khoảng năm 1687-1690), sư được chúa Nguyễn Phúc Trăn cử về Trung Quốc để thỉnh thêm tăng sĩ, kinh Phật giáo, Phật tượng, pháp khí sang Đàng Trong. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tốt đẹp, chúa Nguyễn hỗ trợ cho sư mở Đại giới đàn ở chùa Thiên Mụ (Huế). Đầu năm1691, chúa Nguyễn Phúc Trăn mất, con là Nguyễn Phúc Chu lên thay. Năm1692, sư được chúa Nguyễn cử làm trụ trì chùa Phổ Thành ở làng Hà Trung (nên còn được gọi là chùa Hà Trung ; nay thuộc xã Vinh Hà, huyện Phú Vang, tỉnhThừa Thiên-Huế). Tại đây, sư đã thiết trí một tượng Bồ Tát Quan Âm bằng đá thỉnh từTrung Quốc. Giải thích vì sao sư phải rời chùa Quốc Ân, đến làm trụ trì chùa Hà Trung, là một ngôi chùa nhỏ hơn, một sốtài liệu đã cho biết : Ngay khi mới lên ngôi (1691), chúa Nguyễn Phúc Chu hãy còn trọng dụng sư Nguyên Thiều như chúa Nguyễn Phúc Trăn đã quý trọng. Nhưng năm1692, một người Hoa tên A Ban (sau đổi tên là Ngô Lãng) cùng với một số tướng sĩ Chiêm Thành nổi lên chống chúa Nguyễn ở trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay), khiến chúa phải sai Cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh dẫn quân đi đánh dẹp. Qua biến cố này, có thể chúa Nguyễn đã không còn tin ở sự trung thành của người Hoa như trước. Có thể vì vậy, chúa Nguyễn đã cử sư Nguyên Thiều đi làm trụ trì chùa Hà Trung năm1692. Đến ở chùa Hà Trung được ít lâu, thì sư vào đất Đồng Nai ẩn tích và hoằng hóa cho những lưu dân người Việt và người Hoa đã đến làm ăn sinh sống ở nơi ấy. Sau đó, sư lập chùa Kim Cang ở ấp Bình Thảo, thuộc dinh Trấn Biên (nay thuộc xã Tân Bình, huyệnVĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai)”. Trang Wikipedia đã cho biết lý do chúa Nguyễn Phúc Tần mời ngài Nguyên Thiều từ Quy Ninh ra Thuận Hóa ; và cũng cho biết lý do vì sao ngài phải rời chùa Quốc Ân đến trụ trì chùa Hà Trung năm 1692. Cổng thông tin điện tử Thừa Thiên Huế (thuathienhue.gov.vn) cho biết :
“Chùa Hà Trung có tên chính thức là chùa Phổ Thành, tọa lạc ở làng Hà Trung, nay thuộc xã Vinh Hà, huyện Phú Lộc, một nơi cách Huế khoảng 50km.
Đây là một chùa rất nhỏ và xa xôi, nhưng chúa Nguyễn Phúc Chu đã cử ngài Nguyên Thiều, một cao tăng từ Quảng Đông,Trung Quốc, đến trụ trì (năm1695) sau khi ngài lập chùa Quốc Ân. Trước đó ngài được cử về lại Trung Quốc để mời Hòa Thượng Thạch Liêm sang Đại Việt thuyết pháp. Làng Hà Trung vẫn có một truyền thuyết cho rằng làng có một long mạch đã bị bùa yểm và cắt đứt (cũng như chùa Thiên Mụ) nên cần có một vị pháp sư giải bùa và qui tụ linh khí mới trở thành một chốn địa linh được. Hòa Thượng Thạch Liêm sau khi sang mở giới đàn ở chùa Thiền Lâm và ở lại chùa Thiên Mụ một thời gian có ghé qua chùa Phổ Thành trên đường vào Quảng Nam. Ngài có kể chuyện này trong cuốn Hải Ngoài Ký Sự. Ngài Nguyên Thiều đã đem đặ tở đây một tượng Bồ Tát Quan Âm bằng đá, ở tư thế ngồi, cao 1m33, mang từ Trung Quốc sang. Tượng hiện nay vẫn còn. Ngoài ra còn có hai tượng Phật Di Đà bằng gỗ, phủ sơn và chuông đồng đúc năm 1672”. Website chính thức của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết thêm truyền thuyết về làng Hà Trung có long mạch bị bùa yếm và cắt đứt nên cần vị pháp sư giải bùa. Như vậy có phải ngài Nguyên Thiều về đây để giải bùa không ? Trang web này cho biết ngài về trụ trì chùa Hà Trung năm 1695.Website : tinhtam.vn cho biết : “Chùa Hà Trung có tên gọi chính thức là chùa Phổ Thành, thuộc làng Hà Trung, nay thuộc xã Vinh Hà, huyện Phú Lộc, cách Thành phố Huế khoảng 50km. Lịch sử : Tương truyền, vào cuối thế kỷ XVII thời Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần trị vì ở xứ Đàng Trong có nhà sư người Triều Châu (Quảng Đông, Trung Quốc) tên là Tạ Nguyên Thiều đến Qui Nhơn (1677) lập chùa Thập Tháp Di Đà. Từ Qui Nhơn sư nghe Phật tử đồn đãi Hiền Vương rất mộ đạo Phật nên vài năm sau sư giao chùa Thập Tháp lại cho môn đồ rồi lên đường ra lập chùa Quốc Ân và tháp Phổ Đồng nằm dưới chân hòn Thiên (núi Bân) xứ Thuận Hóa (nay thuộc phường Trường An Thành phố Huề). Công cuộc hoằng pháp của sư được Hiền Vương và các chúa sau đó là Ngãi Vương (Nguyễn Phúc Thái), Minh Vương (Nguyễn Phúc Chu) hết sức quý trọng. Qua 20 năm hành đạo gần bên Phủ chúa, tổ được Ngãi Vương và sau đó là Minh Vương ủy thác trở lại Quảng Đông thỉnh kinh, tượng Phật, pháp khí và mời các danh tăng về Thuận Hóa. Trong số tượng Phật thỉnh ở Quảng Đông có tượng Đức Phật Quán Thế Âm bằng đá trắng lớn hơn người thật ngồi chắp tay trên toà sen cũng bằng đá, chạm trổ tinh vi. Tương truyền, tổ thỉnh pho tượng nầy cho Thủ phủ Kim Long, nhưng khi thuyền qua cửa Tư Dung vào vùng phá trước làng Hà Trung thì mắc cạn không đẩy lên được nữa. Tổ nghĩ Đức Phật Quán Thế Âm muốn dừng lại nơi đây nên cho thỉnh tượng lên bờ. Dân làng Hà Trung mừng rỡ kéo nhau ra bờ phá lạy Đức Quán Thế Âm và xin được rước tượng vào làng. Rồi theo chỉ dạy của tổ Nguyên Thiếu, dân làng dựng một ngôi chùa nhỏ mang tên Hà Trung để tôn trí pho tượng. Sau đó không lâu, chúa Nguyễn sắc chỉ cho tổ Nguyên Thiều làm trụ trì chùa Hà Trung, cấp tiền bạc để mở rộng qui mô chùa, xây dựng chùa thành một danh lam của nước Việt. Kiến trúc : Bước vào sân trong chùa là tiền đường và chính điện. Nội thất chính điện thấp, nhỏ, ở giữa thờ Phật, hai bên thờ các vị Bồ tát. Pho tượng Đức Phật Quán Thế Âm đặt trước bàn thờ Phật. Tượng Quán Thế Âm tạc ở tư thế ngồi trên toà sen bằng đá trắng, trải qua thời gian hơn ba trăm năm nay xuống nước biến qua sắc xám.Tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng sa thạch xưa và lớn nhất Việt NamTượng Đức Quán Thế Âm trong tư thế ngồi xếp bàn trên toà sen, hai tay chắp trước ngực, đầu đội mũ Quan âm, người mặc áo nhật bình, có chiều cao 1m33, hai vai rộng 0m53, chu vi của phần ngồi trên toà sen khoảng 2m38. Toà sen gồm 4 thớt đá cao 1m05. Thớt thứ nhất ở trên hết hình hoa sen chu vi chừng 2m7, ba thớt phía dưới lớn dần và chu vi lần lược đo được 2m85, 2m93 và 3m42. Năm mặt trước, trái, phải của của toà sen khối lục giác chạm hình giao long, một nửa rồng, một nửa đã hoá hoa. Mặt thứ sáu phía sau để trơn. Pho tượng Đức Phật Quán Thế Âm chùa Hà Trung là một tác phẩm điêu khắc của nghệ nhân Trung Quốc vào đầu đời Thanh. Đó là pho tượng Đức Phật Quán Thế Âm cổ nhất, chạm khắc tinh vi, là hình ảnh Quán Thế Âm đầu tiên xuất hiện ở xứ Đàng Trong. Đâylà một báu vật của Phật giáo Xứ Đàng Trong.Tuy chỉlà ngột ngôi chùa làng, song chùa Hà Trung thuộc loại “danh lam cổ tự” trong “lịch sử Phật giáo xứ Huế”. Website: tinhtam.vn thì cho biết lý do ngài Nguyên Thiều rời Quy Nhơn về Thuận Hóa là do ngài nghe Phật tử đồn đãi Hiền vươngrất mến mộ đạo Phật. Trang web nàycũng cho biết lý do pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm được thờ ở chùa Hà Trung mà không chở về Thủ phủ Kim Long.Thông tin cả ba trang web nêu trên đều xác nhận chùa làng Hà Trung có tên là Phổ Thành Tự,và pho tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng sa thạch là do ngài Nguyên Thiều mang từ Trung Quốc sang thờ ở chùa Hà Trung.Website: phatgiaohue.vncủa Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế ngày 10/10/2013 có đăng bài của nhà nghiên cứu Hà Xuân Liêm tựa đề : “Chùa Hà Trung - Ngôi cổ tự của Phật giáo Huế”. Ông viết : “Thời sơ sử của ngôi chùa làng Hà Trung được kiến trúc như thế nào hiện không có sách vở nào truyền lại. Nhưng đại loại, theo phong cách kiến trúc của thời đại trong toàn xã hội, thì chùa làng Hà Trung trong thời đầu tiên của nó cũng chỉ là ngôi chùa thấp bé, lợp tranh, vách đất mà sách thường gọi các ngôi chùa như thế là “mao tự”. Bộ sườn nhà thường kết cấu một gian hai chái. Bên trong thờ tự sơ sài nhưng bác lạp, cả Phật, Khổng, Lão và tín ngưỡng bình dân. Các ngôi chùa làng thường ít khi thờ Phật tuần túy.
Đến thế kỷ thứ XVII tl ; chính xác là vào năm Ất Hợi (1695) đời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu (1625-1791) làm chúa Nam Hà, mới được Thạch Liêm Hòa Thượng sang tổ chức Đại giới đàn tại chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa, thì chính vị Hòa Thượng người Trung Quốc này đã có ghé lại chùa Hà Trung, và ông đã miêu tả lại cảnh trí chùa Hà Trung thời đó như sau : “Gần đứng bóng, đến chùa Hà Trung. Man mác xa trông, đây là một vùng eo của biển cả, ba đào chẳng gợn, phẳng lặng như tờ, một vũng cạn bùn lầy, cỏ rêu san sát, nơi ẩn núp của tôm tép cá cua. Thẳng bờ có đóng cừ, mọc đầy những cây dương nước ; một gian chòi cỏ, nơi nương náu của những kẻ làm nghề lưới chài. Chùa cất trên một đám đất bằng, nước bao quanh ba mặt ; ngoài cửa chừng trăm bước là nơi bùn lầy ; đắp đất làm đê, thẳng đê trồng dương liễu ; gió hiu hiu thổi, lau lách phất phơ, cá lội cua bò, ốc hàu lểnh nghểnh ; người đi đường quanh co đùa giỡn, ngắm nhìn phong cảnh, hứng thú xiết bao ! Chợt thấy một cây tùng xanh rợp bóng, một cổ thụ đã mấy trăm năm ! Các chùa nước Đại Việt, chùa nào cũng trồng đầy những thứ tạp mộc, cau dừa xoài mít v.v... Còn cây tùng chỉ thấy đây là một. Xuyên bóng tùng đi vào, chùa không có vòng tường ngoài. Một ao vuông trước điện, nước ao lên xuống ăn rập với nước ròng ngoài sông, vì gần biển đất thấp, lẽ cố nhiên như vậy. Trong ao, cá gáy đỏ vô số, mấy người tùy tòng bẻ bánh tai voi quăng xuống, từng bầy nhảy lên đớp; lội qua lội lại, tự nhiên chẳng sợ người. Luống rau giàn bầu, bồn hoa bụi cúc, rải rác ở các nơi đất trồng dưới gốc tùng. Sau điện có những cây tùng lớn mấy ôm, ngọn queo cành cỗi, rậm rạp ly kỳ, thực là những thiên niên cổ thụ; trên đọt tùng sầm uất, lá xoắn thành từng nắm tròn (. . .) Cai -bá, Giám -tự rước ta vào trong chánh điện để cúng chay. Giám tự nguyên cũng là một thụ giới đệ tử.Cơm chay xong, trở ra thuyền kéo neo đi nữa. Đoái nhìn chùa Sơn điện ngọc, lấp lánh trong bờ biển rừng tùng. Nước mây man mác (. . .) Qua đoạn văn viện dẫn ở trên, ta thấy cảnh một ngôi chùa làng của nước Đại Việt thế kỷ XVII tl được miêu tả như vẽ, rất rõ ràng. Nhưng có mấy điều cần chú ý: Không nói về cách thờ tự, nhất là không nói đến pho tượng Quán Thế Âm bằng đá trắng mà người ta thường theo một giả thuyết nào đó để cho rằng Tổ sư Nguyên Thiều đã mang về đây. Thứ hai là trước khi ngài Nguyên Thiều đến thì ở đây đã có ngôi chùa làng. Nếu không, với cuộc đất trước mặt là vùng bùn lầy, phải đắp đất làm đê, tức là làm con đường chính vào chùa, ba mặt là nước lợ đầm Hà Trung bao quanh, thì người ta trồng tùng ở đây để làm gì mà nó đã trở thành cổ thụ mấy trăm năm ? Sau chùa lại còn có nhiều cây tùng có ngọn queo cành cỗi, thân lớn đến mấy ôm, trên đọt lá xoắn thành từng nắm tròn, tỏ rõ cái đẹp của dáng cây cổ thụ cả trăm năm tuổi thọ. Nếu nói chùa Hà Trung do ngài Nguyên Thiều lập ra vào lúc ngài từ phủ Quy Ninh ra Thuận Hóa vào khoảng năm 1680 tl, thì làm gì quanh chùa lại có loại cây tùng cổ kỳ lạ như vậy. Vì từ đó đến khi Hòa Thượng Thạch Liêm ghé lại chùa vào năm 1695 tl, khoảng thời gian giữa hai điểm mốc ấy mớicách nhau 15 năm ? . . . Các sách sử của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, như Đại Nam liệt truyện tiền bản thì chỉ nói : “Kế ra Phú Xuân Sơn, tỉnh (Sic !) Thuận Hóa dựng chùa Quốc Ân, xây tháp Đồng Phổ” (Sic !). Đại Nam Nhất Thống Chí cũng chỉ ghi : “Chùa Hà Trung ở xã Hà Trung, đời Hiển tông bản triều, Sư Hoán Bích làm trú trì ở đó”. Văn bia “Sắc tứ Hà Trung Tự Hoán Bích Thiền Sư tháp Ký Minh” cũng chỉ viết : “. . . Sơ tích Quy Ninh phủ, sáng kiến Thập tháp Di Đà tự, quảng khai tượng giáo. Tái hồi Thuận Hóa, Phú Xuân Sơn, sùng tạo Quốc Ân tự tịnh Phổ Đồng tháp”. Tất cả các tài liệu viện dẫn ở trên từ xưa tới cận đại, không nơi nào nói ngài Nguyên Thiều dựng lập chùa Hà Trung. Còn về pho tượng, thì trong tất cả các tài liệu trên, kể cả trong sách Việt Nam Phật giáo sử lược, Pháp Sư Mật Thể viết vào năm 1943 tl ; tài liệu bằng tiếng Pháp trong B.A.V.H 1914; không nơi nào có nói rằng pho tượng ấy là do ngài Nguyên Thiều rước từ Quảng Đông qua như một số sách báo hiện nay đã ghi. (. . .) Người đầu tiên viết về pho tượng này với số đo kỹ càng là ông Nguyễn Đình Hòe. Ở trước chúng tôi đã có dẫn, bài của ông viết rất ngắn, chỉ độ một trang, đăng ở B.A.V.H. 1914 tức năm đầu tiên của kỷ yếu này. Ông Nguyễn Đình Hòe đã mô tả pho tượng, bệ sen và đài tượng rất tường tận, chính xác; toàn thể được điêu khắc bằng một thứ đá trắng. Hình Quán Thế Âm lớn hơn người thật, được tạc theo thế ngồi xếp bàn trên bệ sen. Trên đầu tượng đội mũ Quán Âm, mình tượng khoác áo nhật bình, hai tay chấp trước ngực. Nghệ thuật điêu khắc thật điêu luyện tinh xảo, đường nét mềm mại, uyển áo ; nét mặt pho tượng hiền hậu, nghiêm trang. Sau đây là những số đo của ông Nguyễn Đình Hòe đã thực hiện để miêu tả toàn bộ pho tượng bằng đá trắng này : Riêng pho tượng cao 1m33, từ vai trái qua vai phải rộng 0,m53 ; chu vi phần tượng ngồi xếp bàn trên tòa sen là 2m38. Toàn bộ phần đài tượng cao 1m70. Ông còn đo chu vi phần đài tượng hình lục giác kiểu cổ bồng ở dưới với ba cấp độ : 2m85, 2m93 và 3m42. Năm mặt của đài lục giác đều có chạm hình con “giao” một nửa, một nửa hóa thành “hoa lá”. Đây chính là mô-típ “rồng lá” mà trong quyển L’art à Huế, L. Cudière gọi là “mô-típ giao hoa”. Mặt sau của đài bỏ trống, không chạm hoa văn gì. Cũng trong bài nói trên, chính ông Nguyễn Đình Hòe đã được người dân làng Hà Trung cho biết là họ không rõ nguồn gốc tượng như thế nào, mà họ chỉ cho biết mơ hồ là tổ tiên họ đã truyền lại rằng pho tượng ấy đã có từ ba trăm năm rồi. Họ cho biết thêm một huyền thoại: Khi tượng trắng đẹp thì dân được mùa, sung túc ; Khi tượng xám màu thì dân mất mùa, đói khổ ! . . . Từ trước tới nay, sách vở bia ký, văn hóa “folhlore” ở làng Hà Trung đều không nói gì đến nguồn gốc của pho tượng. Nhưng lại có người theo một huyền thuyết đâu đó cho rằng chính Tổ Nguyên Thiều đã thỉnh tượng từ Trung Quốc sang vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái (1687-1691). Hiện nay, giới nghiên cứu đã có người nghi ngờ huyền thuyết này. Trong một bài nghiên cứu về “Ngài Nguyên Thiều với chùa Hà Trung và chùa Quốc Ân”, ông Lê Nguyễn Lưu đã nêu nghi án : - Đứng trên quan điểm thời đại, quyền uy của một vị lãnh chúa là rất lớn. Ngài Nguyên Thiều phụng mệnh chúa sang Quảng Đông mời danh Tăng và thỉnh Pháp khí, Pháp tượng. Nếu ngài đã thỉnh được pho tượng này về đến Hà Trung lại để đó, không đưa lên trình chúa ở Phú Xuân, có thể bị khép tội “biển thủ”. Dù pho tượng to lớn, nặng hàng tấn, ngài Nguyên Thiều đã chở được từ Quảng Đông đến Quảng Nam, chắc thuyền đã vào cửa tư Dung được, thì đưa thẳng về Phú Xuân bằng đường thủy có khó gì đâu, mà lại để tượng lại ở chùa Hà Trung ! Chúng tôi thấy nghi án của ông Lê Nguyễn Lưu đã nêu, có thể chấp nhận được. Không những thế, mà người ta còn có thể nêu lên vô số câu hỏi khác. Nếu nói theo lời tục truyền là vì thế này hay vì thế khác mà ngài Nguyên Thiều phải để pho tượng Quán Thế Âm lại tại chùa Hà Trung ? Ngài đã được chúa mệnh cho đi thỉnh Cao tăng, Pháp tượng, Pháp khí, nhưng khi về đến Hà Trung thì pho tượng bị trở ngại, không đưa tượng lên phủ chúa ở Kim Long được, tại sao ngài không trực tiếp nói rõ sự việc bị trở ngại khó khăn đó với chúa, để chúa phái quân lính về Hà Trung hộ tống pho tượng lên Chính Dinh Kim Long ? Xét về mặt giáo pháp, một vị Tổ sư cả một Thiền phái lớn, đã để lại một bài kệ rất thâm viễn về Thiền tông :
“Tịch tịnh kính vô ảnh,
Minh minh châu bất dung,
Đường đường vật phi vật,
Liêu liêu không vật không”, thì có lý do nào lại làm một công việc là chở theo một pho tượng Quán Thế Âm bằng đá to lớn, nặng và cồng kềnh như thế từ Quảng Đông qua xứ Quảng Nam với bao sự nhiêu khê có thể xảy ra. Một pho tượng như thế phải chở bằng thuyền gì ? Số người đông đảo bao nhiêu mới có thể giúp ngài chuyển pho tượng lên thuyền, xuống thuyền ? Một vị Thiền tổ đã để lại bài kệ sâu xa về thiền mà chúng tôi chắc rằng ai cũng biết và thuộc lòng như thế, liệu có phải là người lại thực hiện những chuyện đầy rắc rối vì pho tượng đá như thế không ? Hơn nữa, kích cở pho tượng và đài tượng cao lớn như thế liệu có phải tượng tạc ra để thờ trong chùa, mà kiến trúc của thời đại cách nay hơn ba trăm năm mươi năm, là “nhà thấp bé, tối tăm, chật hẹp, không chứa đủ mười người, ban ngày đến trưa còn phải thắp đuốc” hay là để tôn trí lộ thiên ? Lại còn biết bao nhiêu câu hỏi về nghệ thuật điêu khắc, về hoa văn “giao hoa”, về cách trình bày đài tượng bằng hình khối lục giác cổ bồng; rồi cách chắp hai tay trước ngực, cách ngồi xếp bàn, áo khoác trên mình tượng . . . thì đó là những nét thuộc nghệ thuật Trung Hoa hay nghệ thuật Đại Việt ? Đá trắng ấy là đá của Trung Quốc, hay đá ở Ngũ Hành Sơn, trấn Quảng Nam, nước Đại Việt ? Bao nhiêu câu hỏi dè dặt với huyền thuyết cho rằng pho tượng này là do ngài Nguyên Thiều chở từ nước Tàu sang và để lại ở chùa Hà Trung !”.Các tài liệu đã dẫn trên cho thấy hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa thống nhất ởchùa Hà Trung về các vấn đề sau :
1. Tên chùa làng Hà Trung có phải là chùa Phổ Thành ? Cổng thông tin điện tử của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết chùa có tên chính thức là chùa Phổ Thành, vậy mà trong bằng xếp hạng di tích lại ghi là chùa Hà Trung ?
2. Ngài Nguyên Thiều lập chùa Hà Trung, hay chùa Hà Trung có trước ? Ngài Nguyên Thiều về trụ trì chùa Hà Trung năm nào : 1680 ?, 1692 ?, 1695 ? Lý do ngài Nguyên Thiều đến Thuận Hóa ? Lý do ngài Nguyên Thiều về trụ trì chùa Hà Trung ? Lý do ngài Nguyên Thiều rời chùa Hà Trung để vào Nam ?
3. Xuất xứ của tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng sa thạch ? Pho tượng tuyệt tác này được ngài Nguyên Thiều đem từ Trung Quốc sang, hay do một vị sư nào khác đem từ Trung Quốc sang ? Đây là pho tượng do các nghệ nhân đời nhà Thanh tạo tác hay là tượng ở Việt Nam ? Nếu là tượng cổ Việt Nam thì xuất xứ ở đâu : Đà Nẵng ?, Ninh Bình ?, Thanh Hóa ? Ai tạo tác bảo tượng này ? Vào thời gian nào ? Trân trọng cung thỉnhý kiến từ Chư Tôn đức Tăng, Ni cùng quý thân hữu gần xa.
Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Giáo sư Võ Văn Tường sưu tập
Tài liệu tham khảo :
A. Sách : Võ Văn Tường, Lê Trần Trường An, 2019, Chùa Việt Nam
- Những Kỷ lục về Di sản văn hóa, nhà xuất bản Thông Tấn, Hà Nội.
B. Website :
1- Phatgiaohue.vn, ngày 10/10/2013, Hà Xuân Liêm, Chùa Hà Trung - ngôi cổtự của Phật giáo Huế.
2- Thuathienhue.gov.vn, Chùa Hà Trung.
3- Tinhtam.vn, Chùa Hà Trung.
4- Wikipedia, Thiền sư Nguyên Thiều.
Chú thích ảnh :
Ảnh 01. Toàn cảnh chùa
Ảnh 02. Đài Bồ tát Quán Thế Âm
Ảnh 03. Chùa Hà Trung (năm 2019)
Ảnh 04. Ngôi chánh điện
Ảnh 05. Điện Phật
Ảnh 06. Bàn thờ Bồ tát Văn Thù
Ảnh 07. Bàn thờ Bồ tát Phổ Hiền
Ảnh 08. Tượng Đức Phật A Di Đà
Ảnh 09-12. Tượng Bồ tát Quán Thế Âm
Ảnh 13. Phần đài tượng thờ Bồ tát Quán Thế Âm
Ảnh 14. Tượng Bồ tát Địa Tạng
Ảnh 15. Bàn thờ Hộ Pháp
Ảnh 16. Bàn thờ Tiêu Diện
Ảnh 17. Bàn thờ Tổ
Ảnh 18. Đại hồng chung cổ (năm 1672)
Ảnh 19-20. Cổng tam quan chùa xưa
Ảnh 21. Biển tên chùa “Hà Trung Tự”
Ảnh 22-23. Ngôi chánh điện và điện Phật chùa xưa
Ảnh 24. Định vị tọa độ chùa Hà Trung
Ảnh 25. Bằng xếp hạng Di tích của Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Thừa Thiên Huế
Website : chuaviettoancau.com,
Facebook : Chùa Việt toàn cầu