Vài Nét Về “Cụ Diệm”
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNls/TCNls06.php
17 tháng 7, 2007
Anh của Cụ Diệm : Giám Mục Ngô Đình Thục
“. . . Với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi (Ngô Đình Khả) cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp...." (trích thư Của Giám Mục Pierre Martin Ngô Đình Thục, gửi Đô Đốc Pháp Jean Decoux, Toàn Quyền Đông Dương) (SH - xem Hai Bức Thư Đi Vào Lịch Sử)
* * * * * *
Phần I
Đã viết về "Cụ Hồ" mà lại không viết về “Cụ Diệm” thì quả là một điều thiếu sót, vì dù sao ông Diệm cũng đã là Tổng Thống của miền Nam trong 9 năm . Nhưng bài này tuyệt đối không phải để đối chiếu so sánh “Cụ Diệm” với “Cụ Hồ” vì không ai có đôi chút hiểu biết lại đi làm công việc vô trí này. Tại sao ? Vì một đằng suốt đời sống gian khổ, tổ chức, tập họp những người yêu nước chống Pháp, mong giành lại độc lập và thống nhất cho đất nước [Cụ Hồ], một đằng làm quan cho Pháp, bắt người yêu nước chống Pháp tra khảo, rồi nằm yên vị trong các Trường Dòng Công Giáo ở Mỹ, Bỉ trong khi nước nhà sôi bỏng vì chiến tranh, kháng chiến chống Pháp trở lại Đông Dương, rồi phút cuối trở về làm “chí sĩ cứu tinh dân tộc” [Cụ Diệm]. Đã có nhiều sách viết về biến cố ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh ở miền Nam. Và không ai có thể phủ nhận là chính cựu Hoàng Bảo Đại đã bổ nhiệm ông Diệm về làm Thủ Tướng. Nhưng những chi tiết từ đâu mà cựu Hoàng Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm thay vì không phải ai khác thì rất ít được viết đến. Có chăng chỉ là sơ sài như ông Diệm được Hồng Y Spellman ủng hộ hay được chính giới Mỹ ủng hộ, tuy rằng dân Việt không có ủng hộ, vì khi đó chẳng có mấy người biết đến ông Diệm .
Chúng ta biết rằng Ông Ngô Đình Diệm không phải là một khuôn mặt chính trị có tầm vóc ở Việt Nam, được nhiều người biết đến trước khi được đưa về Việt Nam làm Thủ Tướng vào tháng 6, 1954. Thành tích của ông trong thời Pháp thuộc không lấy gì làm sáng sủa, chưa kể ông thuộc dòng họ ba đời làm Việt Gian. Thành tích “yêu nước” nổi bật nhất của ông là trong thời Pháp thuộc, khi làm Tri Phủ Hòa Đa, ông đã dùng đèn cầy đốt hậu môn của những người yêu nước chống Pháp để tra khảo. Chúng ta cũng biết, từ năm 1950, ông đã rời quê hương đất tổ của ông để sống trong các Trường Dòng Công Giáo ở Mỹ và ở Bỉ. Vì những thành tích này mà khi ông về cầm quyền, những người Công giáo đã tôn ông lên làm “chí sĩ”, và người dân miền đã Nam bị cưỡng bức phải ca bài “Toàn dân Việt Nam biết ơn Ngô Tổng Thống; Ngô Tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm”. Cuối cùng, “muôn năm” chỉ có vỏn vẹn “chín năm”, và ông đã yên nghỉ cùng Chúa và ông bạn vàng Torquemada (một Đại Phán Quan Tây Ban Nha giống như ông Diệm đã từng tự nhận), tới nay được 43 năm rồi.
Một câu hỏi được đặt ra: với một thành tích “yêu nước” và chính trị không có gì, với một khả năng rất giới hạn, tài và đức đều không có, vậy tại sao ông Diệm lại được chọn để làm Thủ Tướng ở miền Nam ?
Có lẽ những chi tiết trong cuốn “The American Pope : The Life and Times of Francis Cardinal Spellman”, A Dell Book, NY, 1985, của John Cooney, tạm gọi là đầy đủ nhất. Để viết cuốn sách này, tác giả Cooney đã xử dụng những nguồn tài liệu từ chính Nhật Ký của Spellman, những hồ sơ mật của FBI, và qua những cuộc phỏng vấn, nên tác phẩm của Cooney là một nguồn tài liệu rất có giá trị [By using Spellman’s personal diary, FBI classified files, and interviews, Cooney’s volume is an engrossing, valuable document]. Vậy sau đây, tôi xin trích dẫn vài đoạn trong phần nói về ông Diệm trong cuốn sách trên, từ trang 307 đến trang 314 :
“Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng Y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ Tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi người lãnh đạo: Công Giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng.
Spellman đã gặp Diệm ở New York vào năm 1950, khi người Việt Nam này ở trong Trường Dòng Marykoll ở Ossining, New York. Một tín đồ Công giáo trung thành, sinh ra từ một gia đình gia giáo, Diệm ở trong Trường Dòng do sự cầu xin của người Anh, Ngô Đình Thục, một Giám mục Công giáo. Là một người độc thân rất sùng tín, Diệm đã tự tách mình ra khỏi thế giới, đặc biệt là ra khỏi quốc gia tan tác bởi chiến tranh của ông ta. Và ông ta chỉ được biết đến bởi một nhóm nhỏ hoạt động chính trị ở Mỹ. Ở Việt Nam tên ông ta không gây nên một hứng thú nào. Trên chính trường Mỹ, ông ta không được ai biết đến, một tình trạng mà Spellman giúp ông sửa đổi. Lai lịch của Diệm không tránh được sự chú ý của Spellman.
Người đưa Diệm đến Spellman là Linh mục Fred McGuire. Một cựu thừa sai ở Á Châu, kiến thức về Viễn Đông của McGuire được biết rõ ở Bộ Ngoại Giao. McGuire nhớ lại, một ngày nọ ông được Dean Rusk, khi đó làm trưởng ban Á Châu vụ, nhờ dàn xếp để Giám mục Thục, sắp đến Mỹ, tới gặp các viên chức của Bộ Ngoại Giao. Rusk cũng tỏ ý muốn gặp Diệm.
McGuire tiếp xúc với người bạn lâu đời, Giám Mục Griffiths, vẩn còn là chuyên viên ngoại vụ của Spellman. Hắn ta yêu cầu sẽ để cho Thục được tiếp kiến đúng nghi thức bởi Hồng Y. Trong dịp này Diệm đã từ Trường Dòng đến nhà riêng của Spellman. Cuộc gặp gỡ giữa Spellman và Diệm có thể là một cuộc gặp gỡ lịch sử. Joseph Buttinger, một người hoạt động cho những người tị nạn Việt Nam, tin rằng Hồng Y Spellman là người Mỹ đầu tiên nghĩ đến việc đưa Diệm về lãnh đạo Nam Việt Nam.
Tháng 10 1950, hai anh em Diệm đã gặp các viên chức Bộ Ngoại Giao ở khách sạn Mayflower, có cả Rusk. Diệm và Thục được tháp tùng bởi McGuire và ba giới chức chính trị của giáo hội khi đó đang hoạt động để ngăn chận Cộng Sản: Linh mục Emmanuel Jacque, Giám mục Howard Carroll, và Edmund Walsh ở đại học Georgetown. Mục đích của cuộc gặp gỡ này là hỏi hai anh em Diệm Thục về đất nước của họ và xác định những niềm tin chính trị của họ. Điều rõ ràng sau đó là cả Thục và Diệm đều tin rằng Diệm sẽ cai trị đất nước của họ. Sự kiện là Việt Nam chỉ có 10% Công Giáo không đáng quan tâm đối với hai anh em Diệm.
Khi bày tỏ ý kiến trong bữa ăn tối, hai lập trường Diệm tin tưởng nhất đã rõ ràng. Hắn ta tin vào quyền năng của Giáo hội Công Giáo và hắn ta thù địch dữ dội và quyết liệt chống Cộng. Điều này chắc đã phải gây ấn tượng trên các viên chức Bộ Ngoại Giao. Quan tâm đến Việt Nam từ khi Truman bắt đầu giúp tài chánh cho Pháp ở đó (Việt Nam), những viên chức Bộ Ngoại Giao đã luôn luôn để ý đến những người lãnh đạo chống Cộng cực đoan vì ảnh hưởng của Pháp đã phai nhạt. Sau Điện Biên Phủ, Eisenhower muốn ủng hộ một chính phủ mở rộng hơn là chính phủ của ông Vua, người không được quần chúng ủng hộ mấy vì đã từ lâu bị coi như là một bù nhìn của Pháp và Mỹ. Do đó Mỹ muốn có một người Quốc Gia ở địa vị cao ở Nam Việt Nam để làm giảm sự hấp dẫn của Hồ Chí Minh. Kết quả là Bảo Đại đã cho Diệm một chức vụ mà Diệm mà Diệm vẫn muốn – Thủ Tướng.
[[Về chuyện này Bernard Fall viết trong The Two Viet-Nams, trang 244: “Ý thức được rằng mình đang ném ngai vàng đi, Bảo Đại bắt Diệm phải thề (Theo Stanley Karnow, trang 218, Bảo Đại bắt Diệm thề trước cây Thánh Giá [before the crucifix]) trung thành với ông, và nhiều nhân chứng có thẩm quyền quả quyết là Diệm cũng còn quỳ xuống trước Hoàng Hậu Nam Phương là sẽ làm hết sức trong phạm vi quyền lực của mình để “giữ ngai vàng cho Hoàng Tử Bảo Long, con của Bảo Đại” (Fully realizing that he was throwing his throne away, Bao Dai allegedly made Diem swear a solemn oath of allegiance to him, and several authorative witnesses affirm that Diem also swore on his knees to Empress Nam-Phuong that he would do everything in his power “to preserve the throne of Viet-Nam for Crown Prince Bao-Long”, son of Bao Dai). Nhưng chúng ta đã biết, chỉ hơn 1 năm sau, Diệm đã dùng tiền của CIA để tổ chức cuộc Trưng Cầu Dân Ý gian lận để phế bỏ Bảo Đại và lên làm Tổng Thống. Về vụ này Bernard Fall cũng viết, trang 257 : “Trong hầu hết các nơi bỏ phiếu, có nhiều ngàn phiếu nhiều hơn là số cử tri đã bỏ cho Diệm . Thí dụ, Ở vùng Saigon-Chợ Lớn, đếm được 605,205 phiếu trên số 450,000 cử tri ghi danh”. (In nearly all electoral areas, there were thousands more “Yes” votes than voters. In the Saigon-Cholon area, for example, 605,025 votes were cast by 450,000 registered voters)]]
Diệm trở về Saigon ngày 26 tháng 6, 1954, sau Edward Lansdale vài tuần. Lansdale là trùm CIA về quân sự ở Saigon, đặc trách cuộc chiến không theo quy ước [có nghĩa là đánh phá ngầm]
Lập trường của Spellman về Việt Nam phù hợp với những mong ước của giáo hoàng. Malachi Martin, một cựu tu sĩ dòng Tên phục vụ tại Vatican trong những năm Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, nói rằng giáo hoàng muốn Mỹ ủng hộ Diệm vì giáo hoàng đã bị người anh của Diệm, Tổng giám mục Thục, ảnh hưởng. “Giáo hoàng quan tâm đến sự càng ngày càng thắng lợi của Cộng sản do đó làm suy yếu giáo hội”, Malachi xác nhận rằng : “Giáo hoàng ra lệnh cho Spellman khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam”.
Do đó Spellman xếp đặt một chiến dịch hòa điệu kỹ càng để dựng lên chế độ Diệm. Qua báo chí và vận động trong hậu trường ở Washington, vấn đề đối đầu chống Cộng ở Đông Dương được phổ biến rộng rãi ở Mỹ.
Spellman và Kennedy cũng còn giúp lập lên một nhóm vận động hậu trường Washington. Chủ trương của sự đồng minh này là chống Cộng và phát huy ý hệ Công Giáo.
. . . Do đó, rất nhiều người Mỹ tin rằng Việt Nam là một quốc gia phần lớn là Công Giáo. Một phần của cái ấn tượng sai lầm này là kết quả của việc Diệm lên cầm quyền. Với sự giúp đỡ của CIA tổ chức cuộc bầu cử gian lận năm 1955, Diệm hủy bỏ chế độ quân chủ và Bảo Đại bị cưỡng bức phải sống trong cảnh lưu đầy. Cái màu sắc Công Giáo đậm đà trong cuộc vận động hậu trường Việt Nam cũng góp phần tạo nên quan niệm sai lầm trên. Còn một yếu tố khác là sự đặt mình vào trong đường lối trên của Spellman.
Rồi còn có vai trò hấp dẫn của một bác sĩ Công giáo trẻ hoạt động ở Việt Nam tên là Tom Dooley. Một Trung Úy hải quân hoạt động ở Hải Phòng, Dooley làm việc với các người tị nạn.
Là con cưng của Spellman, có một lúc Dooley tổ chức được 35,000 tín đố Công Giáo Việt Nam ở miền Bắc đòi di cư. Có lẽ những nỗ lực của Dooley thành công ở Mỹ hơn là ở Việt Nam. Hắn viết ra những bài trong nhật báo và tuần báo và 3 cuốn sách bán chạy nhất để tuyên truyền cho Công Giáo và chống Cộng theo những niềm tin của hắn. Hắn dựng lên những chuyện người Công Giáo bị khổ nạn trong tay của những người Cộng Sản đã đánh đập vào bộ sinh dục của các linh mục trần truồng, chọc thủng màng tai của những đứa trẻ bằng đũa để cho chúng không nghe được về Thiên Chúa, và mổ bụng phụ nữ có thai. Tốt nghiệp đại học Notre Dame ở Indiana
[thực ra Dooley không tốt nghiệp bác sĩ từ đại học Notre Dame mà từ đại học St. Louis. Trường Notre Dame có tiêu chuẩn cao nên Dooley không theo được và phải bỏ Notre Dame theo học ở St. Louis. Nhưng ngay ở đây, Dooley cũng học rất kém, phải học lại năm cuối, và khi làm nội trú cũng phải làm thêm 6 tháng. Nhưng vì những công việc chống Cộng bịp bợm nên Dooley đã trở thành nổi tiếng như là một bác sĩ tận tụy giúp người di cư và chống Cộng cực đoan. Vì vậy năm 1960, trường Notre Dame trao tặng cho Dooley chức bác sĩ hàm] ,
Dooley đi khắp nước Mỹ để quảng cáo những cuốn sách của mình và hô hào chống Cộng, rồi chết năm 1961, khi mới có 34 tuổi. Người cuối cùng đến bên giường bệnh của Dooley là Hồng Y Spellman, người đã tôn ông bác sĩ trẻ như là nguồn cảm hứng cho mọi người – một thánh tử đạo khác. Tiếng tăm của Dooley không suy giảm cho đến khi Ủy Ban phong Thánh của Công Giáo La Mã điều tra năm 1979 và khám phá ra rằng Dooley có liên hệ với CIA. [Muốn biết sự thực về con người của Tom Dooley, xin đọc bài “Doctor Tom Dooley” của Peter Brush trong mục các bài tiếng Anh]
Dooley đã giúp CIA tạo loạn cho Bắc Việt qua những chương trình tị nạn của hắn. Những người Công Giáo đổ vào miền Nam đã mang đến cho Diệm một hậu thuẫn chính trị lờn và được hứa hẹn của Mỹ giúp đỡ để tái định cư. Quần chúng Mỹ phần lớn tin rằng hầu hết những người Việt Nam đều khiếp sợ sự độc ác và khát máu của Việt Minh và tìm đến ông Diệm sợ Chúa để được giải thoát. Nhiều người tị nạn chỉ sợ bị trả thù vì mình đã ủng hộ Pháp.
. . . Sự tuyên truyền của Spellman về bản chất Công Giáo của chính quyền Diệm đã làm rõ rệt thêm hình ảnh không đẹp về vị thế của giáo hội ở Việt Nam. Cái bản chất tôn giáo của chính quyền Diệm và những vấn đề chính quyền đó tạo ra đã được ghi nhận bởi Graham Greene, một tín đồ Công Giáo, trong một bài viết từ Saigon, in trong tờ London Sunday Times ngày 24 tháng 4, 1955 :
“Chính cái giáo thuyết Công Giáo đã làm cho chính quyền Diệm sụp đổ, vì sự sùng tín của ông ta đã bị những cố vấn Mỹ khai thác cho đến khi giáo hội ở trong nguy cơ làm mất lòng dân như Mỹ. Một cuộc viếng thăm không thích hợp của Hồng y Spellman (Hồng Y Spellman đến Việt Nam để nâng uy tín của Diệm đồng thời bi thảm hóa của cuộc di cư lớn lao của người Công Giáo “dramatizing once more the great exodus of refugees from the North, the greater part of whom are Catholics.”) Một linh mục Việt Nam nói : Ông ta (Spellman) nói nhiều về con bò vàng [mà một số người Do Thái thờ phụng như được viết trong Cựu ước. Trần Chung Ngọc, hơn là về Mẹ Thiên Chúa] đã được tiếp nối bởi những cuộc viếng thăm của Hồng y Gillroy và Tổng Giám mục ở Canberra. Những số tiền lớn lao đã được dùng để tổ chức những cuộc biểu tình đón tiếp những vị khách này, đưa ra một ấn tượng là giáo hội Công Giáo là của Tây phương và là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh. Trong những trường hợp hiếm hoi mà ông Diệm thăm viếng những vùng của Việt Minh trước đây, bao giờ cũng có một linh mục đứng bên, và thường là một linh mục Mỹ.
. . . Nam Việt Nam, thay vì đối đầu với chế độ toàn trị của miền Bắc bằng những bằng chứng về tự do, lại rơi vào một chế độ độc tài bất hiệu lực: dẹp bỏ báo chí, kiểm duyệt chặt chẽ, lưu đầy bằng lệnh của chính quyền thay vì phải được xét xử ở tòa án. Thật là bất hạnh khi một chính quyền như vậy lại đồng nhất hóa với một đức tin. Ông Diệm rất có thể đã để lại trên đất nước đầy tinh thần khoan nhượng này một di sản chống-Công Giáo”.
Trong cuộc viếng thăm, Spellman đã trao một ngân phiếu 100,000 đô-la cho Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo, một tổ chức hoạt động tích cực trong chương trình tái định cư những người di cư và sau đó cai quản chương trình viện trợ của Mỹ, chứng tỏ Tổ Chức này sát cánh với nỗ lực chiến tranh của Mỹ và đưa tới sự nghi ngờ là Tổ Chức có liên hệ với CIA. Dùng Giáo hội để làm chức vụ như vậy đã được thi hành ở Châu Mỹ La-Tinh, ngoài nhiều nơi khác, nhưng ở Việt Nam có vẻ đúng như những lời khuyến cáo của Graham Greene là Giáo hội và Mỹ đã cùng nhau thi hành một đường lối thất nhân tâm đối với những người Việt Nam.
Khả năng tham nhũng ở Việt Nam rất cao và cũng làm hại tới uy tín của Tổ Chức Cứu Trợ. Drew Parson ước tính chỉ trong năm 1955 chính quyền Eisenhower đã bơm vào Việt Nam trên 20 triệu đô-la viện trợ giúp người tị nạn Công giáo. Không thể tránh được, có quá nhiều gắn ghép và tham nhũng trong việc phân phối thực phẩm, thuốc men, và các đồ dùng khác tới các làng mạc. Tờ National Catholic Reporter đã phúc trình những sự lạm dụng của Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo trong nhiều bài mà một bài có đầu đề là : “Việt Nam 1965-1975. Vai Trò của Tổ Chức Cứu Trợ Công Giáo : Công Trình Của Chúa – Hay Của CIA ?” Những sự lạm dụng bị phanh phui gồm có : dùng viện trợ để truyền đạo, chỉ giúp những người Công Giáo tuy viện trợ là cho tất cả mọi người, đồng nhất hóa với quân lực, và đem cho binh lính Mỹ và Việt thay vì cho dân sự như mục đích của viện trợ. [Những người ở Việt Nam thời đó đều biết rõ các Linh mục Công Giáo Việt Nam và tổ chức Công Giáo được giữ độc quyền để phân phát viện trợ. Sự phanh phui trên là từ một tờ tuần báo của chính Công Giáo] (1)
Qua tài liệu trên, và phối hợp với nhiều tài liệu khác, thí dụ như của Joseph L. Daleiden, một học giả Công Giáo trong cuốn The Final Superstition, chúng ta thấy rõ vai trò then chốt của Vatican đã dự phần đưa tới việc Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Chúng ta cũng còn biết, Hồng Y Spellman đã đến Việt Nam nhiều lần, đi tới các tiền đồn để khuyến khích lính Mỹ chiến đấu cho Chúa : “Trong một bài học thuộc Giáo hội thời Trung Cổ, Spellman bảo với binh sĩ Mỹ là họ là những “thánh chiến quân” tham gia vào cuộc chiến của Chúa Ki Tô chống Việt Cộng và dân chúng Bắc Việt” (John Cooney, p.384: In a lesson from the medieval Church, Spellman told the troops they were “holy crusaders” engaged in “Christ’s war against the Viet-cong and the people of North Vietnam). Nhưng tại sao Chúa lại chống Cộng ở một nước nhỏ bé như Việt Nam, sao Chúa không chống Cộng ở Nga, ở Tàu, hay ở Ba Lan, Tiệp Khắc ngay bên Âu Châu ? Vatican, thêm một lần nữa, đã mang tội với dân tộc Việt Nam và các tín đồ Công Giáo Việt Nam phải gánh cái hậu quả này. Chúng ta cũng thấy rõ, Ngô Đình Diệm chẳng qua chỉ là một con cờ của liên minh Mỹ-Vatican. Và Ngô Đình Diệm không thể ngờ được rằng về sau, vì quyền lợi của Vatican và của Mỹ, cả Vatican và Mỹ đều bỏ rơi mình, đưa đến một kết quả quá bi thảm cho chính bản thân. Thật là tội nghiệp. Dưới hình thức nào thì thực dân cũng đều như nhau. Ngày nay, những tàn dư của Cần Lao còn cố gắng “phục hồi tinh thần Ngô Đình Diệm” mà không biết rằng họ đang phục hồi tinh thần Trần Ích Tắc.
Để cho công bình, chúng ta cũng còn phải xét thêm việc từ khi về làm Thủ Tướng và rồi tự lên làm Tổng Thống, “Cụ Diệm” đã làm gì cho đất nước ?
Đã có nhiều sách viết về nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa : Đỗ Mậu, Lê Trọng Văn, Hồ Sĩ Khuê, Nguyệt Đam & Thần Phong, Nguyễn Mạnh Quang, Vũ Ngự Chiêu v..v... Nhưng xin đọc Phần II để biết người Tây Phương đánh giá ông Ngô Đình Diệm như thế nào.
* * * * * *
Phần II
Sau khi về làm Thủ Tướng và rồi Tổng Thống, ông Ngô Đình Diệm đã cai trị miền Nam như thế nào. Những tài liệu nhận định về con người Ngô Đình Diệm và chính quyền Ngô Đình Diệm của một số tác giả ngoại quốc có tên tuổi sau đây sẽ trả lời câu hỏi này.
Những tài liệu này cũng còn cho thấy ý nghĩa đích thực của phong trào tranh đấu Phật Giáo 40 năm trước đây và không còn bị lừa dối bởi những luận điệu quái gở như Phật Giáo thân Cộng, Phật Giáo làm “mất nước” (sic) v..v.. của một đoàn thể đã nổi tiếng là “đã phi dân tộc thì thể nào cũng phản dân tộc.”
1. “Vietnam : Crisis of Conscience” by Robert McAfee Brown, Abraham J. Heschel & Michael Novak, Associated Press, New York 1967, p. 30 :
Ký giả người Úc Denis Warner viết “Trong nhiều năm, cái chế độ bạo ngược chuyên chế mà Tây phương đồng minh với ở Saigon (chế độ Ngô Đình Diệm) thì còn tệ hơn là cái chế độ mà Tây phương đang chiến đấu để chống (chế độ Cộng Sản)”. Diệm và gia đình ông ta đã giết hoặc lưu đày tất cả những thế đối lập. “Diệm đã mất đi sự tin cậy và trung thành của dân chúng” như Bộ Trưởng McNamara đã nhận định ngày 26 tháng 3, 1964.
(The Australian writer Denis Warner wrote that “the tyranny the West allied with in Saigon was in many years worse than the tyranny it was fighting against". Diem and his family had murdered or exiled all potential opposition. Diem had “lost the confidence and loyalty of his people”, as Secretary McNamara put it on March 26, 1964).
2. ”Fire In The Lake” by Frances Fitgerald (Winner of the Pulitzer Prize, Winner of the National Book Award, Winner of the Bancroft Prize For History), Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139 :
Cái chất công giáo của Diệm, không hề mở mắt hắn đến với những ý tưởng mới, mà chỉ thuyết phục hắn là cai trị bằng nghi lễ và huấn thị đạo đức là có thể thành công, mà nó có vẻ như vậy trong các làng mạc ở miền Bắc và Trung sống trong cái vỏ bằng sắt và điều khiển bởi các linh mục.
Cái mà hắn ta không ý thức được là cái kiểu cai trị thiển cận như vậy của các giáo xứ có thể thực hiện chỉ vì người Pháp đã bảo vệ họ và tổ chức nền hành chánh quốc gia. Do đó, tham vọng của hắn phục hồi xã hội cổ xưa giống như là của những tên thực dân Pháp, coi mình như cha người ta, đã chống những chương trình cải cách của những giới chức hành chánh nơi thành thị – sự khác biệt là trong khi người Pháp giữ lãnh vực hiện đại cho riêng họ thì Diệm không nhận ra được sự quan trọng của vấn đề hiện đại hóa. Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thị trấn ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương . . .
Những ký giả như Robert Shaplen đã chỉ trích Diệm như làm cho những nông dân xa lánh vì những biện pháp đàn áp của hắn.
Một số đông những giới chức và ký giả, kể cả những người có nhiều kinh nghiệm và có khuynh hướng chính trị khác nhau như Douglas Pike, Chester Bowles, và chuyên gia chống nổi loạn người Anh, Robert Thompson, đều coi Diệm như là kẻ thù của chương trình chống Cộng.
Trong tất cả những năm cầm quyền, Ngô Đình Diệm chỉ có một đồng minh ở thôn quê, đó là những người Công giáo, đặc biệt nhất là những người di cư từ ngoài Bắc vào. Ngay từ đầu, Diệm dùng trong bộ máy hành chánh phần lớn là những người Công giáo, và thiên vị các làng Công giáo đối với phần còn lại của quốc gia. Những giới chức của Diệm, làm việc chặt chẽ với các linh mục, đem phần lớn viện trợ Mỹ cho các làng Công giáo, và phần lớn những nông sản. Chúng cho những người Công giáo quyền khai thác lâm sản và độc quyền sản xuất loại hàng hóa nông sản mới do các kỹ thuật gia Mỹ đưa vào giúp. “Theo đạo có gạo mà ăn” là một câu tục ngữ khi xưa của người Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Dưới thời Diệm người dân Việt đã phải theo cái lệnh này. Đặc biệt ở miền Trung, hàng ngàn người, trong vài trường hợp hầu như toàn thể khu định cư, theo đạo để tránh những dịch vụ cỏ vê của chính phủ, hoặc để tránh biện pháp tái định cư trong vài vùng rừng rú hay sình lầy gian khổ – để giúp những người Công giáo lân cận. Nuôi người Công giáo trong sự tổn hại của phần còn lại của dân chúng, lẽ dĩ nhiên, là một chính sách thiển cận, nhưng Diệm không thấy một đường lối nào khác, và Mỹ cũng không đề nghị cho Diệm một đường lối nào khác. (2)
3. “Background to Vietnam” by Bernard Newman. Signet Books, New York 1965, p. 117 :
Bất kể hiến pháp viết như thế nào, Diệm cai trị như là một nhà độc tài. Triết lý chính trị của ông ta dẫn xuất từ một nhóm Công giáo Pháp, những người đã đặt ra thuyết Nhân Vị. Thuyết này nhấn mạnh đến nhân cách để chống với quan niệm đưa quần chúng vào kỷ luật của Cộng Sản. (Thực ra, đây chỉ là một chiêu bài chống Cộng vì trong cấu trúc toàn trị của Công Giáo thì tín đồ chỉ có quyền vâng phục các bề trên, do đó làm gì có Nhân Vị. Trần Chung Ngọc). Chi tiết về thuyết này phức tạp, khó hiểu đối với mọi người trừ một triết gia. Một chuyên gia Mỹ được mời đến để cố vấn cho hệ thống thuế má địa phương mô tả thuyết Nhân Vị như là “một pha trộn lộn xộn của những sắc lệnh của giáo hoàng và kinh tế mẫu giáo, tổ hợp với một sự nghi ngờ những tư nhân thương gia, một sự e ngại đầu tư ngoại quốc, và một quan niệm là không thể thành đạt được gì nhiều ở Việt Nam nếu không có sự kiểm soát của chính phủ”.
Trên thực tế chính phủ đây là chính phủ Diệm.
. . . Ngày tháng qua, cách cai trị của Diệm càng ngày càng trở nên không thể chịu được, và tới năm 1963 hắn là một nhà độc tài hoàn toàn, chỉ nghe những thân nhân trong gia đình. Hắn hoàn toàn xa lạ với quần chúng. Người ta phàn nàn là hắn đã trao những chức vụ tốt nhất cho người Công giáo : nhưng những người Công giáo là “người ngoại quốc” – những người di cư từ ngoài Bắc vào. Sự bất mãn đưa đến phong trào chính trị của Phật Giáo”. (3)
4. “Backfire : Vietnam - The Myths That Made Us Fight, the Illusions That Help Us Lose, The Legacy That Haunts Us Today” by Loren Baritz, Ballantine Books, New York 1985, pp. 83-85 :
Công giáo Việt Nam phát triển do chính sách kỳ thị Phật Giáo một cách có hệ thống của Ngô Đình Diệm. Người Công giáo được dùng trong các dịch vụ dân sự, trong khi những người Công giáo sống trong những làng mạc thường không bắt buộc phải làm những công việc nặng nhọc làm đường xá và những việc công cộng. Không giống như những Chùa Phật Giáo, nhà thờ Công giáo được đặc quyền sở hữu tài sản đất đai, cũng như trong thời Pháp thuộc. Với thời gian, sự kỳ thị đối với tuyệt đại đa số dân chúng này đưa đến những phản đối chính trị chống Diệm của những nhà sư Phật Giáo.
. . . Diệm làm cho người Mỹ khó chịu không chỉ vì đường lối cai trị của hắn. Hắn thích thú trong việc đàn áp những đối lập chính trị mà hắn đã bắt giữ lên tới 40000 người. Đầu năm 1959, Diệm hợp thức hóa sự tàn bạo của mình bằng sự thiết lập những tòa án quân sự để xử những đối lập chính trị và xử tử hình trong vòng ba ngày. Những tòa án này bắt giữ, điều tra, và tuyên án những kẻ phạm tội.
Diệm hăng say đóng cửa những nhà báo không ủng hộ hắn. Tệ hơn cả, hắn dẹp bỏ cấp lãnh đạo trong các làng mạc và thay thế họ bằng những người của Diệm. Hắn đã trở thành một nhà độc tài. (4)
5.- “A Bright Shining Lie” by Neil Sheehan, Vintage Books, New York 1989, p. 143 :
Lansdale để cho những tiên kiến của mình đưa tới những giả định sai lầm . . . Lansdale nghĩ rằng những người Công giáo di cư từ miền Bắc là những người yêu nước đã “chiến đấu giành lại sự tự do của đất nước từ người Pháp”. Hắn không nhìn thấy sự sai lầm nào trong vấn đề Mỹ chỉ tin cậy vào sự trợ giúp đặc biệt của người Công Giáo. Hắn không nhìn thấy vấn đề có một người Công Giáo làm tổng thống của cái mà hắn quan niệm là “Việt Nam Tự Do” là không thích hợp.
Công giáo Rô Ma là một thiểu số có nhiều tỳ vết ở Việt Nam. Lansdale lo việc phân biệt giữa người Mỹ và những tên “thực dân” Pháp. Điều hắn làm là đưa ra sự phân biệt tuy chẳng có gì khác nhau . . . Chỉ dựa vào người Công giáo giúp đỡ, và bằng cách đặt một người Công Giáo lên cầm quyền ở Saigon, hắn ta đã chứng tỏ là Mỹ đã nhảy vào thay thế người Pháp. Những người Việt Nam theo đạo Công giáo đã được người Pháp sử dụng như là một đạo quân thứ 5 để xâm nhập Việt Nam trước thời thuộc địa và những người Công Giáo đã được Pháp tưởng thưởng cho sự hợp tác của họ với những tên thực dân Pháp. Người Công Giáo thường bị coi như là thuộc một tôn giáo"ngoại lai”, “không phải là Việt Nam”. Với sự ra đi của người Pháp, hiển nhiên là người Công Giáo phải tìm một một ngoại bang khác để bảo vệ họ. Họ nói với Lansdale những gì mà họ cho rằng Landale muốn nghe . . .
. . . Trong sự hướng dẫn Diệm của Lansdale đến thành công bằng cách diệt các giáo phái dựa trên lý thuyết Diệm là Magsaysay để lập một chính phủ tập trung quyền lực mới, không bao giờ Lansdale lại nghĩ rằng Diệm bắt đầu chính sách cai trị của mình bằng cách loại bỏ những người chống Cộng hữu hiệu nhất ở miền Nam.
Dòng họ Ngô Đình tiến tới sự áp đặt trên miền Nam Việt Nam cái tôn giáo Công giáo ngoại lai của họ, đảng Công giáo bảo thủ từ ngoài Bắc vào và từ vùng quê hương của họ ở miền Trung. Diệm và gia đình bổ nhiệm những sĩ quan chỉ huy đơn vị, những nhân viên hành chánh và cảnh sát bằng những người Công giáo, từ miền Bắc và từ miền Trung, quê hương của Diệm. Diệm và gia đình hắn bổ nhiệm những người Công giáo vào cấp chỉ huy quân đoàn, hành chánh và cảnh sát. Nông dân ở miền đồng bằng sông Cửu Long thấy mình bị cai trị bởi những tỉnh trưởng, hạt trưởng, bởi những viên chức hành chánh ngoại lai và thường là cao ngạo và tham nhũng . . . (5)
6. “America in Vietnam" by Dr. John Guilmartin, United Press International/Bettmann, England 1991, p.69 :
Những ảnh hưởng đối nghịch của sự thiếu khả năng và tính toán sai lầm của Diệm không chỉ chấm dứt ở sự thất bại về quân sự chống Việt Cộng. Nghi ngờ tất cả những người không có cùng đức tin Công giáo của mình, và hoan hỉ với sự thành công trong việc dẹp bỏ các giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo, họ khởi sự chiến dịch chống Phật Giáo.
(The adverse effects of the Diem's ineptitude and miscalculation did not end with military failure against the Viet Cong. Suspicious of all who did not share their Catholic faith, and having enjoyed success in suppressing the Hoa Hao and Cao Dai, they embarked on an anti-Buddhist campaign).
7. “Vietnam : The Valor and the Sorrow” by Thomas D. Boettcher, Little Brown & Company, Boston 1985, p.150 :
“Trong 10 đô la viện trợ thì 8 được dùng cho nội an chứ không dùng cho công tác chiến đấu chống du kích Cộng sản hay cải cách ruộng đất. Diệm lo lắng về những cuộc đảo chánh hơn là Cộng sản.
. . . Như là hậu quả của những biện pháp đàn áp càng ngày càng gia tăng, sự bất mãn của quần chúng đối với Diệm cũng càng ngày càng tăng, bất kể là toan tính của Diệm dập tắt sự bất mãn này trong mọi cơ hội. Hàng triệu nông dân ở những vùng quê trở thành xa lạ đối với Diệm. Không lạ gì, hoạt động của Cộng sản gia tăng cùng với sự bất mãn của quần chúng. Và những biện pháp đàn áp của Diệm cũng gia tăng theo cùng nhịp độ. Nhiều ngàn người bị nhốt vào tù.
Cho tới năm 1960, điều khác biệt duy nhất giữa hai chính quyền Ngô Đình Diệm và Hồ Chí Minh là ở những lá cờ của họ.” (6)
8. “The Indochine Story” by the Committee of Concerned Asian Scholars, A Bantam Book, New York 1970, pp. 32 & 34 :
“Một nhân vật Mỹ ủng hộ Diệm lúc đầu kết luận : Lạm dụng quyền lực, độc tài, tham nhũng, coi thường cấp dưới, và không đếm xỉa gì đến nhu cầu của dân chúng một cách ác độc, đó là tấm gương mà gia đình họ Ngô để cho những bộ trưởng, nhà lập pháp, tướng lãnh, tỉnh trưởng, trưởng làng mà họ Ngô dùng như những quân cờ noi theo.
Đàng sau gia đình nhà Ngô là Mỹ. Ở dưới gia đình này chẳng có gì mấy. Gia đình này đã trải cái bóng của họ trên xã hội Việt Nam ; tuy nhiên cái rễ của họ thật sự chỉ cắm nông vào đất Việt. Điều này định trước những phương pháp Diệm dùng để kiểm soát đất nước . . . Chỉ có một đường lối : đàn áp và củng cố quyền lực trong tay những anh em và thuộc hạ của Diệm . . . Săn lùng toàn diện những người bất mãn được tổ chức ở thôn quê năm 1956, và tăng gia cường độ khi tình hình suy kém.
75000 người hay hơn nữa bị giết trong chiến dịch này. Còn nhiều người hơn nữa bị tống giam bởi sắc lệnh số 6 của tổng thống, ký trong tháng 1, 1956. Sắc lệnh nói : “Những cá nhân coi là nguy hiểm cho quốc phòng và an ninh chung có thể bị bắt giam trong những trại tập trung do lệnh của cơ quan hành pháp. Tình trạng trong những trại tập trung của Diệm, chỉ bị phanh phui sau khi Diệm đổ, thật sự nhơ nhớp. Cố ý để cho chết đói, cố ý làm cho mù, cố ý hành hạ . . ., danh sách này thật là dài”. (7)
9. “The Story of Vietnam” by Hal Dareff, An Avon Camelot Book, New York 1966, p. 108 :
“Nay Diệm đã thắng mọi kẻ thù, anh em nhà Diệm muốn chắc rằng không ai có thể bứng họ đi. Ở ngoài mặt, Nam Việt Nam là một thể chế Cộng Hòa với một hiến pháp mới toanh hứa hẹn tự do và dân chủ cho quần chúng. Tuy nhiên, thực tế thì lại trái ngược hẳn . . . Nhu là cánh tay phải của Diệm . . . Hắn tổ chức gian lận bầu cử, đưa vào quốc hội những tay sai của hắn, và sai bọn Cần Lao đi rình mò khắp nước để kiếm những người chống đối hắn.
Chế độ Diệm bắt đầu thoái trào vào đầu năm 1963. Tổng thống cai trị dân trong dinh thự của mình như là một thể chế quân chủ, cắt lìa khỏi quần chúng. Sự thù ghét Diệm và gia đình hắn gia tăng đến độ người ta có thể cảm thấy đầy trong bầu không khí ở Saigon. Tin đồn về đảo chánh loan truyền trong thành phố hầu như hàng ngày. Trong những hoàn cảnh như vậy, Diệm chỉ lo bám chặt vào quyền lực. Cuộc chiến (chống Cộng) trở thành thứ yếu. Sĩ quan được thăng cấp nếu giữ được mức tổn thất thấp. Chỉ có một cách chắc chắn giữ được như vậy – không tác chiến. Không tác chiến đã trở thành một cách sống đối với một số cấp chỉ huy và là cách duy trì địa vị.
. . . Cuộc tranh chấp giữa Diệm và các Phật tử đã được tích lũy kể từ ngày Diệm lên làm thủ tướng năm 1954. Diệm, một tín đồ Công giáo, đương nhiên là cảm thấy thoải mái hơn đối với những tín đồ Công giáo khác. Nhiều chức vụ chỉ huy trong chính quyền và quân đội được trao cho những người Công giáo, những người này được đặc quyền đặc lợi làm tiền trong những thương vụ của chế độ.
Trong số 15 triệu dân ở miền Nam Việt Nam, hơn 1 triệu một chút là người Công giáo. Phần còn lại, phần lớn là Phật tử, phẫn nộ vì chính sách thiên vị người Công giáo. Sự đối xử khác biệt này còn trắng trợn hơn ở các tỉnh lỵ, nơi đây các linh mục địa phương và các giới chức chính quyền, hầu hết là Công giáo, có toàn quyền. Khi các ấp chiến lược được dựng lên, những người Công giáo được miễn làm việc và những người phi-Công giáo bị đưa vào chỗ thay thế họ để làm những công việc lao dịch. Những vùng đất mới được mở mang và phát triển, người Công giáo được chọn những miền đất phì nhiêu ở những miền duyên hải có an ninh. Những đất đai dành cho Phật tử ở sâu trong nội địa, ở đây họ phải lao động dưới sự đe dọa của Việt cộng. Nhiều Phật tử theo đạo (không có nghĩa là tin đạo. Trần Chung Ngọc) để được sống dễ dàng hơn.” (8)
10. “The Two Viet-Nams” by Bernard B. Fall, Frederik A. Praeger Publisher, New York 1967 :
Trang 236 : Tính hiếu chiến của ông Ngô Đình Diệm thuộc loại như thế này : Đức tin của ông ta ít có tính chất từ ái của các tông đồ hơn là tính hiếu chiến tàn nhẫn của một Đại Phán Quan Tây Ban Nha của Tòa Án Dị Giáo (Torquemada) ; và Quan điểm của ông ta về chính quyền thì ít có tính chất của một tổng thống theo hiến định của một nước cộng hòa hơn là một bạo chúa theo truyền thống quan lại phong kiến. Một người Pháp theo Công Giáo khi nói chuyện với ông ta muốn nhấn mạnh về ảnh hưởng văn hóa Pháp đối với ông Diệm đã nhấn mạnh những từ như "tín ngưỡng của chúng ta", thì Diệm thản nhiên trả lời rằng : "Ông biết mà, tôi tự coi tôi như là một người Công Giáo Tây Ban Nha" , có nghĩa là, ông ta là một đứa con tinh thần (của Giáo Hội La Mã) của một đức tin hung hăng, hiếu chiến hơn là một tín đồ dễ dãi và khoan dung giống như người Pháp theo hệ phái Công Giáo Gallican".
(Ngo Dinh Diem's militancy is of that kind : His faith is made less of the kindness of the apostles, than of the ruthless militancy of the Grand Inquisitor; and his view of government is made less of the constitutional strength of a President of the republic than of the petty tyranny of a tradition-bound mandarin. To a French Catholic interlocutor who wanted to emphazise Diem's bond with French culture by stressing "our common faith," Diem was reported to have answered calmly : “You know, I consider myself rather as a Spanish Catholic”, i.e., a spiritual son of a fiercely aggressive and militant faith rather than of the easygoing and tolerant approach of Gallican Catholicism).
Trang 250 : “Trong số những người lên cầm quyền cùng với Diệm năm 1954-55, Không Một Người Nào còn giữ chức vụ bộ trưởng khi Diệm bị giết năm 1963. Một vài người bị lưu đày ở Pháp hoặc Mỹ, và một vài người rút lui với thái độ trông chờ ở Saigon. Một sự dập theo những phương pháp toàn trị của Cộng sản Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng của Ngô Đình Nhu. Đảng này trở thành một hệ thống quyền lực hoàn toàn giống như của Cộng sản, với những thành viên mật và chỉ biết nhau trong những tổ 5 người, và những “nhóm hành động” có nhiệm vụ dẹp bỏ mau chóng và kín đáo những người đối lập... Như vậy, chế độ Diệm sai lầm trong hai phương diện: Quân đội không bao giờ thực sự hữu hiệu, và các sĩ quan ở quân đoàn thì không trung thành với những ông chủ dân sự và nhắm mắt làm ngơ trước sự thất bại của chế độ.
Trong sự mô tả đảng Cần Lao, John C. Donnell định nghĩa Cần Lao như là “một đảng chính trị mạnh gồm những thành viên thường tin rằng mình thuộc những đảng chính trị khác và ngự trị những đảng này.” Nói cách khác, những hoạt động trong hệ thống nội bộ của họ y hệt như của đảng Cộng sản: dò thám bạn bè, xâm nhập đồng minh, và hoạt động như “một quốc gia trong một quốc gia” trong chính guồng máy chính quyền của mình. Nếu không còn cái gì khác, những điều trên có thể làm cho chế độ Nam Việt Nam mang nhãn hiệu một loại “dân chủ của quần chúng” chống-Cộng mà sự khác biệt lớn nhất đối với người anh em song sinh Cộng sản Bắc Việt Nam là thái độ hành trì Công giáo và là sở hữu chủ của những đồn điền cao su”.
(Of the men who came to power with Diem in 1954-55, NOT ONE still held a cabinet portfolio when he was murdered in 1963. Some were sent into exile in France or the US, and a few simply retired and maintained a “wait-and-see” attitude in Saigon. Another imitation of Communist totalitarian methods was Ngo Dinh Nhu's Can-Lao Nhan-Vi Cach Mang Dang, which became the perfect hierarchie paralle’le, with its secret membership and five-men cells whose members knew only each other, and “action groups” that could swiftly and quietly do away with bothersome oppositionists . . . As it was, the Diem regime erred on both counts: Its army never became really proficient, and its officer corps remained disloyal to its civilian masters and connived in their demise.
In his description of the Can Lao, John C. Donnell defined the Can-Lao as a “powerful elite political party whose members are commonly believed to belong to other political parties also and to dominate them”. In other words, it did within its own system exactly what a Communist Party would do: It spied on its own friends, infiltrated its own allies, and acted as a “state within a state” in its own government's machinery. If nothing else, this would brand the South Vietnamese regime as a sort of anti-Communist “people's democracy” whose major difference from its Communist North Vietnam TWIN was its attitude toward the practice of Catholicism and the ownership of rubber plantations).
11. “An Eye For The Dragon” by Dennis Bloodworth; Farrar, Straus & Giroux, New York 1970, p. 209 :
“Cho tới năm 1963 mật vụ của Diệm đã bắt giữ hoặc đẩy vào tay những kẻ thù hầu như mọi người quốc gia có tên tuổi đã chiến đấu cho tự do của đất nước trong 20 năm trước. Hắn và gia đình hắn đã đàn áp mọi đối lập, chất đầy nhà tù, bịt miệng báo chí, gian lận bầu cử, và bám vào quyền lực”.
(. . . By 1963 Diem's secret police had picked up or pushed into the arms of his enemies nearly every prominent nationalist who had fought for the freedom of his country during the previous 20 years. He and his familly suppressed all opposition, filled the jails, muzzled the press, rigged the elections, and clung to all power . . .).
12. “Intervention and Revolution” by Richard J. Barnet, A Meridian Book, New York 1972, pp. 233-235 :
“Khuyến cáo rằng “nếu bầu cử được tổ chức ngày nay (1956) thì tuyệt đại đa số dân Việt sẽ bầu cho Cộng sản”, Cherne tuyên bố rằng uy tín của Mỹ ở Á Châu tùy thuộc vào sự ngăn chận cuộc bầu cử này. Phương pháp giải quyết là củng cố lớp người Công giáo ở miền Nam Việt Nam, chỉ có những người này mới có lý do thuộc về lý tưởng chống Cộng. Nhà văn Công giáo người Anh, Graham Greene, đã mô tả việc Mỹ sử dụng giáo hội Công giáo trong cuộc chiến tranh lạnh ở Việt Nam như sau :
Chính cái ý hệ Công giáo đã làm cho chế độ của ông Diệm sụp đổ, vì sự sùng tín của ông ta đã bị các cố vấn Hoa Kỳ khai thác cho đến khi giáo hội Công giáo ở Việt Nam ở trong cơ nguy cùng chung số phận bất thiện cảm của người dân Việt đối với Mỹ . . . Những khoản tiền to lớn được dùng để tổ chức những cuộc đón tiếp quan khách ngoại quốc và tạo nên ý niệm giáo hội Công giáo là của Tây phương và là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh. Trong những trường hợp hiếm hoi mà Diệm đi kinh lý những vùng trước đây bị Việt Minh chiếm, bao giờ cũng có một linh mục ở bên cạnh, và thường là một linh mục Mỹ . . .
Điều quan tâm chính của chính quyền Diệm là sự an toàn của chính quyền. Chính quyền Diệm sợ rằng cuộc bầu cử dự định tổ chức vào tháng 7, 1956 đưa đến sự thắng lợi của Hồ Chí Minh và chấm dứt quyền lực của những chính trị gia không Cộng sản..
Những ước tính của cơ quan tình báo quốc gia CIA, soạn trong tháng 2, 1957, mô tả chế độ Diệm như sau :
Chế độ Diệm phản ánh ý nghĩ của Diệm. Một bộ mặt chính quyền đại diện cho dân được duy trì, nhưng thực chất chính quyền là độc tài. Quyền lập pháp của quốc hội bị hạn chế gắt gao; quyền tư pháp chưa phát triển và tùy thuộc quyền hành pháp; và những nhân viên trong ngành hành pháp không gì hơn là những tay sai của Diệm. Không có một tổ chức đối lập nào, dù trung thành hay không, được phép thành lập, và mọi chỉ trích chính quyền đều bị đàn áp...Quyền lực và trách nhiệm tập trung nơi Diệm và một nhóm nhỏ gồm có những thân nhân của Diệm, những người quan trọng nhất là Nhu và Cẩn”.
Chế độ độc tài của Diệm, dựa trên một mạng lưới mật vụ, tòa án quân sự, và công chức tham nhũng, tuyên bố không những chiến đấu chống Cộng mà cho tới năm 1957 Cộng sản vẫn chưa có hoạt động gì, mà còn chống bất cứ nhóm nào không chắc là trung thành với Diệm. Thật vậy, nhiều người không-Cộng-sản vào tù hơn là người Cộng sản.
. . . Sự chuyên chế của Diệm, sự thiên vị trơ trẽn của hắn đối với những người Công giáo tị nạn từ ngoài Bắc vào so với phần còn lại của dân chúng, và sự bạo hành của hắn đối với mọi người không đồng quan niệm chính trị với hắn đã tạo nên một sự liên kết chống hắn mà hắn rất sợ.” (9)
“13. Vietnam Revisited” by David Dellinger, p. 35 :
Ngay từ lúc đầu Diệm đã có khuynh hướng toàn trị và gia đình trị mà 8 năm sau dư luận quần chúng lên án chính quyền của hắn.
“Khuynh hướng toàn trị” của Diệm đã đưa đến việc thành lập một đảng chính trị riêng tư, đảng cần Lao, một đảng duy nhất. [Thời đó không thấy ai đòi đa nguyên đa dảng. Trần hung Ngọc].
Đảng Cần Lao cũng phục vụ hắn như là mật vụ, dập theo khuôn mẫu của Nhật Bản trong Thế Chiến II – mà Diệm đã nghiên cứu kỹ chi tiết.
Như chúng ta đã thấy, đảng này đã giết hại 90000 người và cầm tù 800000 trong đó có nhiều người bị tra tấn.
. . . Khi Diệm về Việt Nam năm 1954, một người Công giáo theo lệnh của một thế lực ngoại quốc về cai trị một nước mà 80% là Phật tử, CIA đã thuê vài trăm người để hoan hô hắn tại bến tàu. Nhưng cả CIA lẫn những giới chức Mỹ ủng hộ Diệm đều không làm sao làm ngược được sự kiện là Diệm không có sự ủng hộ của quần chúng, chính sách đàn áp đẫm máu của Diệm đối với từ các nhà sư Phật giáo và các tín đồ Hòa Hảo, Cao Đài cho tới những nông dân yêu nước, giới tư sản tôn trọng luật pháp, trật tự và một chút công lý, và những tướng lãnh đối thủ – “kéo theo (và đã xảy ra) tất cả những khó khăn vì một con người với nhân cách như vậy”.
(From the very beginning Diem displayed that tendency toward autocracy and family rule for which the mass media would belatedly condemn his administration 8 years later.
Diem's "tendency toward autocracy" led to the formation of a private political party, the Can Lao, which was the only party.
The Can Lao also served as a secret police, modeled after the system the Japanese used in Vietnam during WWII - which Diem had studied in detail.
It also produced, as we have seen, the death of 90,000 opponents and the imprisonment of another 800,000, with many of them tortured . . .
. . . When Diem first arrived in Vietnam in 1954, a Catholic coming to rule at the behest of a foreign power in a country whose population was 80% Buddhists, the CIA had hired a crowd of several hundred "welcomers" to greet him at the dock.
But not even the CIA and Diem's more respectable US backers could permanently counteract his lack of an indigenous base, his bloody suppression of all opposition, from Buddhist monks and members of the Hoa Hao and Cao Dai indigenous religions to peasant patriots, bourgeois devotees of law, order and a modicum of justice, and rival generals – “all the difficulties the presence of such a personality would [and did] entail”.).
14. “Vietnam : Why Did We Go ?” by Avro Manhattan, Chick Publication, California 1984, pp. 56 & 89 :
“Tổng thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam là một ngưòi theo đạo Công giáo cai trị Nam Việt Nam bằng một bàn tay sắt. Hắn ta thật tình tin rằng Cộng sản là ác và giáo hội Công giáo là duy nhất. Hắn đã được hồng y Spellman và giáo hoàng Pius XII trồng vào cái ghế tổng thống. Hắn đã biến cải ngôi vị tổng thống thành một nhà độc tài Công giáo, tàn nhẫn nghiền nát những đối lập chính trị và tôn giáo. Nhiều nhà sư Phật giáo tự thiêu để phản đối những sự bạo hành tôn giáo của hắn. Sự bạo hành kỳ thị đối với người phi-Công giáo, đặc biệt là các Phật tử, đã gây nên sự rối loạn trong chính phủ và trong quân đội thì quân nhân đào ngũ hàng loạt. Điều này đưa đến sự can thiệp quân sự của Mỹ.
Trong chính sách khủng bố này hắn được sự phụ giúp của hai người anh em Công giáo, người đứng đầu mật vụ (Ngô đình Nhu) và tổng giám mục ở Huế (Ngô đình Thục).
Người ta ghi nhận rằng, và những con số sau đây tuy không được chính quyền chính thức khẳng định nhưng có thể coi là đáng tin cậy, là trong thời gian kinh hoàng từ 1955 đến 1960 – ít nhất là có 24000 người bị thương, 80000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500000 bị đưa đi các trại tập trung. Đây chỉ là những con số ước tính bảo thủ, khiêm nhường.
Đặt quyền lợi quốc gia ra đàng sau để đẩy mạnh quyền lợi tôn giáo của hắn, kết quả là tên độc tài Diệm đã đưa đất nước xuống vực thẳm”. (10)
15. “Nobody Wanted War” by Ralph K. White, A Doubleday Anchor Book, New York 1970, p. 91 :
“Diệm, người em dở điên và vợ hắn (Nhu và vợ), đã làm cho mọi nhóm quan trọng trong nước, kể cả nhóm chống Cộng thực tế nhất, nhóm này đã thấy rõ gia đình Diệm đã hạ thấp và làm yếu đi cuộc tranh đấu chống Cộng, và sau cùng cả những sĩ quan cao cấp trong quân đội, những người mà mọi tên độc tài không được lòng người phải trông cậy vào họ để sống còn, xa lìa.
Theo Malcolm Browne, chế độ Diệm đã bị cả nước oán ghét. Nếu nhà Ngô còn cầm quyền cho đến ngày nay (1965) thì chắc chắn là Việt Nam sẽ hoàn toàn là Cộng sản”. [Bọn Công giáo hoài Ngô ngày nay vẫn còn đưa ra luận điệu “Còn cụ thì không mất nước”]
(Diem, his half-mad brother Nhu and his brother's wife had alineated one by one every important group in the country, including most of the realistic anti-Communists who saw how the Ngo family was debassing and weakening the anti-Communist struggle, and at last including the upper echelon of the armed forces, on which every unpopular dictator must rely for survival.
According to Malcolm Browne, there was a "sweeping hatred" of the regime throughout the country. If the Ngo family had remained in charge there is little doubt that Vietnam would be entirely Communist today. (1965).)
16. “The Political Economy of Human Rights. Vol I” by Noam Chomsky and Edward S. Herman, Black Rose Books, Canada 1979, pp. 30, 302-303 :
“Joseph Buttinger, một cố vấn của Diệm lúc đầu và là người đã bày tỏ sự ủng hộ Diệm nồng nhiệt nhất trong thập niên 1950, khẳng định là gọi Diệm là phát xít thì không thích hợp vì, tuy chế độ Diệm có tất cả những sự xấu xa của chế độ phát xít, Diệm thiếu cơ sở quần chúng mà Hitler và Mussolini đã có thể tập hợp được.
. . . Theo Jeffrey Race, một cựu cố vấn quân sự Mỹ cho Nam Việt Nam có rất nhiều tài liệu về lịch sử Việt Nam cận đại, chính quyền Diệm đã khủng bố người dân nhiều hơn là phong trào cách mạng nhiều – thí dụ, thủ tiêu các cựu kháng chiến quân Việt Minh, bắn pháo binh vào những “làng cộng sản” và bắt bớ những người “có thiện cảm với cộng sản”. Cũng chính vì những chiến thuật đó mà lực lượng của phong trào cách mạng càng ngày càng gia tằng ở Long An từ 1960 đến 1963.
. . . Sử gia của Ngũ Giác Đài viết về “bệnh gần như hoang tưởng của Diệm lo lắng về vấn đề an ninh,” đưa đến những chính sách “khủng bố toàn diện nông dân Việt Nam, và làm suy giảm trầm trọng sự ủng hộ chế độ của quần chúng”.
Sự dùng bạo lực quá mức và trả thù những người cựu kháng chiến của Diệm là sự vi phạm trắng trợn Hiệp Định Genève (Khoản 14c), cũng như là sự từ chối không thi hành điều khoản tổng tuyển cử trên toàn quốc (vào tháng 7, 1956) của Diệm. Lý do chính mà Diệm từ chối không thi hành điều khoản này vào những năm 1955-56 (tổ chức và tổng tuyển cử trên toàn quốc) thật là hiển nhiên: viên quan lại ly hương nhập cảng từ Mỹ vào chỉ có một sự ủng hộ tối thiểu của quần chúng và ít có hi vọng thắng trong một cuộc tổng tuyển cử . . . Diệm là mẫu người điển hình của một tên bạo chúa phát xít, dùng khủng bố để bù đắp cho sự thiếu hụt sự ủng hộ của quần chúng . . .”. (11)
17. “The American Pope” by John Cooney, A Dell Book, New York 1984, pp. 309-312 :
“Lập trường của (hồng y) Spellman về Việt Nam phù hợp với những mong ước của giáo hoàng. Malachi Martin, một cựu tu sĩ dòng tên phục vụ tại Vatican trong những năm Mỹ leo thang chiến tranh ở Việt Nam, nói rằng giáo hoàng muốn Mỹ ủng hộ Diệm vì giáo hoàng đã bị người anh của Diệm, Tổng giám mục Thục, ảnh hưởng. “Giáo hoàng quan tâm đến sự càng ngày càng thắng lợi của Cộng sản do đó làm suy yếu giáo hội”, Malachi xác nhận rằng : “Giáo hoàng ra lệnh cho Spellman khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam”.
Do đó Spellman xếp đặt một chiến dịch hòa điệu kỹ càng để dựng lên chế độ Diệm. Qua báo chí và vận động trong hậu trường ở Washington, vấn đề đối đầu chống Cộng ở Đông Dương được phổ biến rộng rãi ở Mỹ.
Spellman và Kennedy cũng còn giúp lập lên một nhóm vận động hậu trường Washington. Chủ trương của sự đồng minh này là chống Cộng và phát huy ý hệ Công giáo.
. . . Do đó, rất nhiều người Mỹ tin rằng Việt Nam là một quốc gia phần lớn là Công giáo. Một phần của cái ấn tượng sai lầm này là kết quả của việc Diệm lên cầm quyền. Với sự giúp đỡ của CIA tổ chức cuộc bầu cử gian lận năm 1955, Diệm hủy bỏ chế độ quân chủ và Bảo Đại bị cưỡng bức phải sống trong cảnh lưu đầy. Cái màu sắc Công giáo đậm đà trong cuộc vận động hậu trường Việt Nam cũng góp phần tạo nên quan niệm sai lầm trên. Còn một yếu tố khác là sự đặt mình vào trong đường lối trên của Spellman.
. . . Sự tuyên truyền của Spellman về bản chất Công giáo của chính quyền Diệm đã làm rõ rệt thêm hình ảnh không đẹp về vị thế của giáo hội ở Việt Nam. Cái bản chất tôn giáo của chính quyền Diệm và những vấn đề chính quyền đó tạo ra đã được ghi nhận bởi Graham Greene, một tín đồ Ca Tô, trong một bài viết từ Saigon, in trong tờ London Sunday Times ngày 24 tháng 4, 1955 :
“Một cuộc viếng thăm không thích hợp của Hồng y Spellman đã được tiếp nối bởi những cuộc viếng thăm của Hồng y Gillroy và Tổng Giám mục ở Canberra. Những số tiền lớn lao đã được dùng để tổ chức những cuộc biểu tình đón tiếp những vị khách này, đưa ra một ấn tượng là giáo hội Ca Tô là của Tây phương và là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh.
. . . Nam Việt Nam, thay vì đối đầu với chế độ toàn trị của miền Bắc bằng những bằng chứng về tự do, lại rơi vào một chế độ độc tài bất hiệu lực : dẹp bỏ báo chí, kiểm duyệt chặt chẽ, lưu đầy bằng lệnh của chính quyền thay vì phải được xét xử ở tòa án. Thật là bất hạnh khi một chính quyền như vậy lại đồng nhất hóa với một đức tin. Ông Diệm rất có thể đã để lại trên đất nước có tinh thần khoan nhượng này một di sản chống-CaTô”. (12)
18. “The Final Superstition” by Joseph L. Daleiden, Prometheus Books, New York, 1994, p. 62) :
“Spelllman là người chủ chốt của giáo hoàng làm cho Mỹ tham chiến sâu đậm ở Việt Nam. Theo một bức thư chính thức của Vatican, giáo hoàng "dùng Spellman để khuyến khích Mỹ tham chiến ở Việt Nam”.
Mọi viện trợ nhân đạo cho miền Nam đều đi qua các cơ sở của giáo hội Công Giáo và chỉ có những người Công Giáo là được Diệm bổ nhiệm vào trong chính phủ. Tuy rằng những chính sách như vậy đưa đến việc cải đạo hàng loạt, số tín đồ Công Giáo chỉ chiếm vào khoảng từ 12 tới 13 phần trăm của dân số miền Nam. Không lạ lùng gì mà khối đa số Phật Giáo bất bình đưa đến việc công khai chống đối chính sách của Diệm. Tình trạng ngày càng suy kém, Diệm đã dùng đến biện pháp bắt giữ hàng loạt, đàn áp Phật tử, đóng cửa chùa chiền và tu viện. Qua kinh nghiệm quá khứ, Giáo hội chắc hẳn đã biết rằng sự đàn áp chỉ làm cho lý tưởng mạnh hơn. Trước sự quan sát kinh hoàng của thế giới, giới Phật tử đã phải dùng tới hành động chống đối tiêu cực rốt ráo và nhiều tăng sĩ đã tự thiêu. Trong những khoảng thời gian đáng sợ đó, tôi, một tín đồ Công Giáo, không nhớ có một lời chỉ trích chính sách của Diệm từ một linh mục hay giám mục Công Giáo nào. Tuy nhiên, sự việc đã lên quá mức đối với Tổng Thống John Kennedy, ông ta thôi không ủng hộ Diệm nữa. Ít lâu sau đó Diệm bị hành quyết trong một cuộc lật đổ chính quyền. Qua cái diễn tiến kinh khủng này vai trò của giáo hội đã theo đúng cái tiến trình lịch sử nhơ nhớp của giáo hội”. (13)
“19. America's Longest War” by George C. Herring, John Wiley & Sons, New York 1979, pp. 62-65 :
“Để làm vui lòng các cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng Diệm cũng nói trên đầu môi chót lưỡi về dân chủ, nhưng trong thực hành hắn nắm lấy những quyền lực tuyệt đối. Đích thân hắn ngự trị ngành hành pháp của chính phủ, dành cho hắn và anh em hắn mà hắn đã đưa ba người vào nắm ba chức trong nội các có sáu bộ, mọi quyền quyết định.
Sự tấn công dữ dội của Diệm vào những đối lập chính trị đã gây nên sự bất mãn trong các thành phố cũng như ở thôn quê. Báo chí chỉ trích chính phủ bị đóng cửa ngay.. Dùng quyền hành trong các sắc lệnh của tổng thống, chính quyền Diệm đã lùa vào những “ trại cải huấn” nhiều ngàn người Việt Nam, cộng sản cũng như không cộng sản, những người bị coi như là đe dọa cho trật tự công cộng. Chương trình cải huấn lúc đầu nhắm vào các thành phần kháng chiến Việt Minh ở lại miền Nam, nhưng rồi với thời gian chương trình này được áp dụng cho bất cứ ai dám chống đối chính quyền.
. . . “Chính quyền có khuynh hướng cai trị dân với lòng nghi ngờ và cưỡng bức”, một phúc trình tình báo của Mỹ kết luận năm 1960, và “đã được đáp ứng bởi thái độ bất thiện cảm và bất mãn của người dân”.
(To please his American advisors, Diem occasionally paid lip-service to democracy, but in actual practice he assumed absolute powers. He personally dominated the executive branch of government, reserving to himself and his brothers, three of whom were appointed to a cabinet of six, all power of decision-making.
. . . Diem's vigorous assault against political opponents spawned rising discontent in the cities as well as the countryside. Newspapers which criticized the government were promptly shut down . . . Using authority handed down in various presidential ordinances, the government herded into “reeducation centers” thousands of Vietnamese, Communists and non-Communists alike, who were alleged to be threats to public order. The reeducation program was originally aimed at the Viet Minh “stay-behinds”, but in time it was extended to anyone who dared speak out against the government.
. . . The government “has tended to threat the population with suspicion or coerce it”, an American intelligence report concluded in 1960, “and has been rewarded with an attitude of apathy or resentment”.)
20. “Unwinding the Vietnam War” From War Into Peace" by Reese Williams, The Real Comet Press, Seattle 1987, p. 431 :
Sau khi Pháp bị đánh bại và có vẻ như nền độc lập (của Việt Nam) sẽ tới, theo hiệp định Genève. Nhưng thay vào đó Mỹ đã nhảy vào, quyết định là Hồ (Chí Minh) không được thống nhất đất nước đang tạm thời chia cắt, và những nông dân lại cảnh giác khi chúng ta ủng hộ một trong những tên độc tài đồi bại nhất của thời hiện đại – Thủ tướng Diệm, người chúng ta chọn. Người nông dân cảnh giác và co rúm người lại khi Diệm tàn nhẫn dẹp mọi đối lập, hỗ trợ những tên địa chủ bóc lột họ, và từ chối thảo luận với Bắc Việt về sự thống nhất của đất nước
(After the French were defeated it looked as if independence would come again through the Geneva Agreements. But instead there came the US, determined that Ho should not unify the temporarily divided nation, and the peasants watched again as we supported one of the most vicious modern dictators - our chosen man, Premier Diem. The peasants watched and cringed as Diem ruthlessly routed out all opposition, supported their extortionist lanlords, and refused even to discuss reunification with the North).
(From an address delivered by Dr. Martin Luther King in New York City on April 4, 1967).
Trên đây chỉ là 20 lời phê phán điển hình về chế độ Ngô Đình Diệm của một số trí thức ngoại quốc : ký giả, chính trị gia, giáo sư đại học, nhà quân sự, trong số hàng trăm lời phê phán tương tự khác. Chúng ta cũng nên để ý là hơn phân nửa số tài liệu trích dẫn ở trên được viết sau năm 1975. Nếu độc giả muốn đọc những lời phê phán của người Việt, xin tìm đọc cuốn Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi của cố Thiếu Tướng Đỗ Mậu, trong đó ở phần cuối có 100 lời phê phán của các nhân sĩ, chính trị gia, tướng lãnh, giáo sư đại học, nhà báo v..v.. về Ngô Đình Diệm và chế độ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa. Cho tới ngày nay, cuốn hồi ký chính trị này, với rất nhiều chi tiết lịch sử, vẫn là cuốn sách có giá trị nhất trong những cuốn viết về chế độ Ngô Đình Diệm và những diễn biến chính trị trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa..
Từ 20 lời phê phán của các tác giả ngoại quốc trên, chúng ta có thể rút tỉa ra được những gì ? Sau đây là vài điểm chính.
1). Ngô Đình Diệm là người vô tài, vô đức, nhu nhược, được Hồng Y Spellman, với sự phụ giúp của ngoại trưởng John Foster Dulles cùng một vài chính khách Công giáo Mỹ khác, theo lệnh của Vatican, vận động với Mỹ đưa Diệm về cầm quyền ở Nam Việt Nam vì Diệm thuộc loại người Công giáo cuồng tín khát máu Tây Ban Nha trong thời Trung Cổ, chống Cộng điên dại nên đương nhiên có thể tin cậy để chống Cộng cho Mỹ và cho Vatican. Ngoài ra Vatican cũng còn góp phần vận động, thuyết phục Mỹ tham chiến ở Việt Nam. Cái tội này của Vatican đối với Việt Nam sẽ được ghi vào sử sách.
2). Chế độ Ngô Đình Diệm là một chế độ bạo ngược, chuyên chế, không có sự hậu thuẫn của quần chúng. Đó là một chế độ mà hầu hết những người nắm quyền hành chánh, quân sự là những gia nô vô liêm sỉ.
3). Chính cái chất Công Giáo cuồng tín, tổng hợp của ngu dốt, kiêu căng, huênh hoang, hợm hĩnh [theo giáo sư Nguyễn Mạnh Quang] của Diệm đã làm hại Diệm. Sách lược Công giáo hóa miền Nam bằng thủ đoạn tiêu diệt các giáo phái khác của Diệm trong một nước mà Công giáo chỉ chiếm có 7% là một sách lược ngu xuẩn, đi ngược lại tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên của dân tộc, đã đưa đến sự oán ghét của tuyệt đại đa số người dân Việt Nam. Sách lược này đã ghi thêm một chương ô nhục vào lịch sử giáo hội Công giáo Việt Nam, một giáo hội vốn đã nổi tiếng là : “Hễ phi dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc”.
Kết Luận :
Trước sách lược “Công giáo hóa miền Nam” ngu xuẩn, bạo tàn, hại dân, hại nước của chính quyền Ngô Đình Diệm, con cờ giai đoạn của Vatican và Mỹ, Phật Giáo Việt Nam không còn có thể chọn lựa con đường nào khác ngoài con đường tranh đấu, không riêng gì cho Phật Giáo mà còn cho cả dân tộc. Những bằng chứng tràn ngập về tính cách bạo tàn, kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, đã chứng minh một cách hùng hồn là cuộc tranh đấu của Phật Giáo cách đây 40 năm ở miền Nam Việt Nam là có chính nghĩa, hợp với lòng dân.
Thật vậy, tuy Phật Giáo phát động phong trào chống chế độ Ngô Đình Diệm nhưng lòng dân oán ghét chế độ bạo tàn phi dân chủ này đã âm ỉ từ lâu, như chúng ta đã thấy trong một số tài liệu vừa trích dẫn ở trên. Chúng ta không nên quên là ông Diệm đã bị ám sát hụt tại Ban Mê Thuột ngay từ năm 1957, ngày 21 tháng 5. Rồi đến cuộc đảo chánh thất bại của lực lượng nhảy dù ngày 11 tháng 11, 1960, vụ dội bom dinh độc lập của 2 sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa ngày 27 tháng 2, 1962. Và sự kiện là, trong cuộc tranh đấu Phật Giáo 1963, không phải chỉ có Phật tử mới tham gia tranh đấu mà gồm đủ mọi thành phần dân tộc, từ các em học sinh trung học đến các sinh viên đại học, các giới sĩ, nông, công, thương, kể cả những người Công giáo tiến bộ gồm một số linh mục và tín đồ Công giáo.
Phật Giáo là tôn giáo hòa bình. Những bậc tôn đức trong cuộc tranh đấu Phật Giáo 1963 không chủ trương lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm bằng bạo động, kể cả Bồ Tát Thích Quảng Đức. Nhưng không ai có thể phủ nhận là cuộc tranh đấu này đã góp phần lớn lao đưa đến sự cáo chung của chế độ Công giáo trị, gia đình trị Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11, 1963. Ý thức được lòng dân, chính quân đội Việt Nam, chỉ huy bởi nhiều tướng lãnh, trước đã theo và ủng hộ ông Diệm, đã đứng lên làm tròn sứ mạng dẹp bỏ một chế độ Công giáo độc tài, phi dân tộc, phi tổ quốc. Như đã từng nhiều lần có công với dân tộc trong nhiệm vụ bảo vệ, giữ nước, cuộc tranh đấu 1963 của Phật Giáo ở miền Nam cũng đã góp được nhiều công to lớn cho dân tộc. Ngoài việc đưa đến sự chấm dứt một chế độ ác ôn đã mất đi lòng dân, chính yếu là cuộc tranh đấu của Phật Giáo đã thành công trong việc bảo vệ được nền văn hóa truyền thống và tôn giáo dân tộc. Tôn giáo dân tộc ở đây phải được hiểu theo nghĩa tôn giáo của tuyệt đại đa số người dân trong nước, thí dụ như Ki Tô Giáo ở Mỹ, ngăn chận được hiểm họa của Công giáo trong toan tính đưa toàn dân Việt Nam xuống hàng súc vật (con chiên), cúi đầu tuân phục một định chế có thủ phủ đặt tại Vatican, ngự trị bởi một số người ngoại quốc vô đạo đức tôn giáo như John Paul II và Benedict XVI, mà lịch sử đen tối ô nhục của tôn giáo này đã không còn là một vấn đề xa lạ đối với thế giới ngày nay.
* * * * * *
(1). Though few people knew this, the Cardinal played a prominent role in creating the political career of a former seminary resident in New York who had just become Premier of South Vietnam, Ngo Dinh Diem. In Diem, Spellman had seen the qualities he desired in any leader : ardent Catholicism and rabid anti-Communist.
Spellman had met Diem in New York in 1950, when the Vietnamese had been at the Marykoll Seminary in Ossining, New York. A staunch Catholic from a patrician family, Diem was at seminary at the intercession of his brother, Ngo Dinh Thuc, a Roman Catholic bishop. A lay celibate and deeply religious, Diem had cut himself off from the world, especially his war-shredded nation, and had been known only to a small, politically active circle in the United States. In his homeland his name had hardly evoked enthusiasm. On an official level in the United, Diem was an unknown quantity, a situation Spellman helped rectify. Diem’s background meant that he inevitably came to the attention of Spellman.
The man responsible for bringing them together was Father Fred McGuire. A former missionary to Asia, McGuire’s intimate knowledge of the Far East was well known at the State Department. One day the priest was asked by Dean Rusk, then head of the Asian section, to see that Bishop Thuc, who was coming to the United States, met with State Department officials, McGuire recalled. Rusk also expressed an interest in meeting Diem.
McGuire contacted his old friend Bishop Griffiths, who was still Spellman’s foreign affairs expert. He asked that Thuc be properly received by the Cardinal, which he was. For the occasion Diem came to the Cardinal’s residence from the seminary. The meeting between Spellman and Diem may well have been a historic one. Joseph Buttinger, a prominent worker with refugees in Vietnam, believed the Cardinal was the first American to consider that Diem might go home as the leader of South Vietnam.
In October 1950 the Vietnamese brothers met in Washington at the Mayflower Hotel with Stae Department officials, including Rusk. Diem and Thuc were accompanied by McGuire as well as by three political churchmen who were working to stop Communism: Father Emmanuel Jacque, Bishop Howard Carroll, and Georgetown’s Edmund Walsh. The purpose of the meeting was to ask the brothers about their country and determine their political beliefs. It soon became clear that both Diem and Thuc believed that Diem was destined to rule his nation. The fact that Vietnam’s population was only ten percent Catholic mattered little as far as the brothers were concerned.
As Diem spoke during the dinner, his two most strongly held positions were readily apparent. He believed in the power of the Catholic Church and he was virulently anti-Communist. The State Department officials must have been impressed. Concerned about Vietnam since Truman first made a financial commitment to helping the French there, they were always on the lookout for strong anti-Communist leaders as the French faded. After Dien Bien Phu, Eisenhower wanted to support a broader-based government than that of Emperor, who enjoyed little popular support and had long been considered a puppet of the French and the Americans. Thus US officials wanted a nationalist in high office in South Vietnam to blunt some of Ho Chi Minh’s appeal. The result was that Bao Dai offered Diem the job he had always wanted – Prime Minister. Diem returned to Saigon on June 26, 1954, or several weeks after the arrival of Edward Lansdale, the chief of the CIA’s Saigon Military Mission, who was in charge of unconventional warfare. . .
Spellman’s Vietnam stance was in accordance with the wishes of the Pope. Malachi Martin, a former Jesuit who worked at the Vatican during the years of the escalating U.S. commitment to Vietnam, said the Pope wanted the US to back Diem because the Pope had been influenced by Diem’s brother, Archbishop Thuc. “The Pope was concerned about Communism making more gains at the expense of the Church,” Martin averred. “He turned to Spellman to encourage American commitment to Vietnam”.
Thus Spellman embarked on a carefully orchestrated campaign to prop up the Diem regime. Through the press and a Washington lobby, the problem of confronting anti-Communism in Indochina became widely known in America. One of the men Spellman aided in promoting the Diem cause was Buttinger, a former Austrian Socialist who headed the International Rescue Committee, an organization that had helped refugees flee Communism after Worl War II and now helped people fleeing North Vietnam. The Geneva Accords provided that people moving between the north and south should have 300 days in which to do so. The refugee problems were enormous. When he visited New York, Buttinger met with Spellman and explained the situation. The Cardinal placed him in touch with Joe Kennedy, who arranged meetings for Buttinger with the editorial boards of major publications such as Time and the Herald tribune. Editorials sympathetic to the plight of refugees fleeing Ho Chi Minh’s Vietnam began appearing in the American press.
Spellman and Kennedy also helped form a pro-Diem lobby in Washington. The rallying cries were anti-Communism and Catholicism. Through their connections, they soon had a high-powered committee, which was a lumpy blend of intellectuals and conservatives . . . Spellman’s man on the board was Monsignor Harnett, who headed the Cardinal’s Catholic Near East Welfare Association and now served as the Vietnam lobby’s chief link with the Catholic Relief Services.
To a large extent, many Americans came to believe that Vietnam was a preponderantly Catholic Nation. This misimpression resulted partly from Diem’s emergence as ruler. With the help of the CIA-rigged election in 1955, Diem abolished the monarchy and Bao Dai was forced to live in exile. The heavily Catholic hue to the Vietnam lobby also accounted for much of the widespread belief. Still another factor was Spellman’s identification with the cause.
Then there was the role of a winsome young Catholic doctor working in Vietnam named Tom Dooley. A navy lieutenant who operated out of Haiphong, Dooley worked with refugees. At one point Dooley, a favorite of Spellman, even organized 35000 Vietnamese Catholics to demand evacuation from the north. Dooley’s efforts were perhaps even more successful in the US than in Vietnam. He churned out newspaper and magazine articles as well as three best selling books that propagandized both the Catholic and anti-Communist nature of his beliefs. He fabricated stories about the suffering of Catholics at the hands of perverted Communists who beat naked priests on the testicles with clubs, deafened children with chopsticks to prevent them from hearing about God, and disembowed pregnant women. A graduate of Notre Dame in Indiana, Dooley toured the US promoting his books and anti-Communism before he died, in 1964, at age 34. One of the last people to visit his sickbed was Cardinal Spellman, who held up the young physician as an inspiration for all – another martyr. Dooley’s reputation remained untarnished until a Roman Catholic sainthood investigation in 1979 uncovered his CIA ties.
Dooley had helped the CIA destabilize North Vietnam through his refugee programs. The Catholics who poured into South Vietnam provided Diem with a larger political constituency and were promised US-supported assistance in relocating. The American public largely believed that most Vietnamese were terrified of the cruel ad bloodthirsty Viet Minh and looked to the God-fearing Diem for salvation. Many refugees simply feared retaliation because they had supported the French . . .
Spellman's propagandizing of the Catholic nature of Diem's regime reinforced a negative image of the Church's position in Vietnam. The sectarian nature of Diem's government and the problems of that government were noted by the writer Graham Greene, himself a Catholic, in a dispatch from Saigon printed in the London Sunday Times on April 24, 1955 :
An unfortunate visit by Cardinal Spellman has been followed by those of Cardinal Gillroy and the Archbishop of Canberra. Great sums are spent on organizing demonstrations for the visitors, and an impression is given that the Catholic Church is occidental and an ally of the US in the cold war.
. . . The South, instead of confronting the totalitarian North with the evidence of freedom, has slipped into an inefficient dictatorship: newspapers suppressed, strict censorship, men exiled by administrative order and not by judgement of the courts. It is unfortunate that a government of this kind should be identified with one faith. Mr. Diem may well leave his tolerant country a legacy of anti-Catholicism).
During his visit Spellman presented a check for $100000 to the Catholic relief Services, which was active in the refugee-relocation program and later administer a great deal of the US aid program, which closely bound the CRS to the US war effort and later led to the suspicion that the CRS had CIA ties. Turning to the Church to perform such a function was done in Latin America, among other places, but in Vietnam it eventually seemed to bear out Graham Greene’s warnings that the Church and the US were being tied to a cause unpopular among Vietnamese.
The potential for corruption in Vietnam was tremendous and also harmed the CRS’s reputation. Drew Parson estimated that in 1955 alone, the Eisenhower administration pumped more than $20 million in aid into Vietnam for the Catholic refugees. Unavoidably, there was much graft and corruption involved in getting food, medical supplies, and other goods from ship to villages. By 1976 the National Catholic Reporter, a hard-nosed weekly newspaper, reported apparent CRS abuses in articles such as one entitled “Vietnam 1965-1975. CRS Role: Christ’s Work – or the CIA’s” The abuses cited included using supplies as a mean of proselytizing ; giving only Catholics aid mean for everyone, being identified with the military; and giving CRS goods to American and Vietnamese soldiers rather than to the civilians for whom the goods were meant).
(2) (Diem's Catholicism, far from opening him up to new ideas, only persuaded him that government by ritual and moral instruction could work, as indeed it seemed to in the ironclad, priest-ridden villages of the north and center.
What he did not realize was that such parochial governments could operate merely because the French protected them and organized the administration of the country. His ambition to restore the old society therefore resembled that of the paternalistic French colons who had opposed the reformist programs of the metropolitan administrators - the difference being that while the French wished to keep the modern sector for themselves, Diem did not recognize its importance. For him, the modern world was Saigon, that parasite city that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West.
. . . Journalists, such as Robert Shaplen, criticized Diem for alienating the peasants by his oppressive measures.
. . . A host of officials and journalists, including such experienced and politically diverse men as Douglas Pike, Chester Bowles, and the British counterinsurgency expert, Sir Robert Thompson saw Diem as the enemy of the anti-Communist project.
. . . In all the years of his reign Ngo Dinh Diem found only one ally in the countryside, and that was the Catholics, most particularly the northern refugees. From the beginning he staffed his administration heavily with Catholics and favored the Catholic villages over all the rest. The Diemist officials, working closely with the priests, saw to it that the Catholic villages took the bulk of US relief aid, the bulk of agricultural credit.
They gave the Catholics the right to take lumber from the national reserves and monopoly rights over the production of the new cash crops introduced by the American aid technicians. “Turn Catholic and have rice to eat”, went the old Vietnamese saying under the French regime. Under Diem the South Vietnamese continued to follow the injunction. In Central Vietnam particularly, thousands of people, in some cases virtually whole settlements, turned Catholics so as to escape the government corvés or to avoid resettlement - for the benefit of their Catholic neighbors - into some hardship zone of jungle and swamp. To feed the Catholics at the expense of the rest of the population was, of course, a shortsighted policy, but Diem saw no alternative, and the Americans offered him none).
(3) (Whatever the constitution might say, Diem ruled as a virtual dictator. His political philosophy was derived from a group of French Catholics, who formulated a doctrine known as Personalism. It emphasises human dignity as opposed to the Communist concept of disiplined masses. Its detail is complicated, and difficult of comprehension to all but a philosopher. An
American expert who was called in to advise on the local system of taxation described Personalism as “a confused mélange of papal encyclicals and kindergarten economics, combined with a suspicion of private businessmen, a fear of foreign capital, and an attitude that little could be accomplished in Vietnam without direct government control”.
In practice, it meant government by Diem.
. . . With the passing months Diem's attitude became more intolerable, and by 1963 he was the complete dictator, seeking advice only from his immediate relatives. He was completely aloof from the common people. It was complained that he gave all the best posts and showed all the favor to Catholics : but the Catholics were “foreigners” - refugees from the North Vietnam. The resentment brought about the rise of a Buddhist political movement.)
(4) (The Catholic Vietnamese thrived under Diem's systematic discrimination against the Buddhists. The Catholics were preferred in the civil service, while those who lived in the villages were not always required to do the hard labor of building roads and other public works. The Catholic Church, unlike the Buddhist Pagodas, had special rights to acquire and own property, as had been the case under the French. In time, this discrimination against the vast majority of the country would lead to politically lethal protests against Diem by the Buddhist bonzes.
. . . Diem annoyed Americans not only because his personal way of doing things. He was an enthusiast when it came to repressing his political opponents, of whom he arrested upwards of 40,000. In early 1959, Diem legalized his brutality by creating special military courts to try political opponents and to pass sentences of death in no more than three days. These courts made the arrests, conducted the inquiries, and sentenced the guilty.
. . . Diem closed newspapers that did not support him with the requisite fervor. Worst of all, he destroyed the leadership in the villages and replaced it with his own appointees. He had become a dictator.)
(5) (Lansdale let his preconceptions lead him to false assumptions...Lansdale thought the Catholic refugees from the North were Vietnamese patriots who had “fought for their country's freedom from the French”. He saw nothing wrong with the US singling out these Catholics for special assistance. He saw nothing inappropriate about having a Catholic as president of what he perceived to be a “Free Vietnam”.
Roman Catholics were a tainted minority in Vietnam. Lansdale was anxious to draw a distinction between Americans and French “colonialists”. What he did was to make the distinction one without a difference...By singling out the Catholics for help, and by putting a Catholic in office in Saigon, he announced that the US was stepping in to replace the French. Vietnamese converts to Catholicism had been used by the French as a fifth column to penetrate precolonial Vietnam and then had been rewarded by the colonizer for their collaboration. They were popularly regarded as a foreign-inspired, “un-Vietnamese” religious sect. With the French leaving, the Catholics were naturally seeking another foreign protector. They told Lansdale what they sensed he wanted to hear.
. . . As Lansdale guided Diem to success in crushing the sects on the theory that Diem was the Magsaysay to form a new and central government, it would never have occured to Lansdale that Diem was beginning his rule by eliminating the most effective OPPONENTS of the Communists in the South.
. . . The Ngo Dinhs proceeded to impose on South Vietnam what amounted to their own alien sect of Catholics, Northern Tories, and Central Vietnamese from their home region. Diem and his family filled the officer corps of the army and the civil administration and the police with Catholics, Northerners, and Central Vietnamese they trusted. The peasants of the Mekong delta found themselves being governed by province and district chiefs, and by civil servants on the province and district administrative staffs, who were outsiders and usually haughty and corrupt men.)
(6) (Eight of ten American aid dollars went for internal security, not to fight Communist guerrillas or implement reforms such as land redistribution. Diem was more worried about coups than Communists.
. . . As a consequence of his increasingly repressive internal measures, popular discontent with Diem gradually intensified, despite his attempt to squelch it at every opportunity. The millions of peasants in the countryside became estranged from him.. Not surprisingly, Communist activity intensified as discontent increased. And Diem's repressive measures increased accordingly. Thousands were put in jail..
By 1960, the only difference between the governments of Ngo Dinh Diem and Ho Chi Minh was their flags.)
(7) (An early American supporter of Diem concluded : Abuse of power, nepotism, corruption, contempt for inferiors, and cruel disregard of the needs of the people were the example set by the Ngo's "Family" for the ministers, legislators, generals, province chiefs, and village commissioners whom they used as pawns.
Behind the family stood the US. Below it stood very little at all. It threw its shadow over all Vietnamese society; yet its roots penetrated shallowly indeed into Vietnamese soil. This predetermined the methods by which Diem could extend his control over the country...Only one way was open: repression and further consolidation of power in the hands of his brothers and their followers . . . Full scale manhunts against dissidents were organized on the rural areas in 1956, and increased in later years as the situation deteriorated.
75,000 or more people were killed in this campaign. As many or more were incarcerated under Presidential Ordinance No. 6, signed in January 1956 “Individuals considered dangerous to national defense and commun security”, it said, could be confined by executive order in a “concentration camp”. Conditions in Diem's “reeducation centers”, brought to light only after his overthrow in 1963, were sordid indeed. Deliberate starvation, deliberate blinding, deliberate maiming. The list is long”.
(8) (Now that Diem had won out over all his foes, the brothers wished to make sur that no one else would unseat them. On the surface, South Vietnam was a republic with a brand-new constitution promising freedom and democracy to its people. In practice, however, the very opposite was true...Nhu was Diem's right arm...He fixed elections, packed the National Assembly with his henchmen and hirelings, and sent his Can Lao prowling the country in search for dissidents..
Twilight had begun to settle over the regime of Ngo Dinh Diem as the year 1963 began. The president ruled in his palace like a monarch cut off from his people. Hatred of him and his family mounted until the air of Saigon seethed with it. Runors of plots and coups swirled through the city almost daily. In these circumstances, Diem sought only to hold on to his power. The war became secondary. Officers were promoted when they kept the casualty lists down. There was only one sure way to do that - not to fight. Not fighting became a way of life with some commanders and a way of keeping their jobs.
. . . A showdown between Diem and the Buddhists had been building ever since he became premier in 1954. Diem, a Catholic, naturally felt more at home with other Catholics. Many of the leading posts in the government and army were held by Catholics, who were also privileged when it came to making money out of business deals engineered by the regime.
Of the 15 million people of South Vietnam, a little more than a million were Catholic. The rest, mainly Buddhist, resented the favoritism shown Catholics. The difference in treatment was even more blatant in the provinces where the local priests and government officials, mostly Catholic, too, were all-powerful. When strategic hamlets were built, the Catholic inhabitants were exempted from working and non-Catholics were brought in to labor in their places. When new land was opened for development, Catholics got the pick of the land in the safe coastal regions. The land given to Buddhists was inland, where they would have to work under the menacing shadow of the Viet Cong. Many Buddhists, seeing where the grass was greener, tried to become Catholics).
(9) (Warning that "\”if the elections were held today the overwhelming majority of Vietnamese would vote Communist”, Cherne declared that American prestige in Asia was dependent upon preventing that result. The answer was to strengthen the Catholic faction in South Vietnam, who alone among Vietnamese had ideological reasons to be against the communists. The British Catholic writer Graham Greene has described the American use of the Catholic Church in fighting the Cold War in Vietnam:
It is a Catholicism which has helped to ruin the government of Mr. Diem, for his genuine piety...has been exploited by his American advisors until the Church is in danger of sharing the unpopularity of the US...Great sums are spent on organized demonstration for the visitors, and an impression is given that the Catholic Church is occidental and an ally of the US in the cold war. On the rare occasions when Mr. Diem has visited the areas formerly held by the Viet Minh, there has been a priest at his side, and usually an American one.
. . . The major interest of the Diem government was its own security. It feared that the elections scheduled for July, 1956, would spell a victory for Ho Chi Minh and the end of power for noncommunist politicians . . .
The CIA national intelligence estimates prepared in February, 1957, described the Diem regime in these words :
Diem's regime reflects his idea. A facade of representative government is maintained, but the government is in fact essentially authoritarian. The legislative powers of the National Assembly are strictly circumscribed; the judiciary is underdeveloped and subordinate to the executive; and the members of the executive branch are little more than the personal agents of Diem. No organized opposition, loyal or otherwise, is tolerated, and critics of the regime are often repressed...The exercice of power and responsibility is limited to Diem and a very small circle mainly composed of his relatives, the most important being Nhu and Can.
. . . Diem's dictatorship, supported with a network of informers, military tribunals, and corrupt functionaries, declared war not only on the communists, who until 1957 were quiescent, but also against any group whose personal loyalty was not assured. Indeed, more non-communists than communists ended up in Diem's jails.
. . . Diem's despotism, his shameless favoring of Catholic refugees from the North over the rest of the population, and his persecution of all political dissidents produced the coalition against him that he dreaded).
(10) (President Ngo Dinh Diem of South Vietnam was a practicing Catholic who ruled South Vietnam with an iron fist. He was a genuine believer in the evil of Communism and the uniqueness of the Catholic Church. He had originally been “planted” into the presidency by Cardinal Spellman and Pope Pius XII. He transformed the presidency into a virtual Catholic dictatorship, ruthlessly crushing his religious and political opponents. Buddhist monks committed suicida by fire, burning themselves alive in protest against his religious persecutions. His discriminatory persecution of non-Catholics, PARTICULARLY BUDDHISTS, caused the disruption of the government and mass desertions in the army. This eventually led to US intervention in South Vietnam.
In this terrorization he was aided by his two Catholic brothers, the Chief of the Secret Police and the Archbishop of Hue.
. . . It has been reckoned, and the figures although lacking any official confirmation are considered to be concretly reliable, that during this period of terror - that is from 1955 to 1960 - at least 24,000 were wounded, 80,000 people were executed or otherwise murdered, 275,000 had been detained, interrogated with or without torture, and about 500,000 were sent to concentration or detention camps. This is a conservative estimate.
. . . With the result that by relegating the interest of his country to the background, so as to further the interests of his religion, dictator Diem finally brought his land into the abyss).
(11) (Joseph Buttinger, an early advisor to Diem and one of his most outspoken advocates in the 1950s, contends that the designation "fascist" is innapropriate for Diem because, although his regime had most of the vicious characteristics of fascisme, he lacked the mass base that a Hitler or Mussolini could muster.
. . . According to Jeffrey Race, a former US Army advisor in South Vietnam who had access to extensive documentation on recent Vietnamese history, . . . the government terrorized far more than did the revolutionary movement - for example, by liquidations of former Vietminh, by artillery and ground attacks on “communist villages” and by roundups of “communist sympathizers”. Yet it was just these tactics that led to the constantly increasing strength of the revolutionary movement in Long An from 1960 to 1963.
. . . The Pentagon historian refers to “Diem's nearly paranoid preoccupation with security”, which led to policies that “thoroughly terrified the Vietnames peasants, and detracted significantly from the regime's popularity”.
. . . Diem's extensive use of violence and reprisals against former Resistance fighters was in direct violation of the Geneva Accords (Article 14c), as was his refusal to abide by the election proviso. The main reason for Diem's refuse to abide by this mode of settlement in 1955-56 was quite evident: the expatriate mandarin imported from the US had minimal popular support and little hope for winning in a free election . . . Diem was a typical subfascist tyrant, compensating for lack of indigenous support with extra doses of terror . . .).
(12) (Spellman's Vietnam stance was in accordance with the wishes of the Pope. Malachi Martin, a former Jesuit who worked at the Vatican during the years of the escalating US committment to Vietnam said the Pope wanted the US to back Diem because the Pope had been influenced by Diem's brother, Archbishop Thuc.
“The Pope was concerned about Communism making more gains at the expense of the Church”, Martin averred. “He turned to Spellman to encourage American committment to Vietnam”.
Thus Spellman embarked on a carefully orchestrated campaign to pop up the Diem regime. Through the press and a Washington lobby, the problem of confronting anti-Communism in Indochina became widely known in America.
Spellman and Kennedy also helped form a pro-Diem lobby in Washington. The rallying cries were anti_Communism and Catholicism.
. . . To a large extent, many Americans came to believe that Vietnam was a preponderantly Catholic Nation. This misimpression resulted partly from Diem's emergence as ruler. With the help of CIA-rigged election in 1955, Diem abolished the monarchy and Bao Dai was forced to live in exile. The heavily Catholic hue to the Vietnam lobby also accounted for much of the widespread belief. Still another factor was Spellman's identification with the cause.
. . . Spellman's propagandizing of the Catholic nature of Diem's regime reinforced a negative image of the Church's position in Vietnam. The sectarian nature of Diem's government and the problems of that government were noted by the writer Graham Greene, himself a Catholic, in a dispatch from Saigon printed in the London Sunday Times on April 24, 1955 :
An unfortunate visit by Cardinal Spellman has been followed by those of Cardinal Gillroy and the Archbishop of Canberra. Great sums are spent on organizing demonstrations for the visitors, and an impression is given that the Catholic Church is occidental and an ally of the US in the cold war.
. . . The South, instead of confronting the totalitarian North with the evidence of freedom, has slipped into an inefficient dictatorship: newspapers suppressed, strict censorship, men exiled by administrative order and not by judgement of the courts. It is unfortunate that a government of this kind should be identified with one faith. Mr. Diem may well leave his tolerant country a legacy of anti-Catholicism).
(13) (Spellman was the papal point man to lead America into deeper involvement in Vietnam. According to a Vatican official letter, the pope “turned to Spellman to encourage American commitment to Vietnam".
All US relief to the South was funneled through the Catholic Church's agencies and only Catholics were appointed to government positions by Diem. Although these policies resulted in a wave of conversions, Catholics still made up only about 12 to 13 percent of the South Vietnamese population. Not surprisingly, the resentment among the Buddhist majority soon resulted in their open resistance to Diem's policies. As the situation deteriorated, Diem resorted to mass arrests and suppression of the Buddhists, closing shrines and monateries. As the Church should have known from its own early experience, persecution can only strengthen a cause. As a horrified world watched, the Buddhists resorted to the ultimate act of passive resistance and several monks set themselves ablaze. During these terrible times, when I, too, was a Catholic, I don't recall one word of criticism of Diem's policies from a Catholic priest or bishop. However, it finally became too much for President John Kennedy, who withdrew US support for Diem. Diem was soon executed in a coup. Throughout this dreadful ordeal the role of the Church followed true to the course of its sordid history).
Những bài viết về Ngô Đình Diệm :
Ai Là Ác Nhân Nhất Thế Kỷ 20 ? (Trần Chung Ngọc sưu tầm)
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” (Trần Chung Ngọc)
Nguyễn Trường Tộ - Từ Huyền Thoại Đến Thực Chất (Trần Chung Ngọc)
Nhận Định Về DVD "Sự Thật Về Hồ Chí Minh" (Trần Chung Ngọc)
Thư mục để tham khảo (Trần Chung Ngọc)
Tôi Đọc Bài Của PCD Về ĐT Võ Nguyên Giáp (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Diệm (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Hồ -1 (Trần Chung Ngọc)
Vài Nét Về Cụ Hồ -2 (Trần Chung Ngọc)
Xét Lại Huyền Thoại Nguyễn Trường Tộ - Nhân Đọc... (Trần Chung Ngọc)
Điện Biên Phủ, hay Đâu Là “Sự Thật Lịch Sử” Của Lữ Giang (Trần Chung Ngọc)