MỤC LỤC
MỘT CẢM NGHĨ
CHIỀU BA MƯƠI TẾT
GIẢ TỪ HUẾ ĐÔ
CHỢ CÁ ĐÔNG BA
BƯỚC CHÂN XUỐNG THUYỀN
NHỮNG NGÀY TRÊN BIỂN
TRÊN ĐẢO HẢI NAM
BĂNG QUA LỤC ĐỊA
TRÊN ĐẤT HƯƠNG CẢNG
TRÊN ĐẤT HOA KỲ
MỘT CẢM NGHĨ
Năm năm sống dưới chế độ Cộng Sãn Việt Nam. Năm năm trời đã được nếm mùi do Cộng Sãn rót thẳng vào con người tôi.
Kháng chiến Một trước 1954, tôi còn nhỏ. Những điều mắt thấy, tai nghe, nhận thức về chủ thuyết Cộng Sãn theo trình độ ấu niên, cũng không hơn gì như con em của chúng ta hiện tại. Tuổi trẻ, chỉ có bầu máu nóng, nhiệt tâm phục vụ theo sự hướng dẫn của người lớn ; tâm hồn như một tờ giấy trắng, chỉ chờ người thợ nhuộm màu đem đến mà thôi. Nếu người thợ nhuộm biết chọn màu hợp thời trang, hợp với nhãn quan của mọi người, thì kết quả đem lại rất khả quan. Giá như người thợ nhuộm vụng về trong lúc chọn màu, thì kết quả vô cùng đen tối. Hiện tại Cộng Sãn Việt Nam làm nghề thợ nhuộm vụng về đó. Vì vậy mà dân tộc Việt Nam, quê hương Việt Nam của chúng ta đã đi vào con đường lầm than đau khổ. Người dân sống cảnh đói cơm rách áo, học đường thiếu cán bộ có kiến thức cao để dạy dỗ con em, bệnh xá thiếu thuốc men, y cụ và nhân viên giỏi…Xứ sở sống lại thời cổ xưa.
Người xưa có câu : “Có đắp chăn mới biết chăn có rận”.
Đúng vậy, mặc dù chúng ta tìm hiểu để có một số kiến thức về Cộng Sãn qua sách vở, báo chí chưa đủ, mà phải sống thực trong chế độ Cộng Sãn thì mới thấy được. Và lúc đó chúng ta chống Cộng mới hữu hiệu.
Tôi bỏ đất mẹ Việt Nam, mang thân lưu đày biệt xứ; để lại sau lưng một bà Mẹ già và đàn em dại.
Những ai đã từng sống dưới chế độ Cộng Sãn bất cứ thời gian nào, đăc biệt là sau 1975, bỏ nước ra đi còn mang đầu óc thiên Cộng hay có những hành động làm lợi cho Cộng Sãn dưới mọi hình thức là đắc tội với dân tộc, đắc tội với lịch sử. Kẻ ấy phải đền tội với đất nước.
Những Bước Chân Đi Qua là ghi lại những gì tôi đã sống đã làm, đã chịu và đã chứng kiến…
Tuy nó không làm hài lòng quý độc giả, nhưng đây là những gì mất mác, đau lòng của kẻ xa quê.
GIÂY PHÚT DẶN DÒ
Ba đêm liền không ngủ. Đêm nào cũng thức suốt sáng để lo cho mọi công chuyện được êm đẹp.
Trưa nay, vừa thiu thiu ngủ, chú tiểu Dũng chạy vào phòng đánh thức tôi dậy . Chú bảo :
- Bạch Thầy, có mấy anh chị dưới nhà lên thăm thầy.Tôi, mắt nhắm mắt mở, chưa bước ra khỏi phòng thì bốn đứa em của tôi đã đứng bên tủ sách đươc kê giường tôi. Tôi bảo:
- Mấy em ngồi xuống đó đi, Thầy đi chút việc gặp lại sau.
Thường thì các em của tôi gọi tôi bằng thầy và xưng hô với tôi bằng con như quý Phật Tử thường xưng hô với quý thầy vậy. Ngược lại, tôi xưng thầy với các em mà gọi chúng nó bằng em như thường. Trong gia đình từ bên nội, bên ngoại có thấm nhuần Phật Pháp nên xưng hô với tôi cũng giống như xưng hô với quý thầy. Ngày còn sinh tiền, cha tôi cũng gọi tôi là chú thầy.
Tôi vừa rửa mặt xong xuôi. Chú tiểu Dũng, thị giả của tôi đã chế sẵn cho tôi một bình trà và thêm bốn chén nước cho khách.
Chùa tôi ở là một ngôi chùa có quy cũ, có nền nếp hẳn hoi kể từ Ngài khai sơn cho đến bây giờ. Ngày tôi vào tu học ở chùa nầy thì những khuôn phép ấy nó từ từ thâm nhập đến với tôi.Cái khuôn phép ấy được duy trì và truyền thừa cho hàng đệ tử kế tiếp nhau, tính đến nay cũng đã trên chin mươi năm hơn. Khi tôi đến tu học cũng đã có sẵn và ngày tôi sắp từ giả nó vẫn còn nguyên vẹn. Một chú tiểu vào hành điệu ở chùa nầy sau ba tháng là đã biết tiếp khách, phép hầu thầy; nói chung là phép xã giao với khách thập phương một khi đến viếng chùa lạy Phật. Những khách thập phương dù chỉ đến Trúc Lâm một lần thôi cũng đủ để kính nễ những vị tu học ở chùa mặc dù đó chỉ là một chú tiểu.
Tôi có may mắn là được tôi luyện ở ngôi Tổ Đình nầy. Những gì tinh túy của Tổ Đình nầy tôi vẫn mãi nhớ và vẫn canh cánh bên lòng.Vì đó là những đạo hạnh đẹp đẽ của một vị tu hành chơn chánh. Uống xong hai chén nước tôi cười và hỏi :
- Sao Mạ khỏe không ? Các em lên bằng xe đạp hay xe buýt ?
- Bằng xe đạp, hai đứa một chiếc. Lễ trả lời tôi như thế.
Trong khi đó Nghi, em Lễ chưa nói gì hết mà mắt lại đỏ hoe, mặt thì buồn buồn. Tôi thấy không mấy thuận tiện ở phòng tôi trong việc nói chuyện cho chúng được. Tôi đành lảng sang chuyện khác.
- Mấy bữa ni Mạ ra răng ?
- Mạ mệt hay nhức đầu một bên.
- Mạ có uống thuốc chi không ?
- Dạ có, Nghi đáp.
- Uống thuốc chi ?
- Thuốc của thầy và Sư Cô Bảo Nghiêm gởi về cũng có.
Tôi có một bà cô em út của cha tôi cũng xuất gia gần cạnh chùa Trúc Lâm độ 500 mét. Cô xuất gia đúng vào năm chia đôi lãnh thổ 1954.
- Thôi mấy anh em mình ra ngoài tháp Tổ để nói chuyện cho vui và mát mẽ hơn. Trong nầy để Ôn và chúng lý nghỉ trưa.
Năm chúng tôi dắt nhau ra đến tháp Tổ. Tôi có cả thảy bảy anh em. Tôi con trai trưởng. Kế tôi là cô em gái nay đã có chồng. Đứa em trai út là Do, là thứ năm trong bảy anh em. Nó bị nhà nước đưa đi làm một việc gọi là nghĩa vụ quân sự. Vì nhà nước cho là sạch sẽ không giống như hai anh của nó là Ngụy quân. Nó được nhà nước chiếu cố giao cho một cây súng và ít dụng cụ thô sơ gì đó để qua bảo vệ hay chiếm nước Cam Bốt ? Nó đi trước tôi một tháng, giá như chậm một tí, bây giờ nó cũng đã theo tôi đi ra nước ngoài.
Vừa đến tháp Tổ, Lễ chận họng tôi một câu :
- Thôi, thầy đi mô cho mệt,
- Chắc gì thầy đã đi được ? Nguy hiểm lắm.
Trong lúc ấy, hai cô em út của tôi, Diệu Thu ngồi xuống đất lấy cây nguệch ngoạc những đường vẽ không suy nghĩ. Diệu Thủy kế út đứng bên tôi thút thít khóc không ra tiếng. Bốn đứa đều nước mắt lưng tròng. Riêng tôi thì se thắt cả cõi lòng, cố lấy lại bình tĩnh, tôi ôn tồn bảo :
- Để thầy đi, thầy ở nhà không làm gì được. Thầy cũng không giúp đỡ gì được cho Mạ cho các em và cho chùa.
Tôi tiếp :
- Các em đừng lo, giả sử có bị bắt thì các em chỉ nghe tin thế thôi, chưa chắc các em đã nhìn được thầy. Các em cứ xem thầy đã mất tích. Khi các em nghe tin thầy mất tích, thì cứ lấy ngày đó làm ngày kỵ cho thầy là đủ.
Mấy em tôi nhìn tôi bằng cặp mắt trân tráo mà không dám nói thêm một câu nào nữa. Chúng cũng thừa biết tính tôi kể từ khi chúng nó biết khôn. Tôi vốn có một cái tính không mấy tốt đẹp, nhưng tôi cố sửa hoài mà vẫn chưa được, đó là tính quyết đoán. Tôi đã nói thì tôi làm. Tôi hứa giúp ai thì giúp tận nơi, dù tôi có bị lỗ lả chăng nữa.
Đến đây tôi bảo nhỏ các em tôi :
- Thầy đã quyết định các em không nên nói nhiều. Các em chỉ biết đến thế là đủ.
Tôi mỉm cười gượng mà trống ngực đánh thình thịch. Thở phào một hơi nhẹ rồi dặn tiếp.
Các em lên thăm thầy lần nầy chỉ biết thế. Tuyệt nhiên không được cho Mạ biết.
Tôi sợ Mẹ tôi hay được là nguy mất. Bà mẹ nào cũng thương con cho dù đứa con ấy khôn lớn cách mấy.
Khung cảnh của chùa về ban trưa thật là yên tĩnh. Những ngọn gió thổi qua mặt chúng tôi thật mát mẽ. Những cây thông già trước cổng chùa hú lên những tiếng vi vu mỗi khi có làn gió mạnh. Mấy dãy tùng trồng hai bên tháp Tổ tỏa mùi thơm nồng đượm. Năm anh em chúng tôi kẻ đứng người ngồi nhìn vào nhau mà không nói lên được một lời to nhỏ. Trên mấy cành nhãn cạnh chúng tôi, những con chim hoàng anh cất giọng hót líu lo một cách vô tư. Giọng hót vô tư của những con chom nhỏ ấy không làm sao hàn gắn được sự chia ly của anh em chúng tôi trong những ngày sắp tới. Chim ơi ! Giọng hát của mầy bây giờ nghe ra như ai oán sầu bi, giọng hát của ngăn cách chia ly… Tại sao lúc nầy lại có sự xuất hiện của mầy nhỉ ! Hay là mầy đến đây để chứng kiến sự chia ly của chúng tao. Mầy vô tình hay cố ý hởi chim ? Hay là mầy cũng có đồng cảnh ngộ như chính chúng tao vậy ?
Bầu không khí đang đè nặng chúng tôi. Chim vẫn hót trên cành, hoa vẫn thi nhau khoe sắc trước gió xuân. Những đóa mai vàng hé nở tuyệt đẹp và tỏa mùi hương thơm nhè nhẹ. Trước sân chùa, hai dãy vạn thọ cũng đơm bông đủ màu. Thông vẫn reo, gió xuân vẫn thổi ; thế nhưng, không làm sao xoa dịu nỗi đau buồn giữa kẻ ỏ người đi. Cuộc chia ly lần nầy gần như vĩnh viễn.
Đến đây tôi ôn tồn bảo :
- Khi Ba lâm chung, trước giờ vĩnh biệt, Ba có dặn một điều và bây giờ chúng ta đang tôn thờ lời di huấn ấy :
- “. . . Dù hoàn cảnh có đổi dời chăng nữa, các con nên thương yêu nhau, đùm bọc nhau. Chị ngã em nâng, vui cùng hưởng nhục cùng lo. Được như thế, Ba sẽ hoan hỷ và ngậm cười nơi chin suối…”
Đó Ba dạy như thế. Nay thầy nhắc laị và ghi tạc vào lòng. Ba đã tạo ra chúng ta, hy sinh cho chúng ta đủ điều, nay thì người không còn nữa. Người đã để lại cho anh em chúng ta những gia bảo vô giá ấy, chúng ta phải vâng lời làm theo. Chúng ta phải noi gương những gì mà Người đã làm, đã sống.
Tôi nhắc đến đây tất cả đều òa lên khóc. Khóc là vì nhớ lại lời giáo huấn tối hậu của vị cha già trước giờ lâm chung. Khóc là vì chúng tôi sắp xa nhau và xa nhau mãi mãi.
Rồi đây trên đường đời vạn nẻo, một người một ngã. Kẻ chân trời người góc biển biết có khi nào gặp lại ? Và chính tôi, ngày trở về có còn vẹn như xưa, hay trong số anh em chúng tôi đã có người đi vào lòng đất lạnh ? Trở về lại căn nhà xưa… Than ôi ! Mẹ tôi cũng chỉ là một di ảnh trên bàn thờ với ngọn đèn dầu leo lét. Và ngược lại chắc gì tôi còn sống để trở về đất mẹ hay gởi lại nơi đất khách quê người với nắm xương tàn vô chủ ? Và chính tôi lúc đó, sẽ trở thành một nấm mồ hoang …
Nghĩ đến cảnh tượng nầy mà toàn thân tôi tê buốt, cứng đờ, mặc dù trước mắt tôi đang là một cảnh tượng sống động. Đang đau buồn giữa tình cốt nhục sắp bị phân ly. Tôi ngoảnh mặt lại bảo các em tôi rằng :
- Thầy là trưởng trong gia đình, thầy đi rồi, Lễ sẽ thay thế thầy để phụng dưỡng mẹ già hôm sớm, trông nom các em như chính thầy đã làm bấy lâu nay. Có một điều mà các em phải lưu tâm là săn sóc Mẹ nhiều hơn, vì sau khi thầy đi rồi, không thể nào mà Mẹ không lo buồn. Mẹ lo sợ rằng thầy sẽ bị bắt. Bản thân thầy cực khổ đã đành, gia đình cũng bị liên hệ, chùa cũng bị khó dễ, các em cũng không được yên thân.
Mẹ buồn vì từ nay không còn nhìn được hình bóng của thầy mỗi lần Mẹ lên chùa lạy Phật, thăm Ôn, thăm quý thầy…không còn nhìn thấy thầy về thăm Mẹ, thăm các em như mọi khi. Với những ngần ấy thứ, cũng đủ làm cho Mẹ hao mòn sức khỏe, tuổi thọ của Mẹ cũng sẽ giảm đi. Thầy vẫn biết thế, nhưng tình cảnh xã hội thế nầy, thầy đành gạt lệ ra đi. Thầy ra đi không phải vì mục đích để yên thân, không phải vì miếng cơm manh áo hay chạy theo một cuộc sống đầy văn minh vật chất. Thầy ra đi cốt để giữ lại tấm thân nầy về sau để làm một điều gì đó có ích cho Đạo Pháp và Dân Tộc. Chính vì lẽ đó mà thầy ra đi.
Miệng thì tôi nói thế, tâm hồn tôi thì rối bời. Vì tôi sắp phải xa Mẹ mà không dám nói lên lời từ biệt.
Hồi tưởng lại thời thơ ấu của tôi. Ngày còn nhỏ, tôi được sống cạnh bên Mẹ hơn là bên Cha. Cha tôi vì kinh tế gia đình phải đi xa để tảo tần xuôi ngược. Một hoặc hai ba tháng, Cha tôi mới về thăm gia đình một lần. Mỗi lần như thế nhiều lắm là hai hoặc ba bốn ngày, rồi Cha tôi cũng tiếp tục đi để lo kế sanh nhai. Tất cả những việc từ trong nhà cho đến ra ngoài đồng áng đều do một tay Mẹ tôi định đoạt. Bà là một người đàn bà đảm đang. Thậm chí vấn đề lo cho con cái không chỉ về vật chất mà cả tinh thần nữa. Những năm quê tôi bị cảnh binh đao, đa phần con em ở trong vùng đều bị thất học ; thế nhưng bà vẫn tìm cách cho tôi có nơi ăn học đàng hoàng. Khi lớn lên, bà đưa tôi lên tỉnh để theo đòi nghiên bút. Vì thế, tôi được một số vốn liếng về học vấn tương đối khả quan so với những thanh thiếu niên ở chốn thị thành.
Những lúc tôi bệnh hoạn, Mẹ tôi phải băng đèo lội suối đến nơi tôi trọ học để theo dõi sự học hành của các con. Tôi được người nuông chiều đủ thứ. Giờ đây, tôi không làm tròn bổn phận của một người con. Tôi cảm thấy tôi bất hiếu. Tập “Bông Hồng cài áo” của thầy Nhất Hạnh, tôi đọc thấy : . . . Mẹ là bầu trời thương yêu dịu ngọt. Gần bên Mẹ được sưởi ấm tất cả. Mẹ là loọng mía ngọt ngào, là nãi chuối buồng cau, là ánh đuốt soi đêm cho người lạc lối. Tình Mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào. Tình Mẹ dài vô tận như mạch suối mát trong nguồn. Tình Mẹ là cái gì của bao dung, của hiền dịu của từ bi…
Gần bên Mẹ là có tất cả. Xa Mẹ là mất hẳn tất cả. Những ai đang ở trong tình cảnh nầy mới thấy rõ một đau thấm thía. Những ai ở trong hoàn cảnh nầy mới âm thầm lặng lẽ khóc một mình mỗi khi nhớ Mẹ.
Hạnh phúc thay cho những ai đang còn Mẹ, đang được sống bên Mẹ. Mùa Vu Lan được cài đóa hoa hồn tươi thắm và hãnh diện mình đang còn Mẹ. Được Mẹ che chở. Và chính đó làm tôi đâm ra suy nghĩ :
Tay nâng một đóa hoa hồng
Cài lên ngực áo mà lòng không vui.
Tại sao vậy ? Tôi cũng cài hoa hồng như mọi người. Vì tôi đang còn Mẹ. Tuy nhiên vui sướng lànm sao được ? Tôi đã xa Mẹ. Xa bà mẹ đã mang nặng đẻ đau để được cái thân tôi nơi cõi đời nầy. Bà đã lo cho tôi đủ điều, dạy dỗ cho tôi nên vóc nên người. Suốt cuộc đời của bà chỉ biết hy sinh cho đàn con. Cái gì ngon ngọt nhất, cái gì ấm áp nhất, bà cũng để dành cho các con. Giờ thì tôi mất hẳn. Bên cạnh đó, tôi lại xa luôn một bà Mẹ chung lớn lao : Bà Mẹ Việt Nam. Một mai khi tôi lìa đời, đi vào lòng đất lạnh cũng không được cái may mắn ở trong lòng đất Mẹ Việt Nam. Đau đớn quá, trời ơi đau đớn lắm !
Đã ra đi rồi, nhìn về quê Mẹ chỉ biết :
- “Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Trông về quê Mẹ, ruột đau chín chìu.”.
Trông về quê Mẹ bằng nữa trái đất. Trông về quê Mẹ bằng sự tưởng tượng trong trí óc. Ở một xứ tây phương nào đó mà tôi sắp đến, không biết rồi có ngõ sau để tôi được chiều chiều ra đứng trông về quê Mẹ ; hay ra đứng ôm lấy sầu đau, buồn tủi một mình ?
Tủi là Mẹ đã già mà không kề cận để hầu hạ, săn sóc, để làm được gì cho Mẹ khi người cần đến. Ra đi rồi, khi Mẹ đau yếu, gối nghiên ai sửa, chén trà ai bưng ?
Tủi là làm con không lo báo đáp được gì trong muôn một công sanh thành dưõng dục lớn lao kia mà đành lòng lặng lẻ ra đi. Gương hiếu hạnh của Lão Lai, của thầy Tử Lộ, của hai mươi bốn gương hiếu hạnh của Lý Văn Phức soạn ra đó, vẫn còn đó ; thế mà tôi không bắt chướt để làm theo.
Hận là bà Mẹ vĩ đại Việt Nam đang bị lũ Cộng Nô dày xéo. Trên năm mươi triệu đứa con của Mẹ sống trong cơ cực, sống tủi nhục, đày đọa đầy hờn căm…Có đứa chết lây chết lất trong các trại tập trung. Có đứa chết bờ chết bụi, chết ở sông biển, chết trong rừng sâu ; đủ thứ chết … khi có những đứa con của Mẹ từ giả Mẹ Việt Nam để đi tìm tự do cho cuộc sống. Tôi ngậm ngùi thương xót cho số phận của bà Mẹ Việt Nam.
Trời ngã về chiều. Hai chiếc kim đồng hồ đã xếp chồng nhau ở con số sáu. Tôi bảo các em tôi hãy về đi để còn lo cho cái tết sắp đến. Các em đồng bảo :
- Thưa thầy…Tôi nghe tiếng chào của chúng bị tắt lịm sau hai chữ thưa thầy. Tôi cũng nghẹn ngào . Chúng tôi nhìn nhau mà không ai chịu rời bước. Chần chờ như thế gần hơn nửa giờ đồng hồ. Cuối cùng tôi thúc hối chúng ra về :
- Các em hãy về đi, chúc các em khỏe, bình an mãi. Các em hãy nhớ làm những gì mà Ba đã dạy, đừng làm cho Mẹ buồn.
- Thầy đi bình an. Thầy đến nơi nhớ thư về để Mẹ và chúng con khỏi trông mong.
Chúng tôi thật sự từ giả nhau. Đó là lần cuối tôi gặp tụi nó để ra đi. Hoàng hôn tiễn biệt anh em chúng tôi từ dạo ấy.
CHIỀU BA MƯƠI TẾT
Bốn giờ chiều, chiều ba mươi tết. Mấy anh em trong nhóm của Quỳnh sẽ đến chùa, hai đứa Phương và Minh cũng nhập cuộc. Lâu và thật lâu, Quỳnh mới có dịp để thăm lại ngôi chùa xưa, một ngôi chùa đơn sơ, mộc mạc, kiến trúc theo lối cổ điển. Ngôi chùa nầy mang một tính chất lịch sử. Vì đây là nơi có tổ chức cho lớp Đại Học Phật Giáo đầu tiên trong những thập niên chấn hưng Phật Giáo tại miền Trung. Vị khai sơn ra ngôi cổ tự nầy là một đại danh tăng. Ngài vừa là sáng lập, vừa là chứng minh Đại Đạo Sư cho hội An Nam Phật Học. Bao nhiêu vị chơn tu thực học, giới đức tinh nghiêm mà sau nầy là những nhà lãnh đạo tài ba tối cao của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, sơ khởi cũng phát xuất từ nơi ngôi cổ tự nầy. Vì chiến trang ngày một khốc liệt, nên lớp đại học Phật Giáo từ từ chuyển qua Tổ Đình Tây Thiên, rồi đưa lên tu viện Kim Sơn thuộc làng Liễu Bảo, quận Hương Trà. Ngôi cổ tự mang tên là Trúc Lâm Đại Thánh tự, được sắc phong của triều Nguyễn. Ngài khai sơn với đạo hiệu là Giác Tiên đại sư.
Đặc biệt trước cổng chùa có đào một cái hồ để thả sen theo hình bản đồ Việt Nam. Hai bên hồ trồng toàn tre và dương liễu. Những du khách đến viếng cảnh nầy, mới dừng chân trước cổng chùa cũng thấy được cảnh Đạo Pháp gắn liền với Dân Tộc.
Quỳnh trong chiếc kính đen thui, tay đang cầm một điếu thuốc đang cháy dang dở, với giọng nói ồ ề như gà trống từ bên ngoài bước vào phòng tôi rất tự nhiên. Sau Quỳnh lại có Ân và Thắng. Bộ đi của Quỳnh cũng chưa xóa hẳn dáng điệu oai hùng của một chàng trai lính Việt Nam Cộng Hòa, mặc dù đã bị Cộng Sãn nhồi sọ một thời gian tại trại tập trung. Nhờ những giọng nói ồ ề của nó cũng đánh tan được một phần nào của bầu không khí đang căng thẳng trong chúng tôi qua ba ngày liền chưa rời được bến. Đã ba ngày liên tiếp chúng tôi đều đứng ngồi không yên.
Tội nghiệp cho Trí, suốt ngày với con ngựa sắt lạch cạch xuôi ngược để kiếm thêm một vài người nữa. Số người đang kiếm thêm nầy để phụ với chúng tôi trong phần dầu nhớt cho chuyến tàu sắp đi xa. Lộ trình từ cửa Thuận An đến Hương Cảng (Hong Kong). Theo như bản đồ và anh tài công cho chúng tôi hay là phải mất hai ngày hai đêm. Số dầu hiện tại tuy không đến nổi phải lo lắng, tuy nhiên, muốn cho chắc ăn, Trí phải tính thêm những trở ngại nếu gặp trường hợp trời xấu.
Trí một mẫu người can đảm, tính toán nhậm lẹ, biết chịu đựng, biết hy sinh cho tổ chức. Trí không phải là tu sĩ, nhưng những năm sống gần thiền môn nên cốt cách điềm đạm, ăn nói khoan dung, một mẫu người vui tính và hòa ái. Phép xả giao của Trí có vẽ người lớn hẳn ra. Anh ta đang theo học chương trình Y Khoa của Đại Học Y Khoa Huế. Là một con người chí hiếu. Cha Mất sớm thờ Mẹ đúng mức của một người con hiếu hạnh. Vì thời cuộc đẩy đưa, anh là người con độc nhất vẫn đành lòng gạt lệ ra đi.
Chiều nay chúng tôi đang vui quanh bên những mẫu thuốc lá, bên những chén trà thơm đượm mùi tường vi, bên bình thuốc lào ; Trí lại phải ngược xuôi để lo cho anh em. Trí đầy lòng vị tha ai ai cũng nể phục.
Sau tháng tư đen, hoàn cảnh cha xa con, vợ chồng xa nhau, anh em kẻ ở người đi, chúng tôi cũng đang ở trong tình trạng nầy. Một tình trạng bi đát. Ra đi không hứa hẹn ngày về. Biết như vậy vẫn ngậm ngùi nuốt lệ, chấp nhận ra đi. Đi về đâu ? Nào ai biết !
Tại sao chúng ta phải ra đi ? Đi để làm gì ? Bao nhiêu câu hỏi, bao nhiêu điều thắc mắc cứ được nhắc lui nhắc tới mãi trong chúng tôi. Mấy anh em nhìn nhau như muốn tìm hiểu một cái gì. Không ai nói lên điều nào cả. Khói thuốc vẫn bay. Bay mãi. Bay về đâu như chúng tôi sắp ra đi.
Không khí đang ngột ngạt. Mọi người trầm tư mặc tưởng. Tôi nhìn lên khung ảnh của chính tôi được treo lên tường một lần cuối trước khi xa nó mãi mãi. Quỳnh vẫn cúi đầu im lặng. Ân với mẫu thuốc đang cháy dở trên tay thủng thỉnh bước ra. Nó thốt lên :
- Chà ông thầy có mấy cây hoa lan đẹp quá nhỉ ?
Chúng tôi cũng đều đứng dậy và bước ra sân một thể.
Ra đến sân, Quỳnh nói huyên thuyên về tuổi học trò của nó cho Phương và Thắng nghe. Tôi cùng với Minh xuống nhà bếp để cắt mấy đòn bánh tét đang còn nóng hổi thơm mùi lá chuối do nó đem từ nhà tới.
Chưa đến Tết mà bánh tét đã sẵn sàng, mới ba mươi tết mà chúng tôi cứ tưởng chừng như xuân đã qua từ bao giờ. Giàn phong lan với những giò Nghinh Xuân khoe màu xanh ngọc tuyệt đẹp. Chậu Thủy Tiên với hai chồi hoa màu trắng ngọc thủy tinh. Tất cả chúng đang chuẩn bị đón giao thừa trong đêm nay. Lúc nầy vấn đề tết đến với chúng tôi hình như không mấy đậm đà. Không còn liên quan với những cái tết vừa qua. Bên tai văng vẳng tiếng người bàn tán về tết. Những chuyện tết và chuyện cuối năm thiên hạ bắt đầu tung ra.
Hai dĩa bánh tét và sáu đôi đũa, một dĩa dưa món làm bằng đu đủ thật ngon lành. Sáu chúng tôi ngồi quanh bàn. Hai người chung một ghế. Và, tôi cùng với Quỳnh laị có dịp ngồi chung với nhau như ngày xưa đã từng chung ghế nhà trường qua các năm của ban Tú Tài.
Mùi bánh tét thơm phức, mùi thơm của một thứ nếp đặc biệt ở một xứ mà người ta gọi là làng Chuồn. Xứ nầy thuộc quận Phú Vang. Nơi nầy cũng có nhiều nhân vật quan liêu và tu sĩ nổi tiếng.
Màu xanh của bánh ảnh hưởng của màu lá chuối. Nhìn bánh hiện tại mà tôi hồi tưởng những lần ăn bánh tét cách đó mấy năm về trước.
Tết 1974. Một cái tết mà tôi đang tại chức ở chùa Báo Ân thuộc bộ tư lệnh quân đoàn I. Toàn dân đang nô nức để chờ đón xuân về, nhà nhà lo mua sắm đủ thứ. Trái lại, những chiến binh của Việt Nam Cộng Hòa lại đang đổ dồn về các tiền đồn để lo canh chừng cho dân chúng được an hưởng thái bình trong ba ngày tết. Nào là những chiến xa chiến cụ được đưa đến những nơi như là Đại Lộc, Quế Sơn. Thật tội nghiệp cho những anh lính chiến, năm cùng tháng tận cũng không được hưởng cảnh đầm ấm bên bếp than hồng với gia đình. Vì nghĩa vụ các anh phải ra đi. Hy sinh lợi riêng để lo cho quốc gia dân tộc. Xe chuyển bánh, một vài anh lính cất cao giọng hát :
“ …Con biết xuân nầy Mẹ chờ, Em trông. Nhưng nếu con về bạn bè thương mong. Bao lớp trai hùng chào xuân chiến trường…”
Một anh khác :
“…Mẹ ơi ! Con xuân nầy vắng nhà…”
Giọng hát không hay, nhưng cảm thấy bùi ngùi xao xuyến làm sao. Những chiếc xe cũng đan tâm chở đoàn trai lính chiến ra biên giới không một lời giả biệt. Xe vẫn chạy. Đàn con yêu của tổ quốc cũng mất dạng sau tiếng im bặt của động cơ. Những cánh thiệp đầu xuân được gởi đi. Nào là xuân hạnh phúc, xuân thanh bình, xuân đoàn tụ…
Hạnh phúc ! Đoàn tụ ! Thanh bình ư! Những danh từ nói lên nghe bùi tai. Nói lên nghe đẹp đẽ. Thực chất có được như vậy không nhỉ ! Tiền tuyến đang bốc mùi lửa hận do Cộng Quân tham tàn gây hấn. Bao lớp trai mang chiến bào ra đi. Ra đi mà không hẹn ngày về. Ra đi để bảo vệ núi sông hay phơi thây ngoài chiến địa ? Bao nhiêu cái chết tất tưởi. Những cái chết của chiều ba mươi tết không được một người lo lắng, chỉ nằm một mình lạnh lẽo, hiu quạnh trên chiếc băng ca, không một thân nhân đón nhận. Có chăng chỉ nhữnh anh lính gác trực từ từ đưa thi thể vào phòng đông lạnh cho xong chuyện. Đợi đến xuân qua mới được báo tin.
Còn đâu nữa những cảnh trông bánh chưng chờ trời sáng. Hay chỉ có ánh hỏa châu thay thế rực sáng cả một vùng trời để tải thương ? Anh lính chiến phải ôm súng gác rừng thâu đêm…
Chiều ba tết năm ấy là thế đó. Một cảnh đau buồn cho thân phận Việt Nam. Một mãnh đất không mấy lớn, không bằng một giải áo so với lục địa Trung Hoa hay tiểu bang Texas, California của Hoa Kỳ ; thế mà không biết bao nhiêu đứa con trai yêu dấu của Mẹ Việt Nam đã tiếp tục nằm xuống để lót đường cho hòa bình, cho độc lập.
Ôi ! Hòa bình ! Ôi Độc lập! Làm sao có thể nói lên những danh từ rỗng tuếch như thế. Trong khi đó hòa đàm tại Ba Lê thì tắt nghẹn, Cộng Quân lại vi phạm ngưng chiến lung tung. Hòa hợp, hòa giải cũng trở thành những màng hài hước trên bàn giấy ?
Hôm nay cũng chiều ba mươi tết, sáu chúng tôi cùng ngồi chung lại với nhau để nói chuyện ra đi. Độc lập ! Hòa bình ! Con em của chúng ta phải ra đi cầm súng để đánh giết những người không thù hận, mà chỉ vì hai chữ chủ nghĩa. Một số lớn con em phải ra đi với danh nghĩa tình nguyện, để cho nhà nước trả nợ ở những vùng quanh năm không thấy được ánh mặt trời, chỉ toàn là băng giá. Bao nhiêu chuyện ra đi được bàn tán xôn xao trong chiều ba mươi tết. Hai chữ ra đi đối với dân tộc Việt Nam bây giờ sao nghe đơn giản, nhưng được chuyển biến dưới nhiều hình thức khác nhau. Có người ra đi bám lấy mạng sống trong gang tấc. Có kẻ ra đi trong tập thể dưới sự hướng dẫn của chế độ, trên tay có trang bị vũ khí.
Mấy chữ hòa bình độc lập như chiêu bài : “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”. Một thứ độc lập, tự do được hiểu theo luận điệu của loài quỷ đỏ vô thần. Tự do không cơm áo. Tự do không tín ngưỡng. Và tự do đi lại phải có giấy phép hẳn hoi…
Độc lập ! một thứ độc lập trong tập thể. Độc lập trong sự cai trị độc đoán một chiều. Độc lập theo khuôn mẫu như những con tàu ngoan ngoãn đi trên những con đường sắt đã được đặt sẵn. Tự do, độc lập hiện tại của xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thế đó.
Chiều ba mươi tết của năm 1978 nầy, chúng tôi cũng bắt đầu từ giả bằng những tiếng cười vui vẻ. Vui vẻ để còn gặp lại nhau trong cùng một chuyến đi. Vui vẻ để rồi những ngày sắp tới sẽ cùng nhau chia xẻ ngọt bùi, những gì sẽ phải đến với chúng tôi. Chúng tôi vui vẻ thật sự.
Anh em ai nấy ra về hết. Sân chùa bây giờ chỉ còn lại mình tôi với mấy chậu hoa lan đang nở rộ trước hiên chùa. Nhìn phong lan đối với tôi bây giờ không mấy thích thú, nhưng rất quyến luyến. Quyến luyến bởi rồi đây không còn tự tay săn sóc nó. Quyến luyến thật nhiều vì không được gặp lại cảnh cũ người xưa. Những bạn bè trong hội phong lan không còn đến cùng với tôi để thưởng ngoạn những giò lan đặc biệt. Xa tất cả, xa luôn cả mái chùa thâm nghiêm và vị Sư Phụ già kính yêu trong suốt hai mươi mấy năm tôi đã trao thân gởi phận để học đạo giải thoát của đấng Chí Tôn. Vì, từ nay tôi không còn những diễm phúc hầu cận bên Người hôm sớm, để được nghe Người giáo huấn những lời vàng ngọc. Không còn được nhìn thấy những gương mặt hiền hòa của Người mỗi ngày đi sớm về trưa. Hình bóng của Người là một trang sử vô giá mà tôi phải học hỏi và tôn thờ. Tôi xa Người, xem như đời tôi mất hẳn một vị cứu tinh. Con xin Người hoan hỷ chấp nhận để con ra đi.
Ra đi để lại quê hương,
Một đường Giáo Hội, một đường tình thâm.
Ra đi lòng những dặn lòng,
Chí tâm tu niệm còn mong ngày về.
Ra đi giữ trọn tình quê,
Dân Tộc, Đạo Pháp nặng nề hai vai.
Làm trai cho đáng nên trai,
Ra đi còn nhớ ngày mai còn về.
Xin người giữ trọn tình quê.
Và, tôi cũng rời chùa vào chiều ba mươi tết. Chung quanh tôi vẫn thản nhiên trong bầu không khí của xuân đang về. Một mình một bóng âm thầm ra đi…
GIẢ TỪ HUẾ ĐÔ
Cũng như mọi khi, tôi phải thức dậy sớm trước 04giờ30’ sáng để lo tụng kinh công phu khuya. Một công việc thông thường mà tôi đã làm cách đây 27 năm về trước. Hiện tại tôi đang làm, và vẫn tiếp tục làm cho mãi mãi về sau. Những ai có tâm đạo nhiệt thành, có tu niệm thì những buổi tụng kinh sớm mai như thế không thể bỏ qua được. Vì mỗi lần không đi tụng kinh được, thấy lòng mình như thiếu sót một cái gì. Suốt ngày hôm đó, con người thấy bần thần không tính được việc gì ra việc gì cả. Tôi cũng đã gặp trường hợp đó qua những lúc bệnh hay những ngày lao động quá sức con người.
Sau khi Cộng Sãn cưỡng chiếm miền Nam, tất cả những Tăng, Ni đều sinh sống qua ngành cày sâu cuốc bẫm. Một ít sống về nghề thủ công. Sở dĩ Tăng, Ni sống theo ngành cày cuốc, là vì đa số chùa chiền ở Huế đều có ruộng đất hương hỏa do các nhà giàu có tâm đạo cúng để hộ tự.
Sẵn ruộng chỉ đem sức ra làm là tiện lợi nhất. Vấn đề làm ruộng trong chế độ Cộng Sãn lại hợp thời trang theo nhãn hiệu : Lao động là vinh quang ! Vinh quang cái gì nổi. Cày thì có, cơm thì không. Cuối cùng cũng chán phèo. Những lúc mệt mỏi như thế, tôi không thể tài nào đi tụng kinh được.
Tuy nhiên cũng thức dậy trước năm giờ. Đó là thói quen kể từ khi tôi hành điệu đến bây giờ. Sau buổi tụng kinh xong, lại có tiết mục uống trà. Trời Huế, nắng cũng như mưa, những ngôi cổ tự ở vùng núi thường có những ngọn gió lành mạnh. Ngọn gió ấy thổi đến đâu thì cái lạnh nó chạy theo đến đó. Ngoài trời càng lạnh thì tách nước trà nóng lại càng giá trị ; mặc dù trà lá lúc nầy không ngon như của Việt Nam Cộng Hòa thuở trước. Nhưng pha trà xong, bao nhiêu tách trà được hâm nóng. Một chiếc hoa Tường Vi vừa hé nở được thả vào bình trà mới chế sau khi đã trán một lần nước sôi cho trà dịu xuống. Một mùi hương nồng đượm hấp dẫn mời gọi những vị uống trà lão luyện cùng những vị mới biết uống trà cũng lấy làm thích thú. Tôi không biết nghệ thuật trà đạo của người Nhật Bổn ra sao. Nhưng thú uống trà “độc ẩm” tại cố Huế thì tuyệt hảo. Những ngôi chùa chung quanh kinh thành Huế, chùa nào cũng có trồng hoa Tường Vi để dùng vào thú uống trà.
Sau hai tách trà ấm bụng. Trên tay còn mang theo một tách nữa to gấp đôi hai tách đầu, vừa đi vừa đưa lên miệng để ngụm những hớp nhỏ. Tay nâng tách trà, mắt đảo quanh giàn phong lan. Bao nhiêu giò lan cao thấp không đều được treo lủng lẳng giữa hai cái sân hình chữ khẩu của chùa. Cái sân nầy chung quanh bao bọc là nhà. Bất cứ từ nhà nào nhìn ra cũng đều được nhìn phong lan cả. Tôi có cả thảy là khoảng tám mươi loại. Đa phần là lan ở miền Trung từ Đà Lạt đến Ba Lòng. Sở dĩ tôi biết đích xác như thế là do đọc và học theo cuốn sách nói về nghệ thuật chơi phong lan của giáo sư Phạm Hoàng Hộ. Ông ta cũng mô tả những lúc cùng đại văn hào Nhất Linh thưởng thức phong lan tại rừng Đà Lạt. Tôi cũng bắt đầu mê phong lan sau ngày giả từ Đà Nẵng. Ngoài những giò lan quốc nội, tôi có thêm khoảng mười hai giò lan ngoại quốc. Tôi có mua lại một giò lan của bộ đội lấy từ dinh của đại tướng Trần Thiện Khiêm. Sau Tháng tư đen, tôi buồn chán tất cả. Giả từ Đà Nẵng trở lại Huế Đô là nơi tôi được sinh ra, lớn lên và học thành người ; nhưng hôm nay tôi cảm thấy xa lạ và buồn nản biết bao. Cũng giòng Hương Giang lững lờ đó, cũng mái chùa thâm nghiêm lịch sử Từ Đàm đó, cũng núi Ngự Bình với những cây thông trụi lá đứng trên chóp cao nhìn xuống và trơ gan cùng tuế nguyệt đó, cũng còn chiếc cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp…Bao nhiêu cô gái nữ sinh Đồng Khánh mà bây giờ là trường Trưng Trắc, không còn có được một chiếc nón bài thơ che nghiên nửa vành làm duyên nữa sau hai buổi đến trường. Giòng Hương Giang vẫn lững lờ trôi, nhưng không còn in bóng của cô gái Huế thiết tha trên cầu bằng những tà áo trắng đượm tình quê hương. Thay vào đó là những chiếc áo bà ba không đồng màu.Con đò đưa khách trước bến Thương Bạc qua lao Thừa Phủ bây giờ mất dạng sau tháng tư buồn. Bao nhiêu cảnh tượng của cố đô Huế giờ chừ như thay đổi hẳn. Tôi là dân Huế, thế nhưng tôi không còn được cái cảm giác rằng : Huế đẹp, Huế mơ, Huế nên thơ…cho dù còn trăng soi giòng Hương, đâu có hồn nhiên như một nhà thơ đã từng ca tụng:
“ …Vườn ai mướt quá xanh như ngọc ?...”
Để có :
“…Lá trúc che ngang mặt chữ điền…”
Tất cả đã đi vào hoang vắng. Huế, bây giờ buồn lắm ai ơi ! Còn đâu nữa giọng hò Nam Ai, Nam Bằng cất lên trong những con thuyền xuôi ngược giòng Hương Giang. Không còn hồi chuông Thiên Mụ ngân dài trong chiều sương. Càng đi quanh Huế bao nhiêu, tôi càng cảm thấy xót xa và đau nhói tận tim gan bấy nhiêu. Càng buồn tôi lại càng đam mê chơi thú phong lan nhiều hơn. Và cũng nhờ đó, tôi có thẻ đánh lừa được những ai cố tình xoi mói về tôi trong những năm tôi đang tại chức trú trì chùa Báo Ân thuộc bộ tư lệnh quân đoàn I, quân khu một I. Tôi thích với phong lan đến độ những tên Cộng Sãn địa phương phải đặt cho tôi một biệt hiệu là “Ông thầy phong lan”. Những ngày sống trên đất Huế, tôi càng thấy thương cho số phận của dân Huế. Huế bây giờ thay đổi hẳn. Nó thay đổi theo cuộc chiến trên hai mươi năm.
Chén trà nóng trên tay chưa vơi đi mấy. Một tiếng chó sủa vang. Tôi ngẩng đầu lên nhìn. Phương với chiếc xe đạp đang từ từ vào sân chùa. Vừa thoáng thấy nó, một tiếng thưa thầy của Phương tiếp theo. Tôi tiếp :
- Có giò lan nào không mà con vào sớm thế ?
Phương đáp :
- Thưa, có chứ. Nhưng chắc là đẹp hơn những giò mà thầy đang có.
- Ở đâu ?
- Ở nhà con ?
- Loại gì ?
- Dạ, Kiều Đàm Thanh màu trắng ngọc. Nhụy mở gà.
Thế rồi, tôi dẫn nó vào phòng cùng uống trà. Hai thầy trò vài lần kéo thuốc lào rồi ra đi.
Hai chúng tôi dẫn nhau lên chào Sư Phụ tôi. Vừa bước vào bàn trà của Sư Phụ, Ngài hỏi nhỏ :
- Chi rứa ? Trong lúc ấy thì Phương đứng mấp mé ở gần cánh cửa.
- Bạch Ôn cho con đi tí việc.
Sư Phụ tôi cũng tiếp theo đó, đứng dậy để ra vườn như mọi khi. Ngài thường đi quanh vườn sau những tuần trà đã ấm bụng. Ngài vừa ra cửa, gặp Phương liền hỏi :
Đi mô mà sớm rứa ?
Phương thưa:
Dạ bạch Ôn, con vào xem phong lan.
Ngài mở một nụ cười hiền hòa và giải thoát làm sao.
Ngài là một trong những vị Hòa thượng danh tiếng không những tại cố đô Huế mà còn là cả miền Nam cũng như toàn Việt Nam trước năm 1954 nữa. Ngài thản nhiên thả bộ ra cửa sau mặc cho chúng tôi tự do.
Hai thầy trò chúng tôi đi quanh giàn phong lan, nhìn những giò lan đâm chồi nẩy lộc thật đẹp. Phải nhìn nhận cốt cách và tên tuổi của phong lan đẹp hơn địa lan (thổ lan) nhiều lắm. Qua câu chuyện nhỏ to chỉ hai thầy trò biết nhau. Phương cho tôi hay là đã gặp được mọi chuyện xong xuôi cho công việc vượt biên.
Phương nói :
Thầy biết Trí không ?
- Trí nào ?
Nó là em rễ của Quỳnh.
Sau một hồi ngẫm nghĩ, tôi mới nhận ra Quỳnh là bạn học của tôi cách đây hơn mười năm về trước. Sau khi tốt nghiệp tú tài, Quỳnh theo đòi đời binh nghiệp. Tôi vào Đà Nẵng làm nghề gõ đầu trẻ.
Gần hai tiếng đồng hồ liền, tôi và Phương nói những chuyện không đâu để tránh sự chú ý của mọi người xung quanh.
Trong những ngày sinh sống dưới chế độ Cộng Sãn, con người thường hay nghi kỵ lẫn nhau, nhìn ai mình cũng đâm ra nghi ngờ, không mấy tin tưởng.Giờ cơm ban mai thường lệ vừa điểm ba tiếng bảng. Phương từ giả. Tôi tiếp tục uống trà vì không ăn buổi sáng cũng đã lâu lắm rồi. Bây giờ cũng thế.
Đúng mười một giờ, tôi lạch cạch chiếc xe đạp xuống thẳng nhà Quỳnh. Khi nầy bây giờ không giống như xưa nữa. Trường Bồ Đề được đổi thành trường Nguyễn Huệ. Tên một vị Hoàng Đế nông dân chất phác nhưng oai hùng, đã từng làm cho trên tám mươi vạn quân nhà Thanh phải thất điên bát đảo. Tôn Sĩ Nghị một kiện tướng của nhà Thanh với một số tùy tùng vùng chạy mà quên cả ấn kiếm. Những tỉnh Quảng Đông, Quảng Châu gần biên giới Việt Nam khi nghe đến oai danh của vị vua nầy cũng phải khiếp sợ. Thế nhưng trường Nguyễn Huệ bây giờ không còn diễm phúc oai hùng đó. Tường phủ rêu xanh. Bao nhiêu vết đạn của cuộc chiến nồi da xáo thịt còn để lại loang lỗ khắp cả sân trường. Một đống gạch vụn trong sân trường còn vẹn như xưa. Nhà Quỳnh ở cạnh đó mà tôi không tài nào nhớ ra được. Một phần sợ công an gát cổng trại giam bên kia đường đối diện với trường trông thấy. Một phần vì sau khi rời ghế nhà trường hơn mười năm, cảnh vật thay đổi khó nhận diện. Muốn vào nhưng không thể đường đột để vào được. Bắt buột phải trở về trong lo lắng. Đi một đoạn tôi vụt suy nghĩ : Nếu như không gặp được Quỳnh làm sao chuyến vượt biên được chu toàn. Tôi đành quay xe trở lại. Lần nầy tôi cố đánh bạo để đi vào. Cũng may mắn làm sao, được gặp cô Thủy em của Quỳnh. Cô ta cất tiếng chào :
- Da, thưa thầy.
- Con là gì của Quỳnh ?
- Dạ em ruột .
Hai thầy trò cùng đi vào nhà. Quỳnh tiếp tôi trong tình bạn học cũ. Tay bắt mặt mừng. Đây là lần đầu tiên chúng tôi lại gặp nhau kể từ khi cùng thôi học. Qua vài hơi thuốc Quỳnh cất giọng nho nhỏ :
- Chú biết không ? Tụi tui sáu đứa, chưa kể mấy đứa em của tui.
Nó tiếp :
- À quên xin lỗi thầy chứ !
- Thầy hay chú gì cũng được. Mình đi tu đâu cần gì danh tướng. Đâu phải vào chùa kiếm chức tước nầy nọ như ở ngoài đời ?
Đi tu là cố diệt trừ tất cả những gì của phàm phu, chúng sanh đang tiếp nhận. Mình phải làm theo những gì mà chư Phật Tổ đã răn dạy. Luôn luôn cố gắng dẹp bỏ những thói hư tật xấu, dẹp bỏ tất cả những tị hiềm bẩn thỉu, ty tiện, để từ đó bước lên cảnh giải thoát cho bản thân và có thể dẫn dắt người khác cùng vào con đường tươi sáng ấy. Có như thế mới xứng đáng là đệ tử của Phật. Và, xứng đáng được Đức Phật cho mấy chữ : “Xuất Trần Thượng Sĩ”.
- Thầy nói vậy, chứ tôi theo ba mẹ tôi lên quy y với ôn Tường Vân đã lâu lắm rồi. Cũng được quý thầy trong môn phái hướng dẫn giáo lý Phật và hướng dẫn nếp sống đạo đức thuần cẩn, cũng cố làm cho bằng được. Tuy thế thỉnh thoảng tôi thấy một số quý thầy lớn có khoa bảng, có chức vị khá cao trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm những điều sai với lời Phật dạy. Thậm chí còn một số thầy lại mang cái ngã “tự tôn” to bằng cái đấu. Chưa mở miệng ra là đã phùng mang trợn mắt. Gặp điều gì hơi không thuận ý mình là đã nổi sân lên gấp cả trăm lần so với Phật tử. Tui hỏi thầy :
- Đi tu là diệt ngã. Trong khi đó, các thầy nếu ai đụng tới là ngã nó trào lên còn hơn chúng tôi nữa, chính mình chưa tu được cho mình thì làm sao đem cái đức ra hóa độ chúng sanh ? Mà theo tôi thì : Chúng sanh thì vô lượng vô biên và nhiều nghiệp chướng khác nhau nữa. Đã thế, không biết quý thầy ấy vô tình hay cố ý lại chia phe chia phái, chia ra nhóm thân sơ, ai quy y với mình thì cho như là thân thuộc. Ai không quy y với mình thì cho là thành phần chống đối. Thử hỏi quý thầy lớn mà như vậy. Làm sao quý thầy nhỏ hơn, quý thầy hậu bối và hàng Phật tử noi theo cho được ?
Quỳnh nói một hơi dài và không kịp thở, tôi mĩm miệng cười và từ từ đáp lại :
Quỳnh, ông bình tĩnh. Thủng thẳng nghe tôi nói. Phật tử thì nhiều mà con Phật thì không có nhiều dù tại gia hay xuất gia. Đức Phật cũng đã từng dạy :
- “ Ngụy tác Sa Môn, tâm phi sa môn” là vậy đó.
Nghĩa là : Hình tướng là một ông thầy tu hay một Phật tử trông ra hiền lành ; nhưng, mang một tâm niệm không phải là ông thầy tu hay một Phật tử chơn chánh. Một vị xuất gia làm đệ tử Phật vào chùa chỉ biết lợi dưỡng riêng tư dưới nhiều hình thức, đem ba tấc lưỡi sáo ngữ ra tung hỏa mù với Phật tử, tín đồ. Một số vì nhẹ dạ hay vì một vài cảm tình riêng tư nào đó rồi cũng bao che nếu họ làm điều bất chánh ; rồi cũng xưng tụng mặc dù họ làm những điều càn dở. Suốt đời họ không làm được một việc cho chính mình, cứ đi cầu cạnh hết người nầy đến người khác. Hết hội Phật Giáo nầy đến hội Phật Giáo khác. Chỉ trông thừa hưởng vào người khác. Bên cạnh đó, cũng có hạng Phật tử mạo danh. Nghĩa là cũng đi chùa, cũng tham gia tổ chức nầy nọ ; trước mặt thì ton hót, khen ngợi, nhưng luôn luôn tìm cách đâm sau lưng quý thầy suốt đời nhiệt tâm vì đạo. Điều dễ hiểu nhất là hạng người cầu danh nầy muốn lái quý thầy theo con đường của mình. Không được thì sanh ra hận thù. Hạng người nầy gọi là “Khẩu Phật mà tâm xà” rất nguy hiểm. Họ chỉ tu hình tướng và đầu môi chót lưỡi, thực chất và bản chất của họ không chịu tu. Ngay cả vấn đề tụng kinh bái sám cũng thế. Đến chùa là tìm cách kết cấu bè phái. Đến giờ tụng kinh thì chuồi tay vào trong túi quần đi quanh chùa nhìn thầy và Phật tử hành lễ.
Tui cũng biết vậy. Mỗi khi tui phàn nàn là ba mẹ tui la lên :
Đó là việc của quý thầy. Đó là việc của người ta mắc gì mà mi nói. Đồ ôn dịch.
Bị ông bà già la cho một trận , nên im lặng, nay gặp thầy, tâm sự cho vui thế thôi, thầy cũng hoan hỷ, đừng giận nghe.
Có chi mô. Tôi chả giận ai bao giờ, ai làm mình nhận thấy đúng thì ủng hộ, tham gia. Ai làm sai, mình từ từ xa lánh. Mình lo chưa xong, làm sao mà lo chuyện bao đồng. Có điều tôi mong muốn làm sao mà mọi người chịu khó vâng theo lời Phật dạy để làm đúng. Không đúng hoàn toàn, nhưng ít ra cũng không đến nổi lợi dụng Phật pháp để chế biến ra một con đường khác. Đó là điều tôi lấy đau lòng .
Tôi vừa giảng giải một vài thắc mắc cho Quỳnh xong, hai chúng tôi lại bắt đầu bàn thảo thêm những công tác sắp đến. Quỳnh cho hay : Sau chuyến đào thoát của Quỳnh ra khỏi trại cải tạo, lại phải đổi tên thành tên Thái. Bên cạnh nó có thêm Ân, Thắng (sĩ quan), Đạt (hạ sĩ quan). Đặt biệt là Đạt. Mấy anh em cho nó cái tên là Đạt lưụ đạn. Anh nầy nằm trong ban ám sát của Phục Quốc Quân tại vùng Đà Lạt. Quỳnh cũng cho tôi hay thêm, tất cả mấy anh em đều có súng hẳn hoi. Nếu cần, cảm thấy không chống cự được, tự sát.
- Thầy thấy sao ?
Tôi trả lời :
- Tôi sao cũng được. Nhưng, tránh sự chống trả càng nhiều càng tốt.
- Đó là cực chẳng đã, thế chẳng đặng đừng.
- Tôi cũng nghĩ như thế.
Hai chúng tôi đồng cười xòa và tiếp tục câu chuyện, uống trà, hút thuốc. Quỳnh đứng dậy gõ nhẹ lên trần nhà vài cái. Một miếng các-tông được sơn cùng màu trần từ từ đưa về một bên. Một anh bạn vừa ốm vừa đen leo xuống khỏi trần nhà với giọng Bắc :
- Chào thầy.
- Chào anh.
Quỳnh giới thiệu :
- Đây là Ân, cùng đi với chúng ta trong chuyến nầy. Trong khi đó nó chỉ tay qua tôi và nói :
- Đây là ông thầy, bạn học cũ của tôi tại Bồ Đề cách đây mười mấy năm về trước.
Cả ba vừa bắt tay nhau, rồi những mẫu thuốc Sa-Pa cũng tiếp tục cháy. Một ông bạn thứ hai mình cao và gầy, tiếp tục từ trần nhà chui xuống, cất giọng miền Nam
- Sẵn thuốc, các ông đốt làm tôi ngột thấy mồ.
- Xạo, muốn xuống thì nói đại cho rồi, bày đặt ngột với ngạt cái gì. Quỳnh tiếp.
Mục giới thiệu lại được tiếp tục một lần nữa. Đến đây Quỳnh cho tôi hay là còn một ông bạn nữa, nhưng phải gởi trú ngụ một chỗ khác. Vì nhà chật, vả lại ông ấy rất khó tính. Hễ không ưa là phang ẩu. Anh em sợ bị bại lộ lung tung nên đành cho ở riêng. Sau một hồi đàm đạo, tôi lại phải trở về chùa để thu xếp cho xong chuyện.
Trời Huế nóng oi ả, mặc dù thời tiết đã chuyển dần sang Xuân.
Gần hai mươi ba tết mà phố xá buồn tênh. Xe cộ qua lại không còn như xưa. Bao nhiêu Honda làm nghề xe ôm cũng dẹp bớt dần. Đường phố toàn là xe đạp và người đi bộ. Trong lúc nầy ai có chiếc xe đạp là một vấn đề quan trọng. Tôi cũng may mắn có được chiếc xe đạp để đi đó đây.
Về đến chùa thì trời vừa nhá nhem tối. Cơm nước xong. Vào phòng, bật đèn, đọc những trang sách như thường lệ trước khi đi ngủ. Tôi có tật đọc sách báo kiểu nầy lâu lắm rồi. Có nhiều lúc đọc để mà đọc, chứ tâm hồn thì để đâu đâu. Tôi còn nhớ một lần, tôi đang đọc cuốn Thủy Hử, một người bạn bên cạnh bất chợt hỏi, tôi trả lời chẳng đúng ý của trang sách. Người bạn cười ngây ngất và chọc quê tôi rằng :
- Rứa mà cũng bày đặt đọc sách, làm như bộ ta đây là nhà thông thái.
- Ừ, thì cứ đọc cho có đọc. Còn hiểu là một chuyện khác.
Vì thói quen nên trước khi đi ngủ, tôi thường có đọc một vài trang sách hay báo mà không cần tìm hiểu hay suy nghĩ, miễn sao ru được giấc ngủ là được. Tuy nhiên, tối nay lại khác hẳn. Tôi đã không đọc sách mà nằm suy nghĩ vẫn vơ. Làm thế nào để thưa chuyện với Sư Phụ bây giờ. Nếu thưa sớm thì Tăng chúng biết. Nếu thưa khuya thì đánh thức Sư Phụ dậy, phá giấc ngủ của Ngài, thì tổn phước biết bao !!
Tôi nằm suy nghĩ miên man gần đến ba giờ sáng mới thiu thiu ngủ. Giấc ngủ vừa được yên lặng. Ba hồi bảo chúng thỉnh chư Tăng thức giấc để chuẩn bị tụng kinh. Tôi cũng thức giấc, hai con mắt cay như bị ai đem ớt bôi vào. Mắt nhắm mắt mở, chân cao chân thấp đi làm những việc vệ sinh cá nhân. Rồi một ấm trà nóng như mọi khi được chế sẵn do một chú tiểu giúp đỡ tôi. Uống xong, tôi đắp y hậu nhưng không đi tụng kinh như thường lệ. Trong chúng anh em đợi tôi. Một chú tiểu chạy xuống nói :
- Thưa thầy, thỉnh thầy đi tụng kinh.
- Chú vô thưa với chúng, thầy có Phật sự, xin vắng mặt hôm nay.
Đại chúng vừa cử bài tán hương cúng dường Phật, tôi cũng bắt đầu đi vào bàn nước của Sư Phụ tôi. Ngài hỏi :
- Có chuyện chi không ?
Tôi ấp úng, không trả lời được. hai hàng nước mắt cứ chảy dài trên gò má. Ngài hỏi tiếp :
- Có chi cho tui hay, sao lại khóc ?
Tôi không tài nào cầm nổi nước mắt trong lúc nầy để bình tĩnh và trả lời cùng Sư Phụ tôi được. Trên chánh điện, Tăng chúng đã tán xong bài cúng hương mà tôi vẫn còn khóc.
Vừa đến câu :
- “Diệu Trạm tổng trì bất động tôn…”
Tôi sụp lạy thầy tôi một lạy, quỳ xuống, chấp hai tay ngang ngực và thưa tiếng được tiếng mất làm thầy tôi nghe cũng không rõ. Sau những lần lấy lại bình tĩnh, tôi liền thưa :
- Kính bạch Ôn.
Ở Huế, trong các chùa chữ Ôn nghe thanh tao, đẹp đẽ, dễ mến và giải thoát đối với những vị Hòa thượng. Chữ Ôn đối với quý ngài có một niềm tôn kính vô biên. Hàng Phật tử tại gia hay xuất gia mỗi khi gặp các vị Hòa thượng hay chư vị Thượng tọa lớn tuổi cũng gọi là Ôn cả. Hai ba lần tôi bạch Ôn như thế mà vẫn không nói được những gì tôi muốn nói. Cuối cùng, tôi thưa nhỏ :
- Hôm nay, con xin đảnh lễ Ôn ba lạy gọi là lễ tạ ân sư.
Đến đây, tôi cũng khóc sụt sùi. Và bây giờ hồi tưởng lại những giây phút ấy để viết lên những giòng nầy nước mắt vẫn còn tuôn trào.Ngài hỏi nhỏ :
- Có chuyện chi không ?
- Dạ thưa Ôn ,có.
- Chi rứa ?
- Con xin thành tâm sám hối và đảnh lễ Ôn. Kể từ nay con không còn được hầu cận bên Ôn nữa. Ôn hoan hỷ cho con.
- Chuyện chi ?
- Con sắp vượt biên.
Nghe đến đây, Ngài chắt lưỡi đôi ba lần và cũng nghẹn ngào như tôi vậy. Tôi nói nhỏ một bên tai Ngài rằng :
Con ra đi không vì miếng cơm manh áo. Con ra đi không phải để đua đòi vật chất của một xứ văn minh. Con chỉ ra đi vì cố giữ lại tấm thân trẻ nầy để tiếp tục tu niệm, giữ trọn sứ mạng của một người phát tâm xuất gia. Cố gắng làm sao để khỏi phụ lòng tin tưởng và giáo huấn của Sư Phụ. Con biết rằng : Ngày về lại cố hương của con, nếu được, chắc gì con đã gặp lại hình bóng của Ôn. Có chăng nữa, cũng chỉ là một di ảnh trên bàn thờ lạnh lẽo. Con kính mong Ôn hoan hỷ và tha thứ cho con.
Nói đến đây Tăng chúng cũng vừa tụng xong bài hồi hướng. Một thời công phu khuya vừa chấm dứt. Tôi vẫn còn quỳ bên chân Ngài cho đến lúc trời vừa tảng sáng. Bây giờ, tôi đã chọn sẵn một con đường đi về một nơi nào chưa biết được. Tăng chúng cũng lấy làm ngạc nhiên, không ai hiểu câu chuyện ra sao cả. Sau nầy tôi vắng chùa một tuần, Công an địa phương vào chùa lập thủ tục và cho tăng chúng hay là tôi đã vượt biên. Tôi đã bị bắt trên đoạn đường từ Huế vào Đà Nẵng. Hiện đanng bị giam tại lao Thừa Phủ.
Trong chùa ai cũng lo lắng, chưa biết câu chuyện lành dữ của tôi sẽ ra sao. Một tháng sau, trong chùa nhận thư của tôi từ trại Hong Kong. Và, tôi cũng đã nhận được thư nhà, thư chùa cho hay câu chuyện sai sự thật của Cộng Sãn Việt Nam.
Buổi sáng hôm ấy, sau khi tôi lạy để giả từ Sư Phụ. Ngài cũng không đi ra Giáo hội như thường nhật. Ngài đi vào đi ra nhưng không yên tâm. Phần thì Ngài lo cho thận phận của chính tôi trong những ngày sắp tới. Phần Ngài lo cho chùa sẽ có một biến cố không nhỏ nếu tôi bị bắt. Thân phận của tôi thì không quan trọng, nhưng Cộng Sãn dùng tôi để làm khó dễ Giáo hội và Tăng, Ni trẻ có tâm đạo nhiệt thành, biết hy sinh cho đại cuộc. Nó sẽ dùng những chính sách thâm độc để tìm cách bắt giam những Tăng, Ni trẻ chân tu, thực học ; ngõ hầu triệt hạ những mầm măng của Phật Giáo. Bên cạnh đó, chúng gài vào một số Tăng, Ni tay sai cho chúng để theo dõi Giáo hội.
Ngài cho tôi bốn trăm đồng, nhưng tôi thưa :
- Thưa Ôn con không dung tiền nữa. Đáng lý con phải cúng dường Ôn, nhưng bây giờ con chi tiêu về việc thuốc men, dầu nhớt cho chuyến đi cả rồi. Hai thầy trò tâm sự với nhau suốt cả buổi sáng. Ngài ôn tồn bảo :
- Tôi nghe vượt biên sao chết nhiều quá. Bị bắt cũng nhiều. Ông tính lại, hay đừng đi nữa.
Tôi thưa :
- Con đã nhất quyết từ lâu, chưa tiện thưa lên Ôn. Hôm nay chuẩn bị đâu đó xong xuôi, con mới thưa lên Ôn để Ôn khỏi lo ngại khi con vắng chùa.
Tôi chính thức từ giã Huế Đô từ độ ấy. Bây giờ Huế ra sao nhỉ ? Có ai biết Huế bây giờ xin nhắc lại giùm tôi. Tôi xa Huế đến nay cũng gần năm năm tròn.
Một lần hồi tưởng đến Huế, là một lần tôi chảy nước mắt ràn rụa. Không biết vì động lực nào làm cho tôi chảy nước mắt.
CHỢ CÁ ĐÔNG BA
Tôi vốn được sinh ra, lớn lên và ăn học thành người tại Cố đô Huế.Chợ cá Đông Ba, hình như nó trưởng thành trước tuổi tôi cũng đã lâu lắm rồi.Ngày tôi theo học trường Trung Học Bồ Đề Thành Nội, tôi cùng các bạn đạp xe đạp dạo quanh thành phố, thì tôi đã được thấy nó. Tuy nhiên ngày đó chưa được sạch sẽ và ngăn nắp như bây giờ.Sau nền Cộng Hòa đệ nhị, nó đã được tái thiết lại thật đàng hoàng và khang trang nhiều hơn. Tôi chỉ thấy thế, nhưng chưa một lần được đặt chân vào bên trong của chợ cá. Có chăng, cũng chỉ đứng bên ngoài nhìn vào mà thôi.Hồi còn nhỏ, tôi không quen biết. Khi lớn lên, bắt đầu biết thì tôi lại không vào.
Điều đơn giản và rất dễ hiểu là : Tôi vốn là nhà tu. Ở Huế, nếu chư Phật tử thấy một chú tiểu đi vào chợ cá, họ đã cảm thấy khó chịu lắm. Cho nên những vị tu sĩ ở Huế rất ít vị biết đến chợ cá Đông Ba, hay bất cứ một chợ cá nào khác. Có chăng cũng vạn bất đắc dĩ.
Có thể nói rằng đa phần tu sĩ ở Huế chỉ nghe và thấy chứ không biết gì về bên trong của cái chợ cá nầy.Chợ cá Đông Ba nằm ngay cạnh ngã ba của giòng Hương Giang và sông hàng Bè. Nó rất tịện lợi cho những tàu bè lớn nhỏ di chuyển những hải sản và lâm sản vào chợ rất dễ dàng.Phải nói chợ Đông Ba, mà khu chợ cá là nơi tấp nập hơn các khu khác của chợ.
Những người đi chợ không phải mua những tôm cá hay là những đồ ăn phát xuất từ sông biển cũng phải đi ngang qua đó.Vì hầu hết những ai muốn đi về vùng Đại Lộc và cả quận Hương Điền là đã có tàu thuyền đợi sẵn, miễn đi đúng giờ và đúng bến.
Tôi được biết gần như tường tận về chợ cá nầy hai lần kể từ khi tôi chào đời cho đến bây giờ, ngày từ giả đất Mẹ để tìm tự do; như vậy là trên ba mươi năm.
Lần thứ nhất, vào khoảng tháng Sáu năm 1977, trước khi anh em Kháng chiến Quân chuẩn bị dật đài liệt sĩ đặt trước Phú Văn Lâu và ty thông tin Thừa Thiên ở ngay cầu Trường Tiền.Chúng tôi trong bọn sáu anh em. Cứ hai người làm một công tác khác nhau. Đồng thời, chúng tôi hoạch định thế nào là nội trong ngày hôm ấy phải lo tròn nhiệm vụ mà tổ chức đã giao phó.Cả sáu anh em bàn tính thế nào để tẩu thoát thật nhanh nhẹn
Tôi và Vinh là nhẹ nhất là nhiệm vụ rãi truyền đơn và cờ Việt Nam Cộng Hòa (Tức cờ vàng ba sọc đỏ). Còn hai anh khác bò vào Ty Thông Tin đặt chất nổ, hai vị khác nữa lo nhiệm vụ giật sập đài liệt sĩ.
Đầu hôm bàn định xong xuôi đâu đó, ngày mai thật sớm là bắt tay vào việc.Và, cũng nhờ lần ấy mà tôi được biết bên trong chợ cá Đông Ba.
Giờ nầy ngồi nghĩ lại nó mà thân tôi còn ớn lạnh.
Khi tôi nhận trách nhiệm thả truyền đơn thì anh Con có hỏi
- Thầy có biết bơi không ?
Tôi bật cười và nhanh nhẹn đáp :
- Yên tâm anh đừng có lo. Thầy đã từng tốt nghiệp bằng cứu thủy nạn. Đã từng tập sự làm giám thị hồ bơi Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Sài Gòn hồi năm 1974.
Hai chúng tôi ai cũng biết bơi sành sỏi. Khi chia tay nhau mỗi người một ngã. Tôi bảo :
- Anh ở vùng chợ Vải và khu chợ Trời, còn tôi xuống chợ cá.
Mờ mờ sáng, tôi đạp xe đạp từ chùa về, qua cầu Trường Tiền, đến đại lộ Trần Hưng Đạo; rồi thẳng tuốt vào chùa Diệu Đế thật thản nhiên xem như không có điều gì đáng lo ngại.
- Loài hoa nầy tôi nghiên cứu từ lâu, nhưng chưa được toại ý. Mấy bữa nay tôi đổi cho nó một giò Ý Thảo, mới có được nó.
Hai cô cùng cười và nói :
- Thầy thiệt hết sức nói.
Tôi vẫn cười và vẫn thản nhiên từ giả.
Suốt gần cả tám tiếng đồng hồ liền mà cả sáu anh em trong bọn không ai làm được tích sự gì. Nản chí,chúng tôi trở lại nhà vì đã có hẹn trước.
Cuối cùng đi không cũng phải về không.
Về đến nhà, anh Con hằng hộc :
- Các bạn làm ăn như rứa,còn khuya mới làm được.
Anh tiếp :
- Chuyến mấy đứa tui ra Đông Hà giật ga xe lửa và bót công an nhanh như chớp. Có đánh lẹ rút lanh mới mong trị tụi nầy một phen.
Nói đến đây, anh lại nhìn tôi, cười cười nói nói:
- Còn thầy là nhẹ nhất. Sao không đi cho sớm, hay tối hơn một chút mới thả được. Vì khu ấy người đông khó thả, nhưng lẫn trốn lại dễ dàng hơn cả.Còn thầy để trưa trợt như ri thì không xong.
Nghe qua lời anh, phải đi bộ trở về chùa để lấy xe.
Trước khi đi,tôi có nói với anh em rằng :
- Nếu tôi thả được hay không, tối nay cũng chưa chắc gặp anh em. Vì tùy theo hoàn cảnh, nếu có lỗi hẹn, anh em cũng đừng trông ngóng .
Mấy anh em cùng cười và đồng trả lời :
- Không sao.Cầu chúc thành công.
Đến chùa lấy xe thì đồng hồ đã chỉ sáu giờ chiều.Trời vẫn còn sáng lắm.
Hai cô ra chào và cho một ly nước dừa. Cô Như Giải hỏi :
- Thưa thầy phong lan đâu không thấy ?
Trước câu hỏi bất ngờ ấy, tôi có phần bối rối. Vì suốt ngày, tâm trí nào có để ý về phong lan, mặc dù tôi đã nổi tiếng về nghệ thuật chơi và nghiên cứu phong lan sau 1976, tại Huế.
Tôi cũng tìm cách nói chữa :
- Chán phèo. Cậu học trò hứa cuội quá. Thưa thật với hai cô, tôi khoái cái màu vàng của Hoàng Phi Điệp. Nhưng thôi, từ từ cũng kiếm được. Hễ mà tôi muốn là trời muốn.
Hai cô cũng tươi cười đáp :
- Ông trạng lúc nào cũng thế.
Danh từ ông trạng là hai sư cô nầy đặt cho tôi cách đây mười mấy năm về trước.Ngày chúng tôi còn nhỏ,cùng đến học tại Phật Học Đường Bảo Quốc kia.
Trời về chiều, màu sẩm của mây cũng bắt đầu phủ một nửa bầu trời.Giả từ hai cô và ra về.
Trên đường trở lại chùa, tôi bắt gặp cậu học trò cũ đã từng theo học với tôi tại Bồ Đề Đà Nẵng. Nay thì không còn học nữa. Nó trở về quê kiếm nghề để giúp đỡ cho mẹ và các em.Vì cha của nó đi cải tạo ở ngoài Bắc.
Cậu học trò tên Tùng chào tôi và nói :
- Con về Hương Điền thăm quê, thầy về quê con chơi một bữa.
Tôi chấp thuận đáp :
- Vâng, thầy đi với con cho vui nhà vui cửa.
Hai thầy trò hý hoáy xuống bến Tàu. Còn hai chiếc tàu độc nhất. Một về Thế Chí, một về Đại Lộc.
Trước khi xuống tàu, tôi bảo nó đi mua một vài bao thuốc để lên tàu cùng hút cho vui. Nó đi rồi,tôi thì đứng tần ngần ra đó với chiếc xe đạp.
Khung cảnh về chiều của chợ cá cũng bắt đầu thưa người dần, nhưng bến tàu vẫn đầy người.Tôi đưa mắt nhìn quanh một lượt.Nhìn vào chợ cá, có gian thì còn người,có gian thì hết hẳn.Tôi bắt đầu lẹ tay khóa chiếc xe đạp lại ở trụ gỗ buộc neo tàu.
Phía sau lưng chợ cá sát bờ Hương Giang, người cũng thưa dần. Trời sẩm tối thêm,thế mà tôi không tài nào cho những truyền đơn đang còn nằm trong bụng tôi tuôn ra được. Mồ hôi ướt đẫm cả người. Phần thì hồi hộp, phần thì lo sợ cậu học trò có thể biết. Cuối cùng tôi đánh bạo đi vào trong,đến tận một gian không có người. Bàn ghế ngổn ngang.Những đống rác được cào lại. Mắt tôi đảo qua đảo lại một hồi. Hai tay vừa run vừa lôi truyền đơn thả ra ngay dưới chân bàn gần hai đống rác. Nhanh như chớp, tôi phóng mình về phía sông Hương. Cũng may, ra đến bến tàu thì cậu học trò cũng vừa đến. Tôi hỏi to:
- Con làm gì mà lâu rứa? Thầy đợi con hoài không thấy, buộc lòng thầy phải đi tìm Tùng đây.
Miệng thì nói rứa, nhưng tâm thần tôi đâu được bình tĩnh như khi gặp nó. Nó trả lời :
- Con mua thuốc Tam Đảo không có, nên mua tạm vài gói Sa Pa.
Tôi nói :
- Thuốc gì cũng được. Miễn có thuốc để hút. Ngồi từ đây về Hương Điền chắc gì bốn gói mầy mà hai thầy trò đã hút đủ.
Bước chân xuống tàu, tim tôi vẫn còn đập mạnh. Một hơi thở phào vẫn chưa nhẹ hẳn bầu không hkí đang đè nặng trong tim tôi. Tàu chạy đến gần cầu Bao Vinh, tâm thần dần dần nhẹ nhỏm. Khói thuốc lúc nầy cũng bắt đầu thả đều đều hòa lẫn theo với khói tàu. Con người cảm thấy khỏa hẳn lên vì đã hoàn thành một phần trách nhiệm mà tổ chức giao phó, mặc dầu chưa được hoàn mãn lắm.
Hai ngày ở Hương Điền về, tôi được bạn bè cho hay là: cách đây hai ngày tại chợ Đông Ba có rãi truyền đơn và cờ vàng ba sọc đỏ. Tôi giả bộ ngơ ngác…..
Lần thứ hai nầy có vẻ lịch sử hơn.
Số là, trong nhóm chúng tôi, người bị bắt mang án tử hình, kẻ đào thoát vô Nam; riêng số phần tôi thì long đong. Đi cũng dở mà ở thì không xong. Đã hai tháng trời, ngày nào tôi cũng đạp xe đạp đi đó đây. Trong khoảng thời gian ấy, một nhóm khác thì đánh đồn bót ở điồ Vọng Cảnh gần lăng Tự Đức. Nhóm khác nữa thì phá nhà máy vôi Long Thọ để ám sát ông giám đốc. Mọi chuyện của an hem Kháng Chiến Quân riêng vùng Huế lập thành tích tới tấp. Tôi đón nhận báo cáo thật sôi nổi. Càng báo cáo, tôi càng hồi hộp, vì, trong sáu a nh em đã bị bắt hết bốn. Anh nào cũng lãnh án tử hình cả. Cũng may, lúc nầy Phương lại đến chơi với tôi rất thân qua nghệ thuật phong lan. Cũng từ đó, tôi và Phương ngõ ý vượt biên.
Số là chúng tôi định vượt biên trước tết 1978. Nhưng vì lý do nầy, lý do khác mãi đến khi ăn tết xong mới đi được.
Đúng hai giờ chiều mồng hai tết, tôi và Ân, từ nhà Quỳnh đi ra. Hai chúng tôi cũng có sung cả. Bước ra khỏi nhà chưa được mười phút, gặp ngay ba tên công an súng ống đầy đủ. Chúng tôi tuần tiểu trước Tiểu Khu Thừa Thiên cũ. Tôi bảo Ân:
- Anh nên đi cách xa tôi mười hoặc mười lăm mét.
Ân cười và đồng ý đi xa. Đến điểm hẹn, tôi lại theo Phương (giờ nầy Phương ở Canada.) Khi hai thầy trò chuẩn bị xuống tàu, Phương chịu trách nhiệm dẫn mấy đứa nhỏ đi trước. Tôi lục tục theo sau. Phương hỏi :
- Thầy có biết bến tàu ở chợ cá không ?
Tôi đáp :
- Biết.
- Vậy thì con xuống trước, con sẽ đợi thầy ở đó. Tôi vâng một tiếng và cách năm phút sau tôi đi theo.
Vừa đến chợ cá, cách đồn công an Đông ba độ mười mét, gặp ngay cô học trò cũ. Cô ta chào và nói:
- Dạ thưa thầy.
Tôi đùa :
- Chào cô học trò cũ, năm mới.
- Mai con lên thầy. Thầy nhớ lì xì cho con năm mới nghe thầy. Nếu con không có quà đầu năm, con bắt đền thầy đó.
Tôi nói nhỏ đủ để nghe:
- Vâng, con lên thăm thầy một chuyến đi. Hai năm rồi, thầy đâu có gặp con. Nhưng nếu không có thầy, thì có thầy Lưu Thanh cũng được.
Nó hỏi đón:
- Rứa thầy đi mô ?
- Thầy đi cúng.
Nó vô tư, bồi thêm một câu không nghĩ ngợi :
- Thầy đi đâu cũng được, nhớ đừng vượt biên nghe thầy!
Lúc ấy, tâm thần tôi bấn loạn cả lên. Hoàn cảnh hồn bất phụ thể của tôi làm tôi ấp úng. Miệng lạt nhách. Mắt hoa lên,chân tay gần như cứng đờ.
Trước giờ vượt biên, hễ thấy bất cứ ai, tôi cũng sợ. Tôi có cảm giác hình như họ đadng theo dõi thì phải. Thấy bất cứ ai, cũng sinh nghi ngờ, mặc dù họ nhìn tôi rất là vô tư. Sau mấy phút lấy lại bình tĩnh và nghiêm trang với giọng nói gần như giáo dục. Tôi bảo:
- Bậy nào. Ai lại vượt biên. Có gì đẹp bằng quê hương mình. Có gì hạnh phúc cho bằng được ở lại nơi chôn nhau cắt rốn. Làm sao chúng ta có thể bỏ Huế được. Huế đẹp, Huế nên thơ, Huế thật mộng mơ. Huế là hình ảnh của dịu hiền, trầm lặng. Bao nhiêu cuộc hưng phế có ảnh hưởng về lịch sử cũng phát xuất từ Huế. Con không thấy sao ? Làm sao mà chúng ta đành lòng bỏ Huế nói riêng và quê hương nói chung để vượt biên cho được.
Ngày còn Việt Nam Cộng Hòa, chính phủ bảo rằng : Huế thân Cộng. Bây giờ chế độ nầy cho Huế là nơi tiếp tay với Mỹ Ngụy. Nhưng theo tôi, tôi thấy sung sướng nhất khi bọn Cộng Sản bảo :
- Huế là tay sai của chế độ cũ.
Tôi công nhận điều đó đúng. Vì, chính tôi đang tiếp tay với anh em Kháng Chiến Quân. Tôi đang có một phần trách nhiệm để giải phóng quê hương. Tôi đang mang tên phản động mà bọn Cộng Sản đang gắn cho.
Tôi trò chuyện với cô học trò cũ hơi lâu. Phương sốt ruột, đi đi, lại lại trong gian hàng của chợ cá nhiều lần.
Từ giả cô học trò, Phương hơi khó chịu :
- Con chờ thầy như muốn điên cả cái đầu. Thầy biết không tàu định để thầy ở lại. Con không đồng ý. Con nói với chủ tàu để tôi lên tìm lại một lần nữa, không xong rồi hãy hay. Hai thầy trò dắt nhau xuống thuyền.
Tôi hỏi ngược lại Phương :
- Con mua bao nhiêu gói thuốc để hút ?
Phương đáp :
- Thầy khỏi lo.Trong túi còn ba gói. Đính mười gói. Mấy đứa nhỏ cất giùm độ mười gói.
Sỡ dĩ tôi hỏi về thuốc hút, là vì hồi đó tôi hút thuốc rất nhiều. Mỗi ngày ít nhất là hai gói.Qua đến xứ Mỹ nầy, tự nhiên tôi không còn thích thú gì mấy về thuốc lá và cà phê nữa.
Chúng tôi đi lần về phía sông Hương. Bước chân xuống thuyền, chủ tàu và mấy em nhỏ đã đợi sẵn từ lâu, tôi hỏi:
- Hồng, Hà, Thủy, Đoan, Châu và Đính có cả chứ ?
Mấy em dạ một tiếng. Chủ tàu từ từ cho thuyền rời bến. Tôi ngoảnh lại nhìn chợ Đông Ba một lần chót. Nhất là chợ cá.
Chợ cá Đông Ba, nơi tập cho tôi làm người hùng phản Cộng Sản. Chợ cá Đông Ba, nơi tôi ghi dấu chân kỷ niệm giã từ đất Mẹ Việt Nam. Và, cũng chính chợ cá nầy đã lưu niệm những gì đẹp đẽ cho kẻ ở người đi. Kẻ ở, anh Con bây giờ đã hóa ra người thiên cổ. Trước đó ba tháng, anh cùng ba người trong nhóm đều bị bắt. Phần anh và các chiến hữu bị xử tử tại Chín Hầm. Nơi nầy cũng đã lưu xứ những trang sử : Ngày xưa quan Pháp dung nơi nầy để làm kho chứa vũ khí đánh dân tộc Việt Nam. Đệ Nhất Cộng Hòa, lãnh chúa miền Trung và đồng đảng của Ngô Đình Cẩn, đại diện cho Ngô Triều dung nơi nầy để làm lao tù cho Tăng, Ni tín đồ Phật Giáo. Và, hiện tại Cộng Sản dung nơi nầy để hành quyết các chiến hữu kháng chiến…..
Anh Con là người hùng để rồi vị quốc vong thân. Hồn thiêng của anh đang bay theo lá cờ đại nghĩa để biểu dương sức sống mãnh liệt của giống nòi.Phần tôi, tôi ươn hèn làm không nên chuyện. Đã cách xa quê hương hàng vạn dặm, sống lênh đênh nơi xứ lạ quê người.
Mỗi lần vọng về cố hương, vọng về quê mẹ Việt Nam yêu dấu, vọng về cố đô Huế thân yêu ngàn năm văn vật, tôi hồi tưởng lại chợ cá Đông Ba…, tôi tự hỏi:
- Chợ cá Đông Ba bây giờ ra sao rồi nhỉ ? Không biết rồi sẽ đến bao giờ tôi mới nhìn lại được chợ cá Đông Ba….
BƯỚC CHÂN XUỐNG THUYỀN
Bốn giờ rưỡi chiều . Mặt trời đã ngã hẳn về Tây. Đường phố bắt đầu sẩm tối. Hai bên đại lộ Trần Hưng Đạo toàn là người. Họ lủ lượt từng đoàn năm bảy hoặc hơn. Họ thi nhau xuôi ngược, nhưng không biết họ sẽ đi về đâu. Những chiếc áo dài đua nhau khoe màu. Vì, hôm nay là ngày mồng tết của năm 1979. Chắc những chiếc áo dài ấy được đem ra khoe màu là của xã hội Việt Nam Cộng Hòa ngày trước còn sót lại.
Mồng một tết mà đường phố khômg có xe cộ nhộn nhịp như ngày còn chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Hầu hết người ta đi bộ hoặc xe đạp. Lâu lâu mới thấy xuất hiện một vài chiếc Honda hay xe lam ba bánh đưa khách hàng chạy một cánh thất thểu đã ngã màu. Những chiếc Honda xuất hiện bây giờ chẳng khác nào như cánh đây hơn ba mươi năm về trước, hồi tôi lên mười ở nhà quê được thấy một chiếc xe hơi có dịp từ tỉnh về. Thành phố Huế bây giờ điêu tàn đế thế.
Bước chân ra khỏi nhà, cúi đầu âm thầm đi một mạch. Được mười phút thì gặp ngay cô học trò cũ chận lại hỏi những câu cắt cớ như đã có lần tôi thuật lại chuyện nầy ở trong đọan nói về chợ cá Đông Ba. Mãi đến năm giờ kém mười, tôi mới theo Phương thẳng đến bờ sông Hương, sau lưng chợ cá. Đến đây đã có thuyền đợi sẵn từ bao giờ.
Anh Tám, vị chủ tàu đưa chúng tôi đi cũng cho máy nổ. Anh ta quay lại hỏi nhỏ vợ :
- Em đã cho các con uống thuốc ngủ chưa ?
Bà vợ đáp :
- Dạ xong xuôi cả rồi. Chúng nó cũng đã ngủ được hơn mười lăm phút.
-Ai còn quên gì nữa không ? Thuyền chạy là không còn trở lại nữa.
Phương nói :
- Thầy thấy mười tám bao thuốc hút có đủ trong đêm nay không ?
Anh Tám bảo dồn chú em nhỏ :
Cậu chạy lên gần cây xăng mua thêm hai loong nhớt. Chiếc thuyền nầy máy hơi cũ, nó uống nhớt chẳng khác nào chúng ta uống nước lạnh.
Cậu bé trả lời :
- Khi nảy em đã chế thêm một loong rưởi rồi. Hiện trong khoang còn hai loong nữa lận.
- Kệ nó, mua thêm đi. Nếu có dư thì vài bữa khác khỏi mua. Chắc gì từ đây đi về dưới đó, mà đi chầm chậm thì hao nhớt lắm, khó có thể đủ được. Mình nên lo liệu trước hay hơn. Đi, đi.
Nói qua nói lại một hồi, rồi cậu bé cũng phải chạy lên bờ mua thêm ba loong nữa.
- Khoan đã, đẩy thuyền ra rồi mới phóng lên chứ;
Anh Tám quay mũi thuyền về phía hạ lưu sông Hương. Đến ngã ba, thuyền được chạy theo con sông Hàng Bè về phía bao Vinh. Anh Tiếp :
- Về đến đồn công an Bao Vinh, chúng ta bốc thêm một số nữa.
Chúng tôi trong nhóm gồm : Phương, Đính, Hồng, Thủy, Hà, Đoan, Châu và Minh cộng thêm chủ gia đình anh chủ tàu gồm bảy người lớn nhỏ.
Chiếc thuyền còn xuôi giòng sông Hàng Bè, nước sông mát và xanh ngắt một màu. Tôi đưa mắt nhìn lên hai bờ sông. Con thuyền lướt ngang qua trước cổng chùa Diệu Đế. Khi thuyền ngang qua đây làm tôi chạnh lòng nhớ lại chuyện xưa.
Hai dãy phố đối diện nhau qua con sông san sát từ cầu Gia Hội đến tận xóm Bao Vinh; dãy phố ở đường Huỳnh Thúc Kháng thì dài hơn, xây cất có vẽ tân thời cao ráo và khang trang hơn nhiều. Trái lại dãy phố ở đường bạch Đằng vừa ngắn lại vừa cổ kính. Nó được chấm dứt ở địa đầu thôn Thế Lại. Tuy nhiên ở phía nầy có một vài nét có dính dáng về sử liệu hơn. Ngôi chùa Diệu Đế chiếm một ngôi đất trong thành phố quá rộng rãi. Những hàng mít cao ngất nghễu. mấy dãy nhãn với cành lá sum sê. Đó là một ngôi quốc tự được xây dựng dưới triều vua Minh Mạng năm thứ ba. Ở Huế có ba ngôi quốc tự : Thiên Mụ, Diệu Đế và Thánh Duyên (tức Túy Vân) hoàn toàn do nhà Nguyễn kiến lập. Những ngôi quốc tự nầy tôi đều có đặt chân đến ít nhất là hai lần. Đặc biệt là chùa Diệu Đế, không những chỉ đến thăm mà còn ở luôn đó suốt cả tuần. Tôi còn nhớ hồi Pháp nạn 1966, ở đây có quàng thi hài của sư cô Thích Nữ Thanh Quang và của Phật tử tên Vân, đoàn sinh của Gia Đình Phật Tử Thành Nội đồng nguyện tự thiêu để bảo vệ chánh pháp. Khi chế độ Nguyễn Cao Kỳ cho đại tá Nguyễn Ngọc Loan đem quân ra Trung đàn áp Phật Giáo, dẹp vụ bàn thờ xuống đường. Cảnh sát Dã Chiến đến chùa Diệu Đế để cưỡng đoạt và đưa những quan tài nầy đi chôn cất, lạ thay cứ mỗi quan tài như vậy có đến hai chục cảnh sát đến khiêng mà vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng họ dung biện pháp lấy dây cáp bằng sắt quấn vào quan tài để kéo bừa lên xe. Đó là một cảnh tượng mà tôi chứng kiến ngay từ đầu đến cuối.
Từ năm 1968-1969, tôi cũng túc trực ở đây để tham gia những cuộc cứu trợ đồng bào sau biến cố tết Mậu Thân và những vụ bão lụt miền Trung. Vì vậy Diệu Đế cũng có ít nhiều kỷ niệm sâu đậm gắn bó với tôi.
Con thuyền nan vẫn chạy dọc theo giòng sông, đến cầu bên nầy là dãy phố Bao Vinh, bên kia là cồn Bãi Dâu ; trước mặt chúng tôi phía bên kia ngã ba của sông là làng Tiên Nộn. Con sông Hàng Bè đến đây lại nhập vào sông Hương. Giòng Hương Giang chảy quanh co, uốn quanh Thành Nội, bao bọc cả Cồn Hến và Bãi Dâu. Vùng nầy có một chuyến đò ba bến, nhưng không nổi tiếng như chuyến đò ba bến ở làng Sình
Cồn Bãi Dâu, dân địa phương trồng toàn đậu phụng, bắp và một ít dưa hấu. Bắp ở đây ngon và mềm như bắp ở Cồn Hến. Cồn Hến là một vùng đối điện với một làng thơ mộng như nhà thơ Hàn Mặc Tử thường nhắc tới. Đó là thôn Vĩ Dạ. Thôn nầy có nhiều văn vật tiếng tăm. Hai vùng nầy thông thương nhau bằng một chiếc cầu. Mỗi đầu cầu có một cái quán nhỏ chuyên bán chè bắp. Dân Huế thường gọi là quán bán chè bắp cồn. Sở dĩ được người ta nhắc nhở hoài là vì, những quán nhỏ nầy là nơi hẹn hò của những cô cậu học sinh khi mới hoặc đã quen nhau. Quán càng đông khách thì chè bắp Cồn Hến càng được nhắc tới và thành ra nổi tiếng.
Nhưng, cồn Bãi Dâu cũng đã gây sóng gió cho dân Huế một thời không ít, nơi đây đã có những tiếng hát ai oán, sầu khổ và tủi hờn.
“…Chiều đi qua Bãi Dâu hát trên những xác người. Tôi đã thấy, tôi đã thấy : Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em…”
Thật ghê tởm và đau khổ làm sao. Ai đã gây ra cơn khủng khiếp nầy ? Mậu Thân, Cộng Sãn đã làm cho cồn Bãi Dâu thành đất bằng nổi sóng. Cồn nầy đã vùi xác không biết bao nhiêu là anh em quân nhân cán chính các cấp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, cùng với một số lớn đồng bào vô tội.
Tôi đã chứng kiến cảnh tượng rùng rợn, hãi hùng nầy. Tôi đã tình nguyện hướng dẫn đồng bào đi tìm xác. Chính tay tôi đã mân mê những chiếc đầu bị đập vỡ sọ còn dính thịt hôi hám được moi từ dưới hầm lên.
Tôi ở lại nơi cồn Bãi Dâu nầy chưa được một tuần mà hai cái nhà mồ chật ních cả đầu lâu, mặc dầu đã có một số lớn được thân nhân đưa đi chôn cất. Cả một vùng đất rộng bao la mà nơi nào cũng có hầm chôn xác. Có những chiếc hầm chôn gần ba lớp người. Không một hầm nào chôn lẻ tẻ một hay hai ba người. Thỉnh thoảng có những hầm chôn ngược hai chân dựng thẳng lên trời. Và, cũng vì thế mà cồn Bãi Dâu bị ghi dấu một vết đen trong trang sử do bọn Cộng Sản xâm lược thực hiện. Và dân Huế đã đặt cho nó một địa danh : Bãi Dâu mồ chôn tập thể. Bãi Dâu ghi dấu tội ác của Cộng Sản tàn bạo. Bãi Dâu không còn là nơi bắp mềm, dưa ngọt như xưa, mà là nơi khơi lại những kinh hoàng của Tết Mậu Thân.
Những ai đã chứng kiến trong những tháng hai, tháng ba của năm 1968 tại cồn nầy thì không thể nào chung sống với Cộng Sản được. Chỉ nhìn hoàn cảnh ở đây cũng đủ để kết luận chế độ Cộng Sản ra sao rồi. Đó là chưa kể đến những nơi như Đại lộ Kinh hoàng 1972…
Tôi đang nghĩ miên mang những sự hãi hùng đang hiện rõ trong trí óc về những thảm trạng của cồn bắp này, thì đồn công an Bao Vinh cũng hiện rõ kế đó trước mắt.
Nhìn lên bờ, nhóm của Quỳnh hướng dẫn đang chia nhau từng tốp năm, tốp ba, bu quanh những bàn bài vụ, tôm cua rùa ếch, nhất lục để đánh. Họ đánh bạc mục đích là tiêu thụ thời giờ để chờ chúng tôi đến đón. Có điều lạ là, ai đánh cũng thắng. Đánh nhỏ thắng nhỏ, đánh lớn thắng lớn. Xuống thuyền không thấy ai thua cả. Một vài vị trong nhóm định cho tiền trở lại, nhưng, sợ chuyện không hay xảy ra. Số tiền nầy về sau chúng tôi góp lại để cho em bé đã đưa chúng tôi từ Huế về đến cửa sông.
Trạm đón thứ hai nhiều hơn trạm trước và toàn là thanh niên thanh nữ. Trong số ấy cũng có nhiều người tôi chưa bao giờ được biết trước.
Thuyền ngừng độ mười phút, anh Tám hô to :
- Các anh định trả cho chúng tôi mỗi người là bao nhiêu ?
Một người trong nhóm nói vọng xuống :
- Mười lăm đồng một đầu người. Chúng tôi chỉ đi đến làng Sình mà thôi.
Hai bên giá cả xong xuôi, đoàn người ấy dắt nhau xuống hết. Cả thảy trong thuyền từ nhỏ đến lớn có khoảng hai chục người. Chiếc thuyền nan quá nhỏ. Chiều dài độ năm mét. Chiều ngang độ mét hai. Số người đi hôm nay đa phần không quen về việc đi thuyền bè, nhưng ai cũng biết lội khá giỏi.
Con thuyền xa bến. Hoàng hôn dần dần kéo màng đen che phủ giòng Hương Giang cùng làng mạc và thị thành mến yêu, nơi chôn nhau cắt rốn của chính chúng tôi. Ngay chính lòng tôi trong lúc nầy cũng có hai tư tưởng chống đối nhau. Một, muốn cho hoàng hôn đến mau để việc ra đi có phần dễ giải hơn ; mặt khác, tôi lại giận giổi hoàng hôn đã che đen nghịt tất cả những hình ảnh thân thương ấy, không cho tôi được ngắm nhìn chúng một lần cuối thật rõ ràng trước khi chào giả biệt.
Thuyền đêm lấp lánh sao trời. Thỉnh thoảng có những chiếc thuyền con khác đi ngược giòng làm cho sóng nước bắn lên tung tóe. Các anh em trong thuyền tránh né những giọt nước làm mất thăng bằng của chiếc thuyền. Một tiếng ào ở bên kia mạn thuyền, tiếp theo đó nước cũng ùa vào. Mọi người đều ướt đẫm như chuột. Những anh em đã quen sống với thuyền bè, bình tĩnh khuyên chúng tôi đừng nhúc nhích. Nói thì nghe vậy, bẩm tính tự nhiên khi thấy nước vào về phần họ, họ lại chồm về phía chúng tội. Cứ chồm qua, rồi chồm lại, con thuyền sẵn đà lắc lư theo nhịp, nước lại có dịp hết tràn vào bên nầy lại vào bên kia. Anh Tám la lớn :
- Ai mô ngồi yên đó. Chịu ướt một tí. Nếu lắc lư hoài thì chìm thuyền rồi sẽ xuống nước cả đám.
Các cô Hồng, Thủy, Hà và Thương-Thương thì mặt mày tái mét, tóc tai lòa xòa vì gió và nước, thấy mà tội nghiệp. Anh Tám ở sau lái nói vọng tới :
- Thăng lấy thùng múc nước, lẹ lên.
Hai chiếc thùng đã thi nhau múc gần mười phút. Nước khô hẳn.Thuyền trở lại trạng thái cân bằng như cũ. Chúng tôi ngồi nhìn nhau, không ai nói câu nào hết. Một vài anh lấy chuyện nước tràn đem ra bàn ra tán vào, cười nói lung tung, anh Tám lại tiếp :
- Vùng nầy xin anh em nói nhỏ chút xíu. Ở đây có bót công an địa phương cũng ác ôn lắm.
Thừa biết thân phận mình, vì, chúng tôi là những kẻ chạy nạn. Những kẻ đi trốn. Chúng tôi đi tìm tự do, bám lấy mạng sống trong gang tấc. Chúng tôi đi tìm tự do trong lén lút.
Đêm về khuya, một tiếng động nhỏ, chúng tôi cũng có thể nghe mồn một. Trời quang mây tạnh. Gió mang theo hơi nước thổi qua chúng tôi thật mát mẻ. Giá như con thuyền nầy chỉ chở độ năm ba người, thì ngọn gió nầy trở nên lạnh. Con thuyền vẫn tiếp tục lướt chậm chậm trên sóng nhẹ của giòng Hương Giang. Giòng sông êm đềm, con thuyền mặc sức xuôi theo giòng trong đêm vắng. Càng về khuya những cảnh vật hai bên bờ chỉ là một dãy bóng đen mờ. Xa xa những ngọn đèn leo lét, khi tỏ khi mờ được chiếu từ những ngôi nhà ở hai bên bờ sông. Giòng sông càng tiến ra biển thì nước càng xanh biếc và lấp lánh như có chất lân tinh vì ảnh hưởng của nước mặn. Cũng được nghe những tiếng sóng của biển đánh ầm ầm từ xa vọng lại. Bắt đầu có vị muối do sương đưa tới mỗi lần đưa lưỡi liếm lên vành môi. Và, chúng tôi biết được là đang ở gần cửa Thuận An.
Thuyền đến cửa sông thì đồng hồ chỉ đúng một giờ sang của ngày mùnh hai tết Kỷ Mùi. Anh Tám cho thuyền dừng lại, tắt máy, thả neo nằm lơ lững giữa giòng nước. Những làn song nhỏ vỗ hai bên mạn thuyền nghe lạch cạch. Thỉnh thoảng có ngọn gió hơi lớn thổi tử cửa Thuận An đến làm nước bắn tung lên chúng tôi. Tôi ngồi nửa trong nửa ngoài của khoang thuyền. Đưa mắt hướng về quận lộ Phú Vang, nơi hải quân của Việt Nam Cộng Hòa trấn đóng năm xưa chỉ còn lưa thưa một vài ngọn đèn điện. Thuyền được đậu cách xa nơi nầy độ vài cây số, cách cửa Thuận An cũng độ ba cây số. Trong nhóm, anh em chỉ nói chuyện thì thầm. Trái lại, các anh đã từng ở vùng nầy, thôi thì nói cười huyên thuyên làm tôi cũng phát ngại. Tôi hỏi :
- Mấy anh nói lớn tiếng như thế, lỡ hai bên bờ có ai nghe làm sao ?
Đầu mũi thuyền vọng lại :
- Thầy yên tâm. Làm sao họ có lỗ tai nghe được trong khoảng hơn cây số ?
- Nhưng, các anh có thấy mấy chiếc thuyền đằng xa ấy kìa, họ cũng có thể nghe.
- Họ cũng tưởng mình đi bủa lưới như họ.
- Tôi thấy có mấy chiếc ghe, xuồng gì đó cũng không xa mình là bao.
- Thầy yên tâm. Thường thường tụi con đi bủa lưới còn la vang làng chuyển xóm, có đâu mà yên lặng như hôm nay.
Đã gần hơn hai giờ sáng. Thuyền nan đi bủa lưới trong cửa biển xuất hiện càng lúc càng đông. Xuồng nào cũng có một ngọn đèn. Họ đua nhau thả lưới cách thuyền chúng tôi độ năm trăm thước.Tôi thì phập phồng lo sợ. Các anh em lại hút thuốc sáng rực cả mui thuyền.
Đồng hồ vừa chỉ đúng ba giờ lém hai mươi, một chiếc thuyền đánh cá to gấp đôi chiếc thuyền mà chúng tôi đang ngồi, lù lù hiện tới. Tàu tắt máy. Thả neo. Dầu nhớt được chuyển qua trước do một chiếc thuyền nan khác giúp đỡ. Mọi người từ từ dìu nhau qua tàu. Những cô nữ sinh thì phải nhờ đến hai ba anh thanh niên, người dắt kẻ kéo mới qua được. Có cô la ơi ới.
- Khoang cái đã. Hai chiếc xa nhau quá vậy, làm sao qua cho được ?
Một anh vừa nói, vừa cười tinh quái :
- Cứ nhắm mắt qua đại. Có rớt xuống nước thì có tụi tui lấy dây kéo lên.
Ai nấy cũng tức cười. Bước qua chiếc tàu thấy người thoải mái hơn, rộng rãi hơn. Nó được trang bị những hai bộ máy. Một bộ là Yanma F10. Một bộ là Afy.
Mọi công chuyện đâu đó xong xuôi. Cuộc khởi hành đúng lúc đồng hồ chỉ ba giờ. Lúc ra cửa, tàu chỉ xử dụng một máy. Ra đến cửa, phía bên trái của chúng tôi là làng Thai Dương Hạ, bên kia là làng Thuận An. Bên phải có một cái đồn tương đối chắc chắn. Có lẻ chiếc đồn nầy được xây cất từ hồi Pháp thuộc. Sau đó, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có xây thêm mấy dãy nhà cao ráo và khang trang dung nơi kiểm soát tàu bè khi ra vào cửa biển. Bây giờ, Cộng Sản vẫn sử dụng y như cũ. Trong và ngoài cửa, lúc nào cũng có hai chiếc tàu túc trực sẵn, với vũ khí trang bị đầy đủ. Anh Cường, vị tài công cho tàu đi sát về phía làng Thái Dương Hạ để tránh né đồn công an. Bên kia đồn, một tên công an cầm đèn phin đi quanh bót gác như có vẻ xem xét.
Phần thì sợ công an thấy, phần bị sóng gió ngoài khơi tạc vào, chiếc tàu bị lệch mũi. Mắc cạn. Một số anh em đã quen biết về tàu bè, nhảy xuống xô ì ạch. Sau một hồi gần nửa tiếng đồng hồ, tàu mới ra khỏi được cửa biển. Trong tàu chuyền đi nầy cả thảy có ba mươi sáu người, chỉ có Ân là Thiên Chúa Giáo, còn hầu hết là Phật Giáo.
Khi chiếc tàu mắc cạn, những anh em đã nhảy xuống lo cho chiếc tàu ; những người còn lại trong tàu, không ai bảo ai, mà ai ai cũng niệm : “Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Ứng Quán THế Âm Bồ Tát” rất đều. Họ niệm liên miên. Họ niệm một cách thành khẩn. Đức tin đến với họ vô cùng quan trọng. Họ chuyên chú niệm mà chiếc tàu ra khỏi cửa biển lúc nào không hay. Có người niệm đến líu lưỡi. Cuối cùng chỉ nghe được hai tiếng : Bồ Tát, Bồ Tát…Con tàu phăng phăng trên sóng mà vẫn còn niệm. Họ niệm rất nhịp nhàng.
Tôi thấy đức tin đối với họ trong lúc nầy sai mà chân thành, sao mà tha thiết đến thế. Tôi suy nghĩ : Nếu như tất cả mọi người trên thế gian nầy vẫn mãi mãi duy trì đức tin của mình như vậy, đều trở về với cuộc sống thánh thiện, đầy lòng nhân từ, chắc hẳn những thảm họa gây ra đau khổ cho nhau cũng phải tiêu diệt.
Từ đó, biến chốn ta bà thành cảnh cực lạc, biến cảnh ngũ trược ác thế thành cảnh thanh lương địa. Và, sẽ không còn cảnh mạnh hiếp yếu, không còn sự bất công của xã hội, làm gì có chuyện ra đi trong đêm vắng để tìm về tự do ? Giá trị của tự do sẽ không mấy quan hệ đối với con người.
Tàu cách xa cửa biển độ chừng hơn một cây số. Hai máy được sử dụng. Trước mặt là một vùng mây nước bao la. Một tiếng thở phào nhẹ nhỏm trong mỗi chúng tôi hòa theo với tiếng sóng ầm ầm của biển cả. Số phận của chúng tôi hoàn toàn phó thác cho anh tài công và con tàu định đoạt.
Thế là hết, Ôi quê hương ! Ôi đạo pháp ! Ôi dân tộc ! Ôi tất cả mến yêu ! Chúng tôi đành gác lại sau lưng.
Chúng tôi chính thức xa Mẹ Việt Nam từ đó.
NHỮNG NGÀY TRÊN BIỂN
Con tàu thật sự ra khơi. Vầng ô đỏ rực cả một góc trời. Trước mắt là một vùng trời biển bao la, bát ngát. Sương mù không dày lắm. Những ngọn sóng bạt đầu từ xa tiến tới như muốn vồ lấy chúng tôi. Ngọn nầy lướt qua, ngọn khác nhào tới. Cứ thế, nối tiếp nhau không ngừng. Anh tài công đã thức trắng đêm, bây giờ cũng rán cố ghì tay lái để cho con tàu được an toàn. Tàu cứ cỡi hết lườn sóng nầy đến lườn sóng khác. Một lần sóng đến thì con tàu lượn qua, lượn lại. Sóng càng đùa giởn với tàu, thì những người trong tàu đua nhau ói mửa lung tung. Họ khạc nhổ, họ ói lên đến độ nước xanh, nước vàng trong bụng đều tuôn ra hết. Gia đình của hai vị chủ tàu ở đằng sau đuôi thì không sao. Nhờ thế những ngày đi trên biển cả, các em nhỏ đều được an toàn. Tôi cũng không hiểu tại sao phía sau đuôi tàu thì không bị lay động như ở giữa và trước mui tàu. Nhờ đó hai bà chủ tàu lo cơm nước chung cho cả tàu được đầy đủ một ngày ba bữa. Có khi ban đêm ngủ không được, cũng nấu thêm cơm để ăn và ngồi chờ trời sáng. Vấn đề cung cấp dầu nhớt cho tàu đã đành, nhưng thuốc hút và cơm nước cũng rất ư là quan trọng. Những người nghiện thuốc, càng thức khuya, càng hút nhiều. Các anh không có việc, khi hút thì cứ ba người một điếu. Tất cả dành dụm để những vị lái tàu có thể hút cho khỏi bị ngủ gục. Một số đã quen với biển cả từ lâu thì không sao. Những người không quen với biển cả cũng còn sót lại vài ba người không, hoặc chưa bị say sóng. Bị say sóng thì nằm la liệt và được đặt cho một danh từ tiếu lâm là : Đã thổi kèn. Những ai sau một lần vượt biên bằng đường biển thì mới chứng kiến được cảnh tượng nầy. Khi đang bị say sóng thì không muốn ăn uống gì hết. Cứ nằm dài ra đó, mặc cho nước biển dội lên thân người.
Đây là lần đầu tiên tôi được ra khỏi hải phận quốc tế. Khi mới bước chân qua con tàu nầy, thấy lòng mừng khôn tả. Vì, tàu đóng bằng gỗ tốt, chắc chắn. Được trang bị những hai máy. Tôi rất yên tâm. Có lẽ đồng cảnh ngộ như tôi đều cùng có một ý nghĩ như vậy cả. Nào ngờ, khi ra giữa lòng đại dương, con tàu tôi đang đi chẳng khác nào chiếc lá tre đang bị giòng thác lũ cuốn trôi. Nếu như không có sự tài tình lèo lái của anh tài công, chắc chắn chúnng tôi sẽ bị chìm lĩm xuống tận đáy biển tự bao giờ. Không thì cũng làm mồi cho lũ cá. Tàu xa bờ độ năm bảy giờ đồng hồ, không thấy gì được nữa. Tất cả đều bình an. Trời vẫn êm, sóng vẫn lặng.
Mờ mờ sáng, vào khoảng tám giờ. Gió từ đâu thổi đến càng lúc càng lớn dần. Sóng nổi lên. Biển động mạnh. Một giòng nước bạt phân đôi giòng nước biển không rõ được xuất phát từ đâu. Con tàu vẫn chạy liên tục. Được mười tám giờ, tàu bị hỏng một máy. Cái máy Afy không còn sử dụng được nữa. Các anh biết sửa máy chút chút như Lộc, hết lau chùi bộ phận nầy, đến lau chùi bộ phận khác. Vinh cầm dây dật máy lia lịa. Máy chỉ kêu vài tiếng lọc cọc rồi thôi. Mệt quá, đều ngồi nghỉ xả hơi. Anh Cường nói :
- Tám thay cho tui đi.
- Tám dồn :
- Vinh hút thuốc xong ra chạy tàu thế, để tui và Lộc coi lại cái máy Afy ra sao.
Vinh bò ra lái tàu thay thế cho Cường. Chúng tôi ai đâu ngồi đó để nhìn, không còn biết gì hơn nữa. Bộ máy Afy được tháo ra lung tung. Lộc bảo :
- Cái cần Xú-páp bị gãy.
Tám nói :
- Kéo hết thùng đồ nghề và phụ tùng ra coi có cái mô cũ, ráp vô chạy đỡ.
Cường vừa đặt lưng xuống ván chưa được mấy phút bị anh em dựng đầu dậy trở lại.
- Cường, bữa hôm có cái xú-páp cũ để mô rồi ?
- Mô trong nớ.
- Tui đổ hết cả thùng ra mà có thấy chi mô ?
- Nó nằm mô đó, chứ chạy đi mô ? Rứa là thằng Vinh để ở nhà rồi chắc…
Lộc vịn màn tàu, lom khom lùi dần ra sau tay lái. Nó và Vinh nói nhỏ to với nhau. Chung quanh độc nhất chỉ còn tiếng sóng liên hồi vỗ vào mạn thuyền nghe ầm ầm. Sóng vẫn to. Biển vẫn động. Tàu còn một máy nên từ từ nên từ len lỏi trên đầu trên đầu sóng thật khó khăn, cực nhọc, chạy hết muốn nổi. Cũng may, bộ máy Yanma F10 được sửa chữa lại trước ngày vượt biên không bao lâu. Lộc trở lại nói :
- Thằng Vinh nó liệng mẹ hết rồi.
Cường la lên :
- Cái thằng, răng liệng nó đi ? Để trong nớ nó có đòi ăn đòi bú chi mô mà liệng đi, lỡ khi mô có chuyện chi bất trắc, đem ra xài tạm. Thằng, thiệt.
Thế là Cường chẵng ngủ ngáy gì ráo, lồm cồm ngồi dậy. Bò đến với anh thợ máy bất đắc dĩ. Đưa mắt đảo quanh. Thấy bộ máy tháo lung tung, để mỗi nơi một bộ phận. Anh chắt lưỡi :
- Xú -páp gãy ra răng, đưa coi.
Lộc vừa đưa vừa bấm đèn pin. Cường cầm cây xú-páp đưa lên đưa xuống rồi thở phào :
- Thôi để Vinh chạy tạm, tui ngủ vài giờ rồi hãy hay.
Mặc dù Vinh là người đã từng theo học lái tàu đi biển hồi mới lên mười bốn, mười lăm tuổi nhưng những lúc sóng to, gió cả như thế nầy thì Vinh cũng rất ít khi được giao cho điều khiển tàu. Rốt cuộc Tám phải thay Vinh.
Con tàu lắc lư. Nhồi lên, nhồi xuống. Các cô các cậu sau một lần bị say sóng mặt mày tái mét, cười hết muốn nổi. Trời vẫn nắng mà chúng tôi đều bị ướt như chuột. Trên nắng dưới nước. Cứ mỗi lần sóng đánh vào mạng tàu nước cứ tiếp tục bắn phủ lên chúng tôi.
Các cô, nhờ có Hồng, khi đi mang theo được mấy tấm ny-lon nên cũng tạm đỡ đôi chút. Vào khoảng mười một giờ rưỡi trưa mồng ba tết, chân vịt của tàu bị trục trặc. Tàu không chạy được. Lúc nầy sóng không lớn lắm. Trời tương đối quang đãng. Các anh phải thả tàu long bong giữa biển. Sóng nước đưa tàu lên xuống theo nhịp nhẹ nhàng như một điệu nhạc. Những lúc tàu chạy, chúng tôi không sao cả. Lạ thay đến lúc tàu buông thả, số người chịu đựng mấy hôm nay lại đua nhau thổi kèn như các cô cậu trong mấy ngày qua. Nước xanh nước vàng cho ra cả. Mặt mày xoay xẩm. Tất cả ai đâu ngồi đó. Tôi cũng vậy. Thấy bầu trời cùng nước biển như quay cuồng, đảo lộn lẫn nhau. Tôi nằm mơ màng trên sàn tàu. Mắt lim dim. Nghe văng vẳng bên tai với tiếng kêu ơi ới.
- Dạ thưa thầy.
Rồi hai, rồi ba, rồi liên tiếp kêu thầy ơi, thầy ơi. Ngẩng đầu dậy như không muốn nổi. Cố rán sức, tôi như nửa ngồi nửa nằm. Toàn thân lắc lư theo con tàu. Đưa mắt nhìn về phía co tiếng kêu. Trí cười nói :
- Thầy say rượu há ? Mấy đứa gọi thầy có chuyện nơi kìa.
- Đứa nào ?
- Hồng hay Hà gì đó.
- Nó gọi có chuyện chi không ? Con qua hỏi thử.
- Trí bò qua hỏi han, trở lại tiếp :
- Thưa thầy. Thầy có dầu gió không ? Nó cần.
- Thầy không có dầu gió. Chỉ có chai dầu xanh nầy thôi.
- Kệ dầu gì cũng được.
Tôi đưa tay vói lấy chai dầu trong cái túi nhỏ. Mò quanh một hồi mà chẳng thấy chai dầu đâu. Tìm hoài chẳng có. Tháo tung những đồ để trong xách cũng chả thấy. Tôi bảo thì thầm một mình :
- Quái lạ, chai dầu hồi sáng mới đem ra dùng, rồi để lại vào đây, bây giờ đi đâu mất.
Trí thấy lâu bèn đến phụ tôi để kiếm cho bằng được. Té ra, khi bị say sóng, tôi dung xong lại để ra ngoài cái túi. Trí lật hai chiếc mền ướt lên, chai dầu nằm ngay dưới cái đầu của Đính. Tôi sợ mất chai dầu lục soan tứ tung, vì cử động liên miên nên cũng hết choáng váng cái đầu. Đưa tay lật đầu Đính lên, lấy chai dầu trao cho Trí để đem cho các cô.
Tôi đưa tay lể lên vầng tráng của Thủy, biểu Minh nặn máu. Minh nặn hoài không thấy máu ra tí nào, nó nói nhảm :
- Thủy ! Sao không thấy máu ra. E xong đi có.
Quỳnh anh cả của Thủy, nghe vậy quay đầu nhìn em, vừa nửa cười vì bản tính ngang tàn của nó ; nhưng nửa lo ngại lại hiện ra trên mặt tiếp sau nụ cười ấy.
Thông thường những bệnh nhân khi chích lể không thấy ra máu, không nghe được tiếng rên la hay máu quá bạc thì hơi nguy hiểm. Đó là lời của những vị thầy lang đầy kinh nghiệm trong nghề của họ. Minh cứ nặn hoài đến độ vầng trán của Thủy tím lịm mà vẫn không thấy máu chảy. Nó nói :
- Hay là thầy chích chưa lủng da ?
- Cứ nặn đi cái đã, tôi bảo thế.
Tiếp tục nặn. Được vài phút thấy rươm rướm chút máu. Nó la lên :
- Có máu rồi, không sao đâu. Máu hơi nhạt, cảm nước rồi đó.
Quỳnh cười to :
- Thằng cha bác sĩ nửa mùa mà cũng làm tui hết hồn.
Cả nhóm phá ra cười theo, sau lưng Hà, Hồng ngồi thút thít. Cô ta hít mũi rồi nói :
- Bôi lên đầu cho nó. Lấy hai tấm ni-lon nầy tủ lên luôn.
Hà tiếp :
- Cái chị Hồng nầy. Chưa chi lo hít hít. Làm em phát sợ.
Tôi ôn tồn :
- Thôi mà có gì đâu.
Độ hai mươi phút, nghe giọng nho nhỏ của Thủy kêu lên :
- Ôi chao nặn đau quá.
Minh nói :
- Khi nảy không la lên cho người ta bớt sợ.
Cả tàu cười hòa theo :
- Nảy giờ kêu Thủy, Thủy, mầy không chịu ơi hởi gì cả. Rứa là tỉnh rồi đó. Chút nữa lấy ít bột và đường khuấy cho nó uống trước khi uống thuốc, vì mấy hôm nay nó không ăn gì hết, uống thuốc nầy bụng đói có hại cho bao tử.
Thủy thở hổn hển, toát mồ hôi ra ướt cả người như tắm. Hồng ngồi bên cạnh lấy khăn lau mồ hôi và thoa thêm dầu cho em.Tất cả đều ngồi nhìn.
Con tàu vẫn còn thả trôi bồng bềnh trên mặt biển. May mắn cho chúng tôi là biển rất êm và không có gió lớn nên tàu không bị trôi dạt. Tôi đi lùi dần vào sau chỗ sửa máy, hỏi :
- Tình trạng ra sao rồi ?
Tám cho hay :
- Vinh mới nhảy xuống lôi cổ cái chong chóng va chân vịt lên. Nảy giờ đục cái đinh vít. Đục hoài chẳng được.
Ngồi bên cạnh, thấy Vinh run lập cập. Vinh hút liên tiếp hai điếu thuốc mà vẫn chưa thấy ấm. Vì, nước quá lạnh, mặt trời cũng không thấy nóng mấy, gió heo mây thổi nhiều nên càng lạnh thêm. Lộc hai tay lấm dầu pha với màu máu loảng ở nơi vết trầy da của tay.
Bốn anh em Tám, Cường, Vinh và Lộc loay hoay với cái chân vịt gần hai tiếng đồng hồ mới xong. Thêm một lần nữa, Vinh phải nhảy xuống biển để ráp lại cái chân vịt cho tàu. Mới nổi lên, Trí và Quỳnh đưa tay kéo lên tàu, Vinh nói :
- Lạnh quá, cho thêm điếu thuốc nữa đi.
Tôi đưa tay rút thuốc, miệng vừa nói vừa giỡn :
- Sao ? Có gặp thu vượt nào không ?
Mấy anh chủ tàu đưa mắt nhìn trân tráo không ai trả lời tôi. Tôi lại tiếp :
- Ít ra cũng cá sòng, cá ngừ chứ ?
Các anh vẫn tiếp tục im lặng. Trí đưa tay bấm mạnh vào vai tôi. Hình như không muốn tôi nói thêm gì nữa. Sau nầy, hai chị vợ của chủ tàu cho hay rằng : Những khi đi biển như thế thì không nên quở, nói như vừa rồi. Rất kiêng cữ. Những người sống theo nghề nầy, họ không thích mình nói gì hết mỗi khi đi chung với tàu của họ. Họ sợ những gì theo niềm tin của họ. Tôi hỏi tại sao. Các chị vẫn trả lời ông bà cha mẹ biểu vậy thì cứ tin vậy. Chính họ cũng không biết tại sao. Nhưng theo họ thì tối kỵ. Tàu chạy gần xế chiều, cơm tối cũng được bắt đầu dọn ra. Những người bị say sóng lúc đầu chẳng muốn ăn uống gì. Chính tôi cũng vậy. Nhưng khi tỉnh táo rồi, ai nấy đều ăn gấp bội. Có nhiều lúc thiếu cơm.
Chúng tôi đã có chủ trương sẵn, mọi thứ cần thiết như gạo, muối, nước thuốc men và kể cả đạn dược, sung ống hẳn hoi. Tàu tuy nhỏ, nhưng đồ dùng tương đối đầy đủ. Sở dĩ chúng tôi có trang bị vũ khí hẳn hoi là vì : Quỳnh, Thắng, Thanh, Ân là những sĩ quan, hạ sĩ quan của quân lực Việt Nam Cộng Hòa đang ở trong trại vượt ngục, rồi vượt biên. Tôi thì liên hệ với anh em Kháng Chiến Quân miền Trung. Nếu đi không lọt, rủi bị bắt, chấp nhận tự xử lấy. Đồng thời cũng để chống trả với số công an ở bót gác Thuận An nếu thấy cần.
Tàu vẫn lướt trên sóng. Trời đầy trăng sao thật sáng sủa. Nước biển mặn đến độ làn sóng đánh vào mạn thuyền là có chất dạ quang lấp lánh. Trời càng tối thì ánh sáng của nước biển càng chiếu sáng bởi chất dạ quang.
Anh em ngồi đấu láo với nhau, hết chuyện nầy đến chuyện nọ. Không có chuyện nào ra chuyện nào. Quỳnh thì kể những ngày ở trong trại tù của Cộng Sãn. Thắng xen vào những sự khổ cực đã bị Cộng Sãn hành hạ. Chung quy cũng là tội ác của Cộng Sãn. Bởi thế chúng tôi nghe được những ai có lem nhem với Cộng Sãn, có ý đồ làm lợi cho Cộng Sãn, chúng tôi chống ra mặt. Chúng tôi chống tới cùng. Chúng tôi đã từng chống tại quê nhà, nhưng thất baị đành buôn tẩu tìm đường thoát thân.
Trời về khuya. Sao trời lấp lánh. Sóng vỗ ầm ầm. Gió lành lạnh. Một số đã ngủ vùi, còn một số thì ngồi gục lên gục xuống, chốc chốc mở miệng nói ơi ới như nói nhảm. Mạnh ai nấy ngủ. Tôi và Phương hai mắt đang chông vào nhau sáng trưng. Hai tôi cùng ngồi cùng nhìn về phía sau lái, anh Cường nói những gì không nghe rõ. Tôi bò dần về phía đằng sau, nhưng không được. Anh em nằm ngổn ngang cả sàn tàu. Đưa chân đạp mạnh vào người Trí. Nó vùng dậy nói ú ớ. Đạp mấy cái nữa mạnh hơn. Trí tỉnh ngủ hỏi :
- Cái chi rứa thầy ?
- Con ra sau lái xem thử anh Cường muốn cái gì. Gió thổi ngược thầy nghe không rõ.
Trí tìm cách bò về đằng sau. Trở lại lật đật gọi dật ngược tất cả những ai còn ngủ. Đứa nào cũng gật gù, chưa tỉnh hẳn Trí la to :
- Liệu hồn mà ngủ. Anh Đạt (Thanh) đâu rồi ? Lấy súng ra.
Quỳnh cười :
- Từ từ cái đã.
- Từ từ gì nữa. Lạc mẹ vô vịnh Bắc Việt rồi.
Lúc nầy vào khoảng tám giờ sáng mồng bốn tết.
Trước mặt là một dãy núi đang lù lù hiện ra mỗi lúc một to thêm. Năm ba chiếc thuyền nan nghèo nàn, mộc mạc với chiếc buồm vải rách, màu sắc không định được. Họ đang đánh cá. Tàu tiến gần họ, Quỳnh đưa tay vịn hỏi lớn :
- Đây là vùng nào ?
Phía bên kia thuyền nan, hai chàng ngư phủ đưa mắt nhìn chầm chập vào chúng tôi. Họ nhìn một hồi rồi lại nhìn nhau mà không nói gì. Hai tay cứ tiếp tục phăng lưới như không có chuyện gì xảy ra. Quỳnh hỏi tiếp :
- Mấy ông ở đâu mà đến đánh cá ở đây ?
Họ cũng nhìn như cũ. Quỳnh tiếp :
Tôi vịn thuyền của họ thật chặt, ông thầy bước qua xem sao ?
Tôi vén áo, nhảy phóc qua bên thuyền họ. Đến gần hỏi :
- Thưa hai bác. Hai bác có ở gần đây không ?
Họ cũng nhìn tôi, rồi nhìn nhau như ban nảy. Cuối cùng tôi nói với Quỳnh :
- Hay là họ người Tàu ?
- Ông thầy viết chữ Nho cho họ xem thử sao.
Tôi biểu anh em đưa bút giấy qua, khổ nỗi giấy không có. Viết không ra mực vì ướt. Loay hoay mãi, tôi lấy cái khăn trắng trong túi ra, đến cái bếp than còn đỏ lấy một miếng. Chờ miếng than vừa tắt. Tôi viết hai chữ Hải Nam và đánh dấu hỏi.
Họ è è gì đó và đưa tay chỉ về phía đằng sau lưng chúng tôi.
Tôi bảo :
- Đúng là Tàu thứ thiệt rồi. Hải Nam đó kìa
Anh em trong tàu la lớn. Mấy đứa nằm ngủ nướng cũng ngồi bật dậy. Tôi nhảy trở lại về tàu. Tàu trực hướng Hải Nam lướt tới. Chạy chưa được nửa giờ, đảo Hải Nam hiện ra trước mắt bằng một hải cảng của hải quân Trung Quốc. Những chiếc tàu tuần tiểu cũng vừa chạy đến. Vì họ chạy quá nhanh, khi đến gần, thắng gấp làn nước về phía chúng tôi làm cho con tàu phải lảo đảo. Anh em trong tàu bàn tính :
Bây giờ chúng ta hãy lấy mảnh vải trắng treo lên làm hiệu và cứ đi vào tự nhiên.
Chiếc tuần phòng cứ đi kè kè sát chúng tôi độ ba trăm mét. Những anh lính hải quân Trung Quốc ra đứng quanh tàu và họ nhìn về phía chúng tôi. Họ chỉ chỏ cười nói huyên thuyên. Tàu chúng tôi vừa cập bến, tôi và Quỳnh nhảy lên bờ. Một anh lính đưa dây ra biểu chúng tôi neo tàu lại và ra hiệu phải ngồi xuống sàn tàu hết.
Hai chúng tôi đồng đi bộ lên đồn hải quân. Độ mười lăm phút sau, họ hỏi chúng tôi, nhưng chúng tôi không hiểu. Họ viết ra giấy, tôi hiểu chữ được chữ mất. Một phần tôi chưa học loại văn mới hiện tại. Một phần khác họ viết chữ quá thảo, đọc không ra. Sau một hồi hai bên cứ ngồi nhìn nhau, cuối cùng họ đưa tới cho chúng tôi một ông thông dịch viên. Ông đọc và viết tiếng Việt khá giỏi. Ông nầy là người Tàu chính thống.
Đàm đạo một hồi, chúng tôi đề nghị xin cho tất cả mọi người trong tàu đều được lên bờ nghỉ ngơi, ăn uống ; vì, ba ngày liền trên tàu, vừa ướt vừa mệt. Họ đồng ý cho lên bờ. Họ đãi một bữa ăn vô cùng thịnh soạn. Tôi được anh em tín nhiệm nhờ làm giao dịch từ đó cho đến lúc đến bờ HongKong.
TRÊN ĐẢO HẢI NAM
Một bữa cơm no nê sau những ngày lênh đênh trên biển. Hải quân ở đảo Hải Nam đang lo chỗ nghỉ ngơi cho chúng tôi. Tôi và Quỳnh tiếp tục làm việc với ban an ninh của đồn Hải quân và anh thông dịch viên. Tôi nhờ thông dịch viên nói hộ rằng :
Tạm thời để cho chúng tôi được nghỉ một vài giờ, sau đó chúng ta tiếp tục làm việc. Vì, suốt hai đêm liền không ngủ. Chiều nay vào khoảng hai giờ, chúng ta sẽ gặp lại nhau.
Một viên sĩ quan nói với thông dịch viên nói với chúng tôi rằng :
- Sáng nay ở trên hải đài có thấy mấy anh bắn mấy phát súng. Chứng tỏ các anh có vũ khí ?
Quỳnh trả lời :
- Vâng.
- Ở đâu các anh có ?
Bây giờ, các anh hãy theo chúng tôi xuống tàu để đem lên, rồi hãy được dẫn giải sau.
Bốn người cùng xuống tàu. Quỳnh đưa cho họ ba cây súng. Tôi một cây. Họ lục lạo khắp nơi nhưng chẳng thấy gì thêm. Chúng tôi mới bảo :
- Hãy lấy thùng thay dầu qua, trong đó còn có thêm một cây và đạn dược nữa.
Chúng tôi phải làm việc với họ thêm hai tiếng tại văn phòng . Những người cùng tàu kẻ sữa soạn nằm ngủ, kẻ lo tắm giặc, làm việc với họ xong hai chúng tôi trở về phòng trọ.
Lên bờ, gió biển thổi mát mẽ hơn khi ở trên tàu. Vừa đặt lưng xuống, tôi ngủ thiếp đi lúc nào chả hay. Có lẻ, những ngày trên biển cả bi tàu và sóng nhồi, vì không quen nên quá mệt.
Cũng ở trong ngày mồng bốn tết. Cả doanh trại hải quân treo đầy những câu chúc tết, những câu đối dán ở hàng cột trước cổng trại, trước cửa của từng nhà một. Câu nào câu nấy viết trên giấy đỏ, mực đen dài lòng thòng bằng chữ Tàu. Tôi đọc chữ được chữ mất ; tuy nhiên cũng làm cho những người lính ở đây nể phục một phần nào. Phòng nào ở xa trại lính chính thức, chúng tôi cũng được biết đến. Trước và trên cửa ra vào đều treo ảnh của Hoa Quốc Phong. Lúc nầy Hoa Quốc Phong đang tại vị, đang là Chủ tịch nhà nước Trung Quốc. Một giấc ngủ ngon lành gần ba tiếng đồng hồ. Thức giấc đã thấy mặt trời ngã về chiều. Ngoài sân, ánh nắng mặt trời đang bắt đầu dịu và nhạt dần. Những người lính trong bộ quân phục chỉnh tề của họ đi quanh lều của chúng tôi đang tạm trú. Họ nhìn các cô thuyền nhân có vẽ đam mê. Mỗi lần đi ngang qua lều, họ đều vẫy tay chào. Các cô phá lên cười. Họ cũng đáp lại bằng những nụ cười.
Tuy thế, dưới chế độ Cộng Sãn, cho dù ở quốc gia nào cũng chẳng mấy được tự do và sung sướng.
Một vài tên lính đứng la cà các cô thiếu nữ thuyền nhân, thì cũng có một vài tên lính khác đuổi đi. Có lẻ là những chính trị viên hay là cán bộ gì đó.
Các cô, các cậu thuyền nhân chỉ biết một câu duy nhất để nói với mấy người lính mỗi khi gặp.
- Nị hụ ma ?
Vừa nói xong, mấy tên lính tưởng là biết tiếng Tàu, chúng làm một hơi loạn xạ. Các cô các cậu cười rân lên và đưa tay vẫy vẫy cho xong chuyện.
Đã đến giờ hẹn với mấy người nói chuyện ban sáng, tôi đến gặp Quỳnh :
- Nầy, mình phải bàn định những gì muốn nói và trả lời thật chính xác trước khi gặp họ. Nếu mỗi người một ý bất nhất nó sẽ sinh nghi. Cộng Sãn thì cái gì cũng nghu. Cái gì cũng dễ sanh chuyện. Rồi việc ra đi tiếp tục của chúng ta sẽ gặp phải khó khăn.
Quỳnh đáp :
- Xong ngay. Tui với thầy ra ngoài thành giếng hút thuốc để bàn.
Hai chúng tôi vừa đi, vừa nhìn về phía cổng của doanh trại. Cổng trại được hướng về phía biển. Khu trại lính rộng mênh mông. Phía biển được xây một bức thành rất kiên cố vừa dày, vừa dài cách nhau khoảng chừng hai chục mét, một pháo đài và một lòng súng quay đầu ra biển. Kỳ thật là nó quay thẳng về bờ biển Việt Bắc của chúng ta thì đúng hơn. Vì, hiện tại Trung Quốc và Việt Nam đang tranh giành ảnh hưởng cũng như đang xung đột dữ dội tại Kampuchia.
Trên những bức thành ấy lại xây những nhà gác trông ra mặt biển thật cao. Mỗi nhà theo tôi ước đoán cũng độ năm đến bảy người ở.
Hải Nam là một vùng cát pha, nhưng nơi đây cũng có những con đường được tráng nhựa đủ cho hai xe chạy ngược chiều nhau. Có lẻ là vùng quân sự, nên tiện nghi lưu thông cần phải tương đối, chắc chắn và bảo đảm để tiện dụng phòng mỗi khi hữu sự. Tôi và Quỳnh chỉ chỏ một hồi. Quỳnh hỏi :
- Thầy tính sao ?
- Nếu nó hỏi mình đi đâu. Chúng ta phải trả lời dứt khoát là đến HongKong tị nạn. Còn nếu nó hỏi : Tại sao bỏ xứ ra đi ? Mình đáp vì chính sách quá hà khắc. Nhà nước Việt Nam bắt chúng tôi qua đánh chiếm Kampuchia. Họ phát súng cho chúng tôi. Chúng tôi không chịu đi, cướp tàu đánh cá ra nước ngoài. Như vậy, vấn đề vũ khí có sẵn trên tàu cũng được giải quyết rất rõ ràng.
Quỳnh gật cái đầu ra vẻ đắc ý. Tôi tiếp :
- Tôi thì vậy đó, còn bạn thì sao ?
- Tui cũng vậy thôi có chi hơn nữa đâu ?
Hai chúng tôi lấy làm đắc ý. Hút thêm một điếu thuốc nữa mới chịu đến văn phòng gặp bọn họ.
Vừa bước đến văn phòng, tên thông dịch viên ra tận cửa đón chúng tôi. Nó nói:
- Chào anh.
Chúng tôi cũng đáp lại :
- Chào anh.
Đồng bắt tay nhau và phân ngôi chủ khách xong. Năm người chúng tôi ngồiquanh một cái bàn gỗ không mấy tốt đẹp. Bốn chân bàn đã lỏng kêu eng éc, đưa qua, đưa lại. Lần gặp nầy có một ngưòi lạ, khác lần trước, có quyền hạn hơn, chức tước cao hơn.
Chúng bắt đầu hỏi tới tấp. Chung quy cũng chỉ là những gì mà chúng tôi đã tiên liệu, dự đoán trưóc khi gặp họ. Hỏi đến đâu đều đuợc trả lời và dẫn giải rành mạch thông suốt đến đó. Khi thì tôi nói, khi thì Quỳnh nói. Tên thông dịch làm việc không ngừng, hết tiếng Việt dịch ra tiếng Tàu, đến lượt ngược tiếng Tàu ra tiếng Việt. Và, nhờ thông dịch viên giỏi tiếng Việt nên đã sớm tạo được bầu không khí va niềm thân mật giữa chúng tôi và họ. Vừa mới thông cảm xong, mời chúng tôi hút những thứ thuốc đặt biệt, có lẻ là dành riêng cho sĩ quan và cán bộ thì phải. Vì Trước đó, mấy người lính cũng cho thuốc để hút nhưng không giống như loại thuốc nầy. Vừa hút chúng tôi vừa nói chuyện qua lại. Hết mẫu thuốc trên tay, viên cao cấp nói :
- Bây giờ các anh phải làm tờ tường thuật để nộp lại cho chúng tôi ; đồng thời, ghi tên của tất cả những thuyền nhân vào đó, kể cả lớn lẫn nhỏ.
Quỳnh nói để nó làm và mình đại diện ký tên. Hai trang giấy nó viết đầy. Nó kể nào là tội ác của Cộng Sãn Việt Nam đem quân sang xâm chiếm Kampuchia, nào là trả thù nhân dân miền Nam Việt Nam… thôi thì đủ thứ. Nhưng mục nguyên do rời Việt Nam và nguyên nhân có vũ khí vẫn là hàng đầu của bản tường trình nầy.
Viết xong. Trao cho tên thông dịch viên, hắn ta đọc đi đọc lại nhiều lần. Y cũng tuần tự dịch lại bằng tiếng Tàu cho cấp chỉ huy của nó nghe. Mấy khuôn mặt hầm hầm lúc ban đầu gặp chúng tôi đã từ đổi giận làm vui. Chúng đưa tay ra bắt. Chúng tôi cũng đáp lại. Chào từ giả và tiển chân chúng tôi ra khỏi cửa văn phòng.
Về đến lều nghỉ chân chưa được mấy phút, tên thông dịch viên đến bảo tiếp :
- Đây là doanh trại quân sự, các anh không thể ở lại. Chúng tôi sẽ đưa các anh đến vùng dân cư. Tàu cững được đưa qua bên ấy.
Hai chiếc xe một giành cho nữ giới, một giành cho nam giới. Thuyền nhân bắt đầu lên xe. Tôi, Phương và một anh tài công theo tên lính xuống bến tàu để đưa tàu đi.
Tàu dừng bến. Ba người cùng theo tên lính nầy để đến nơi được chỉ định nghỉ chân. Đến đây mọi người đã được tề tựu đông đủ. Dân cư trong vùng nầy thấy lạ kéo nhau đến xem thật đông. Già trẻ, gái trai đều có đủ. Một tốp công an địa phương độ năm bảy người đến để giữ trật tự. Điều đặc biệt là từ dân đến quân ai cũng có một cây đèn pin cầm trên tay. Bây giờ là tám giờ tối. Hai dãy nhà có lẻ là khu nội trú hay tổ hợp gì đó, tôi không rõ. Một anh đại điện của dãy nhà ấy trực tiếp điều khiển thuyền nhân. Bên nầy tôi làm đại diện. Anh ta dẫn tôi đi lung tung để chỉ dẫn nơi tạm nghỉ của nam cũng như của nữ. Một số mền mùng tương đối mới từ trong kho được phát ra. Tôi gọi năm anh em trong tàu ôm đi cấp phát cho từng nhà một. Kế đến, tôi cử Phương, Anh và Đính đi trực gác tàu ở dưới bến tàu. Đã gần mười một giờ đêm mà dân chúng dân chúng vẫn còn quanh quẩn các phòng mà chúng tôi tạm trú. Nhiều nhất là trẻ em. Công an khu vực cũng không làm gì được họ. Cuối cùng họ yêu cầu chúng tôi đóng cửa phòng và tắt đèn. Dân chúng ra về hết. Tên trưởng traị khu nầy đến phòng tôi và nói chuyện. Tôi và ông ta chỉ nói được bằng bút đàm. Thỉnh thoảng tôi cũng bập bẹ được một vài câu quan thoại. Đặt biệt, Trung Quốc bây giờ dùng một ngôn ngữ chung. Chúng tôi nói chuyện đến gần ba giờ sáng mới chịu đi ngủ.
Một đêm ấm cúng và an toàn. Mờ sáng khoảng sáu giờ, những chiếc loa phóng thanh được trang bị ở ngã ba, ngã tư đường gọi lớn mời toàn dân thức dậy tập thể dục buổi sáng. Việc làm nầy giống như ở quê nhà sau tháng Tư đen năm 1975, khi Cộng Sãn cưỡng chiếm miền Nam. Chắc Hà Nội đã học thuộc điệu bộ nầy kể từ khi làm tay sai cho Nga-Tàu.
Chúng tôi cũng được ông trại trưởng gõ cửa mời dậy. Tôi và ông ta qua phòng nữ giới để đánh thức họ dậy. Các cô thì cứ nằm yên lặng, không chịu dậy. Ông về phòng. Có một ban lo ăn uống cho chúng tôi rất chu đáo. Bao nhiêu thịt cá được đem ra thết đãi. Mọi người ăn uống ngon lành. Tôi chỉ ăn cơm với muối. Mấy bữa ăn liền đều như vậy cả. Ông trưởng trại ngạc nhiên hỏi ?
- Tại sao anh không dùng đồ ăn ?
Tôi đáp :
- Tôi là tu sĩ Phật Giáo, thuộc tông phái đại thừa. Ăn trường trai.Chỉ dùng những thức ăn như rau cải, dưa muối đậu mè, tàu vị yểu… Không ăn những thức ăn có ảnh hưởng đến mạng sống của súc vật. Kể cả nước mắm và ruốt…Ông ta trố mắt nhìn một hồi, tiếp :
- Anh ăn như vậy bao lâu rồi ?
- Gần ba mươi năm như thế.
Tôi dẫn giải giáo lý cho ông ta nghe. Tôi cũng có hỏi :
- Kể từ khi ông khôn lớn đến bây giờ, ông có nghe Phật Giáo hay không ? Ông đã thấy chùa thờ Phật không ? Ở vùng nầy có chùa không ?
Ông trả lời :
- Tôi cũng có đọc một vài cuốn sách nói về Phật học. Ở đây không có chùa. Nghe đâu vùng lục điạ có, nhưng tôi chưa được thấy. Thỉnh thoảng tôi thấy trên báo chí mà thôi.
- Trong học đường, học sinh có học về môn tôn giáo học không ?
- Không.
Từ đó tôi mới thấy được bản chất và thực chất của người Cộng Sãn là không bao giờ có tín ngưỡng. Họ chỉ biết sinh ra, lớn lên, sinh hoạt như một con vật, hưởng thụ những gì có được, rồi chết. Thế thôi. Tôi cũng tiếp xúc một số cán bộ chức tước tương đối khá hơn, sau một hồi trao đổi, tư tưởng cũng na ná như ông trại trưởng, không hơn không kém.
Tuy nhiên bẩm tính con người vốn thiện. Nên ngoài vấn đề sinh hoạt cộng đồng, đời tư của chính cá nhân họ cũng có một vài cảm tình nho nhỏ. Họ cũng có một cuộc sống tâm linh cho chính họ. Có điều không có hoàn cảnh và điều kiện thuận tiện để phát triển. Chính ông trại trưởng nầy cũng có cảm tình với tôi, với mọi người trong tàu. Do đó, trước khi từ giả nơi nầy để đi tiếp, ông ta lén vẽ một con đường để tàu chúng tôi khỏi bị nguy hiểm về nước xoáy. Đồng thời ông cũng làm một giấy giới thiệu để đi đường. Nhờ thế Tàu chúng tôi không bị trắc trở trên đường băng qua lục địa.
Hai chúng tôi cũng vừa trao đổi một vài món ăn cho thuyền nhân. Một tên khác vào phòng tôi chơi. Mặt mày sáng sủa có vẽ tây học. Ông ta không nói tiếng Tàu ngay. Ông mở miệng :
- “ Who’s speaking English ? ”.
Huỳnh Phan Anh ngồi kế đó, cười và làm một tràng tiếng Anh trở lại với ông.
Họ nói gì đó lung tung cũng không ai để ý tới. Họ nói chuyện với nhau, chốc chốc phá lên cưòi. Anh Tám bước vào nói với Anh rằng :
- Nhờ anh nói với nó, làm sao giúp đỡ cho cái máy Afy để dùng đi.
Hai người nói chuyện trên trời dưới đất một hồi. Anh tiếp :
- Nó đồng ý đưa mình đi sửa, nhưng cách đây mười tám cây số. Ở đó mới có hợp tác xã cơ khí.
Chúng tôi nhìn nhau. Đồng thuận mười giờ rưỡi lên đường. Ra đi gồm có : Tôi, Lộc, Anh, tên cán bộ biết nói tiếnh Anh và ông tài xế. Vì mới mồng năm, mọi người đang còn nghỉ để ăn tết. Các công xưởng đều thưa người. Thợ chuyên môn cũng không có. Cả đi lẫn về mất cả sáu tiếng đồng hồ. Máy cũng không sữa được. Ba chúng tôi ăn cơm trưa, họ ra về.
Nhìn lại dân chúng ở đây so với miền Nam Việt Nam dưới chế độ Cộng Hòa chúng ta chẳng khác nào thiên đàng với địa ngục. Cũng từ đó chúng ta thừa sức suy luận về miền Bắc trong ba mươi năm chiến tranh dưới chế độ Cộng Sãn Việt Nam sẽ ra sao rồi. Trong lúc đó Trung Quốc còn phải tiếp tế giúp đỡ cho Bắc Việt nữa. Người đang sống tập thể trong quần chằm áo vá. Ngày tết cũng chẳng khác gì ngày thường. Chỉ có được năm ba ngày nghỉ lao động sản xuất mà thôi. Những ngôi nhà lá lụp xụp. Chúng tôi được dịp đi sửa máy, được mục kích cảnh sinh hoạt trong một thành phố khá lớn ở đảo Hải Nam. Nhà được xây gạch kế nhau san sát. Cũng có đường phố bằng đất đỏ. Những nơi gọi là thị tứ mới có được một con đường nhựa vừa đủ để cho một chiếc xe chạy. Dân ở đây không có xe bò, xe ngựa như ở Việt Nam. Dùng toàn xe kéo bằng trâu. Tôi cũng không thấy được một chiếc xe hàng hay xe buýt như ở quê nhà. Có chăng chỉ ở những hợp tác xã lớn lao hay ở trong quân đội mới có xe. Điều đăc biệt, ở đảo nầy trong ngày tết, nhà nào cũng có một vài câu đối chữ Tàu, mực đen viết trên trên giấy hồng điều treo trước cửa, ở cột hay ở tường.
Những nơi công cộng dùng để hội họp thì có bàn thờ tổ quốc. Trên bàn thờ có ảnh vị lãnh tụ quá cố và đương thời ngồi ngang nhau, chính quyền sở tại cũng dẫn chúng tôi đến đó để giới thiệu, đồng thời họ cũng gần như bắt buột chúng tôi phải chiêm bái bàn thờ tổ quốc nầy. Trong thế kẹt chẳng đặng đừng, chúng tôi cũng lâm râm như khấn nguyện trước bàn thờ trước khi mang máy đi sửa. Ngày giả từ, chúng tôi cũng phải làm như thế một lần nữa.
Sau buổi cơm chiều vào khoảng sáu giờ rưỡi. Tôi cử Lộc, Trí và Minh đi trực gác tàu. Số còn lại tôi phải mời họp để bàn chuyện đi tiếp. Anh em vừa tụ tập xong tôi nói :
- Đây chỉ là nơi chúng ta tạm dừng chân để nghỉ xả hơi, chứ không phải đích mà chúng ta muốn đến. Vì, nếu không sớm tính, cơ trời xoay chuyển, chúng ta vô phước bị trả về Việt Nam thì nguy mất.
Có một số tán đồng chuyện tôi đề nghị. Có một số nhỏ xin ở lại ít bữa rồi hãy đi tiếp. Tôi tiếp :
Không nên. Vấn đề chính trị quốc tế làm sao chúng ta hiểu được. Chúng ta không thấy, chỉ trong vòng ba mươi ngày, từ Quảng Trị đến Phú Quốc đã rơi vào tay Cộng Sãn một cách trọn vẹn. Để rồi miền Nam : Người vào lý, kẻ chết bờ chết bụi, người còn sống cũng phải gặp cảnh chia ly. Nếu các anh nấng ná, chính quyền Việt Nam thấy dân ra đi quá nhiều, vụ Kampuchia bị hao tốn, họ có thể hòa đàm với nhau. Lúc đó đôi bên bắt tay nhau thương lượng, có thỏa hiệp chung. Chúng ta nguy mất.
Tôi giảng giải đến đây, tất cả mọi người đều tán đồng ngày mồng sáu tết sẽ ra đi. Tôi gặp lại tên trại trưởng, chạy xuống tàu gọi Trí lển để bàn định. Hai chúng tôì nói chuyện với tên trại trưởng một hồi, y cho hay là có ban đại diện của chính quyền sở tại và chính trị viên của hải quân cùng làm việc. Tôi, Quỳnh, Trí, thông dịch viên, trại trưởng, công an khu vực và chính trị viên của hải quân cùng gặp nhau. Về phía họ, thì cho chúng tôi cho biết : Một bữa ăn cho một đầu người là năm đồng. Tính tổng cọng chung tất cả là những gì mà họ đem ra lo chúng tôi mấy ngày ở đây là 780 đồng tiền Trung Quốc. Tên thông dịch viên còn cho hay một đồng ở đây tương đương một đồng ở HongKong. Trong lúc đó, chúng tôi chưa biết gì về giá trị đồng tiền của Hương Cảng ra sao cả. Trí hỏi :
- Tiền ở đây và tiền Việt Nam giá trị ra sao ?
Họ cho biết :
- Một đồng Trung Quốc bằng bốn đồng Việt Nam.
- Như vậy bây giờ chúng tôi không có tiền thì tính sao ? Các ông vui lòng giúp đỡ cho chúng tôi chứ ?
Cãi qua cãi lại một hồi. Họ nhìn nhau và nói bằng tiếng Tàu. Tên thông dịch cho hay :
- Số dầu ngày hôm kia, trại lính hải quân tính 175 đồng. Mấy ngày ăn chính quyền địa phương tính 275 đồng. Tổng cọng là 450 đồng chẳn.
Chúng tôi vẫn kèo nài, Quỳnh tiếp :
- Chúng tôi là những nạn nhân cướp thuyền ra đi, chứ không phải được nhà nước tổ chức cho ra đi như những tàu lớn được đi chính thức. Ngay như những vật dụng cần dùng để tạm sống qua ngày trên biển cả cũng còn chưa đủ, thì làm sao có tiền để nạp cho quý vị ? Quý vị đừng lầm tưởng chúng tôi có vàng có bạc như những kiều bào người Hoa sinh sống tại Việt Nam.
Họ vẫn nhìn nhau và vẫn dùng tiếng Tàu như cũ. Tên chính trị viên và tên công an khu vực cặp mắt thì cứ nhìn đăm đăm những chiếc đồng hồ của Trí và của Quỳnh. Cũng không mấy may mắn cho anh Bé cận, lúc nầy cũng chạy vào, tay lại mang theo đồng hồ. Tên công an biểu tên thông dịch :
- Nếu các anh không có tiền, các anh phải để lại hiện vật như đồng hồ chẳng hạn…
Chúng tôi nhìn nhau một hồi Trí bảo :
- Đồng hồ nầy trị giá bao nhiêu ?
- Ở đây theo giá nhà nước là bảy mươi đồng.
Trí cãi lại :
- Chúng tôi mua từ Nhật Bản đã là ba trăm đô la Mỹ rồi. Thật tình mà nhìn nhận, chiếc đồng hồ của Trí vừa mới lại vừa đẹp. Rất giá trị. Nó cũng nhờ bạn mua từ Nhật. Mấy bộ đội, cán bộ, công an đều rất thèm muốn. Họ tìm bằng mọi cách để lấy cho bằng được. Hai bên cùng cãi quanh co thêm một lần nữa, chung cuộc cũng mất tiêu cả ba chiếc đồng hồ. Trí thâu lại và đưa cho mấy tên cán bộ ấy. Và còn kỳ kèo thêm :
- Ngày mai các anh cho chúng tôi thêm 150Kg dầu và một ít thực phẩm.
Chúng tôi cũng không hiểu tại sao Trung Cộng và Cộng Sãn Việt Nam dùng đơn vị là Kilogram mà không dùng bằng lít khi cân đo nhiên liệu như dầu, xăng nhớt…
- Chúng hứa sẽ làm hài lòng cho chúng tôi trước khi lên đường.
Lấy xong mấy chiếc đồng hồ, bắt tay chào thấy vui vẻ hẳn ra. Hai bên từ giả nhau đúng mười giờ đêm. Tôi xuống phòng trại trưởng để cám ơn ông ta, đồng thời xin thêm một ít thuốc hút để cho anh em dùng trong lúc đi đường, nhất là hai anh tài công và những vị thức khuya để lo cho tàu.
Tôi tiếp chuyện với ông trại trưởng gần hai tiếng đồng hồ liền. Ông ta cũng than vãng về những tình hình bất hảo lem nhem của một số cán bộ mà thời nào cũng có. Ông cũng biết đó là một thói hư tật xấu nhưng cá nhân ông cũng không thể làm gì hơn đuợc. Đành câm nín cho qua chuyện. Ông cũng cho hay :
- Cuộc sống của cá nhân tôi chỉ an phận thủ thường cho qua ngày đoạn tháng. Nếu mình có phát biểu hay trình lên thượng cấp cũng chỉ thế thôi. Đã không có lợi cho mình, cho tổ chức đã đành, vô tình lại rước họa vào thân
Tôi ở đây hai ngày, hai đêm. Tiếp xúc đủ hạng người. Công an khu vực cũng đến la cà để nói chuyện chính (trị) chị, chính em. Điều rất buồn cười : Mặc dù sống dưới chế độ Cộng Sãn từ khi mới mở mắt cho đến khi khôn lớn đã ra làm việc, đã từng theo đảng, có đảng tịch ; khi đến nói với chúng tôi, tôi qua mục tướng số, nói hưu nói vượn một hồi, tuy chữ Tàu không rành mấy, cũng chiếm được cảm tình của mấy ông công an. Cứ sau một lần coi tướng số, chỉ tay cho một người là có hai bao thuốc lá. Tính ra cũng có gần cả thảy tám cây thuốc đủ loại trước khi rời đảo Hải Nam. Đặc biệt chúng tôi không nhận thù lao của ông trại trưởng. Ông ta lại có cảm tình riêng với tôi nên cho hai cây nguyên. Tên công an một cây. Đêm đã về khuya mà người bên tôi vẫn còn đông. Tôi từ chối vì cần phải đi ngủ, ngày mai thức dậy sớm để tiếp tục lên đường. Họ ra về, mấy anh em đến phòng tôi chia thuốc hút, Quỳnh nói :
- Ông thầy, chuyến nầy coi bộ anh em nhờ được. Thầy rán giúp anh em cho đến HongKong trong những lúc xã giao ở các trạm có thể ghé để nghỉ chân.
Tôi cũng cười rồi nói tiếp :
- Thầy biết đại khái vậy, chứ đâu có giỏi gì. Sở dĩ họ tin tôi như vậy, chắc dưới chế độ Cộng Sãn quá hà khắc; nên mọi sinh hoạt riêng tư đều bị cấm ngặt, nhất là vấn đề tâm linh. Hằng ngày chỉ biết tổ hợp với nông trường. Tất cả chỉ đăm đăm vào miếng ăn. Miếng ăn còn chưa no đủ còn thì giờ đâu nữa để thưởng thức những giây phút cho tinh thần. Nay thấy có vẽ lạ lạ, một phần cũng đúng với tâm lý và cuộc đời hiện tại của họ chút chút, nên họ đâm ra tin gắt. Ví như tên công an khu vực đầu tiên khi gặp gỡ chúng ta, cặp mắt cũng khó ưa. Lần hồi thấy chúng ta vui vẻ, hiền hòa nên cũng phải cảm mến. Nếu Trung Quốc không còn chế độ Cộng Sãn hay tương đối tự do, nhất là về tự do tín ngưỡng, tâm linh, tư tưởng, đi lại…Thầy ở lại đây cũng có thể lôi cuốn được một số tín đồ theo thầy.
Nói đến đây Hồng cười :
- Kể ra mấy ông ấy con thấy cũng tội nghiệp đó chứ, ngặt vì họ sống dưới chế độ bị nhồi sọ. Họ nghe sao làm vậy. Thực ra, họ cũng không hiểu rõ con đường họ đang đi nữa.
Đúng thế ngay như Cộng Sãn Việt Nam, nhiều cán bộ lúc đầu nói chuyện, mình cứ tưởng như thông thái lắm. Té ra, học được một mớ kiến thức do cấp trên nhét vào. Đi đến đâu cứ đem ra hâm lui hâm tới miết, thấy chả có gì là xuất sắc. Miệng thì cứ hô to là duy vật biện chứng. Sống thì đầy ắp cả chủ thuyết duy tâm và duy linh.
Nói chuyện cho vui mà đồng hồ đã chỉ điểm ba giờ sáng ngày mồng sáu tết lúc nào không hay. Ai mô về phòng nấy. Đặt lưng xuống giường chưa ngủ thì nghe tiếng gõ cửa lóc cóc. Tôi ngồi dậy, mắt nhắm mắt mở đưa tay hé cửa nhìn ra. Thấy ông trại với chiếc đèn pin bấm sáng. Ông cho tôi hay :
Sáu giờ rồi. Độ năm mười phút nữa anh cho người đi nhận dầu và một tạ gạo.
Tôi liền đi theo lên phòng ông ta. Ông mở kho cho thêm hai cây thuốc nữa. Trở về phòng gọi mọi người dậy để lo những chuyện cần thiết trước khi đi, đồng thời thu xếp lại tất cả những mùng mền, chăn gối để đem lên văn phòng, ký sổ giao trả.
Ai lo phận nấy. Tôi chỉ với một cái xách cỏn con nên không mấy quan tâm. Một chiếc xe Jeep đậu ngay trước phòng trại trưởng. Bốn tên cán bộ bước xuống xe, bắt tay tôi. Lúc nầy có một người Hoa đã từng sinh sống tại Phan Thiết. Ông ta trở về Hải Nam sau 30 tháng 04 năm 1975 cùng với gia đình. Ông cũng cho hay là ông ta cũng đang tìm cách ra khỏi Hải Nam vào một ngày rất gần. Tôi hỏi :
- Tại sao ?
- Thì cũng chẳng sướng gì hơn Việt Nam hiện tại là bao.
- Nhưng, ông cũng được ưu đãi chứ ?
- Lúc mới về thì tương đối. Bây giờ thì phải vào khuôn khổ rồi.
Tôi cười và bảo tiếp ông ta rằng :
- Nếu như ông đang còn ở Việt Nam thì đi dễ dàng hơn. Qua đây rồi chắc khó lắm.
Tôi biết vậy nhưng cũng cố gắng.
- Chúc ông thành công như chúng tôi, nhờ ông nói hộ với mấy ông ấy, là chúng tôi xin cảm tạ sự giúp đỡ cho chúng tôi của chính quyền và nhân dân sở tại.
- Tụi đó biết gì ? Ăn thua mấy tên cao cấp thôi. Đã là Cộng Sãn rồi thì đừng nói gì ân với nghĩa. Ăn được là ăn. Lấy được cứ lấy. Đàn áp được là đàn áp. Chỉ biết rình mò nhau. Chỉ biết tìm kẻ hở để tố khổ nhau. Ngay như anh em ruột thịt mà dưới chế độ Cộng sãn thì cũng vậy thôi.
Ông nói đến đây, tôi xin ngắt lời để hướng dẫn mấy anh em đem mùng mền giao trả. Tất cả thuyền nhân đều tập trung trước sân của hợp tác xã. Chung quanh dân địa phương vây thành vòng tròn dày đặc. Tôi nổi bật vì mặc bộ đồ vàng, đầu đội chiếc mũ gia đình Phật Tử, chân mang một đôi Sa-pô mới kít. Mọi người cứ đổ xô cặp mắt nhìn về nơi tôi. Sở dĩ tôi được chú ý nhiều, một phần biết viết và đọc chút ít chữ Tàu, một phần đầu tôi trọc lóc. Một điều quan trọng nữa là vì tôi ăn chay; những lúc nói chuyện thì thường gặp những ông lớn của địa phương, nên họ có cảm tình và nể vì
Họ tiễn chân chúng tôi ra tận bến tàu. Những vẫy tay của chúng tôi trước hàng trăm cặp mắt đứng nhìn. Dân chúng cũng dành nhiều thiện cảm cho chúng tôi trong những ngày dừng chân.Tàu hướng mũi xuôi về Nam của đảo trong bầu trời xanh nước biếc của biển.
BĂNG QUA LỤC ĐỊA
Con tàu xuôi Nam, quay trở ngược bọc đảo Hải Nam. Giai đoạn đầu đi đến đâu cũng được chính quyền và đân địa phương chào đón và cho ăn uống hẳn hoi. Họ đối xử rât tử tế. Chính nhờ giấy giới thiệu của ông trại trưỏng nơi chúng tôi ghé lần đầu tiên để nghỉ chân, dưỡng sức và sửa chữa máy móc. Con tàu cứ lủi trên đầu sóng, chạy bọc hòn đảo như thế hết hai ngày, hai đêm. Từ giả trại hải quân là tám giờ sáng, ngày mồng sáu tết. Bốn giờ chiều ngày mồng bảy tết tàu chúng tôi đến một làng gần biển. Ở đây tương đối trù phú hơn so với những nơi chúng tôi đã ghé qua. Dân cư đông đúc. Thuyền bè và dụng cụ chài lưới cũng tốt hơn. Tàu dừng bến. Mọi người trên bờ, trơ mắt nhìn về thuyền nhân chòng chọc. Tôi và Phương bước xuống tàu. Lôi vào một đoạn, bị dân chúng phản kháng ngay lập tức. Người cầm chèo kẻ cầm gậy ra vẻ như đàn áp. Tôi đi thẳng đến gặp một vị ăn mặc theo kiểu công an địa phương. Phương đứng tại chỗ và đưa mắt nhìn. Sau một hồi nói chuyện, tên công an dẫn tôi vào sở.
Tôi trình bày hoàn cảng của tàu, đồng thời trình giấy giới thiệu y như những nơi đã ghé. Tôi xin cho thuyền nhân được trọ một đêm trên bãi cát. Mờ mờ sáng sẽ ra đi. Tôi yêu cầu năn nỉ đôi ba lần, tên công an mới chấp nhận.
Tôi và y trở lại tàu. Rồi gọi anh em được xuống tàu và ở tại đây. Tất cả thuyền nhân vừa đưa nhau xuống hết. Tài công neo tàu lại. Một vài tên trong đám ấy hung hăn với tên công an như ra vẻ không muốn cho chúng tôi được tạm trú qua đêm.
Hai bên giằng co mãi. Cuối cùng, y cho hay là nên đi hơn là nên ở.
Tất cả phải lội bộ trở lại tàu và tiếp tục ra đi. Tàu chạy thêm được hai giờ liền. Đến một eo biển tương đối khuất gió. Một bãi cát trắng mịn. Lưa thưa năm bảy chiếc thuyền nan nho nhỏ. Lưới và sáo giăng ngổn ngang. Dừng tàu, thả neo. Mọi người đồng xuống bãi cát. Các cô chung lo cho bữa cơm chiều. Bãi cát được bao bọc bằng một dãy núi cao độ bốn năm trăm mét với cây cối tươi tốt, tưởng chừng như một hoang đảo. Trời nhá nhem tối. Bắt đầu đỏ lửa, thổi cơm. Tôi và Trí chạy đến chận hỏi một vài ngư phủ vừa đi biển về. Chúng tôi hỏi, nhưng họ không trả lời, cúi đầu đi vào chân núi. Nào ngờ sau bữa cơm tối xong; chúng tôi định sinh hoạt quanh đèn vì ánh trăng lưỡi liềm tương đối sáng. Gió biển thổi nhè nhẹ thật mát, thì từ trong dãy núi ấy, một toán lính với sống úng hẳn hoi đi về phía chúng tôi. Tôi một mình phải đi đến với chúng. Sau khi hỏi han đâu vào đấy. Chúng cho biết là phải theo chúng đi vào tạn trụ sở của xã để nói chuyện. Phải đi hết. Không được ai ở lại. Tôi bảo:
- Các ông phải lo cho chúng tôi ở lại một vài người để trông nom tàu và vật dụng.
Chúng đồng ý. Tôi nói Trí, Lộc và Bé ở lại, toàn bộ trai gái, lớn nhỏ lũ lượt theo chúng. Leo lên núi, chạy xuống chân đồi. Băng đồng lội suối như thế gần ba tiếng đồng hồ mới đến đích của họ. Những cô như : Thủy, Hồng bị xỉu liên miên. Hết Minh rồi đến Phương giao phiên thay nhau để cõng. Sức đã yếu mà các cô lại nặng. Cũng may nhờ mấy tên lính cõng hộ. Họ vui vẻ tiếp tay và cõng đến trụ sở xã hay thôn ấp gì đó. Lính tráng đầy đủ. Việc đầu tiên, chúng tìm chỗ cho các cô bị xỉu và đàn bà con nít nghỉ ngơi. Các anh trong thuyền đều đi nghỉ cả. Riêng tôi phải đương đầu với cái tên chính quyền địa phương nầy. Cũng may trong số đó có một người nói tiếng Anh rất thành thạo. Tôi lẹ làng chuyển việc giao dịch qua cho Huỳnh Phan Anh. Bọn chúng chắc đã từng làm tiền một số thuyền nhân trước chúng tôi đã có ghé ở đây thì phải. Ban đầu thấy tương đối dễ thở. Dần dần càng nói chuyện càng thấy ngột ngạt thêm. Chúng bắt buột tàu phải rời bãi. Tôi trình giấy giới thiệu và một vài bằng chứng đã được giúp đỡ của những nơi khác như mãnh giấy vẻ bản đồ chỉ lộ trình. Chúng thâu hết. Chúng điện thoại lung tung. Và, quyết định phải rời bến, ra đi lập tức. Bằng không chúng không bảo đảm an toàn kể cả mạng sống.
Tôi và Anh phải đi từng phòng để đánh thức bà con dậy. Mọi người mắt nhắm mắt mở, đi gục qua gục lại như gà ăn phải bọ xít. Hai cô Hồng và Thủy thì rên như bọng. Một toán lính ban nảy được bổ sung thêm một ít nữa để áp giải chúng tôi ra tận tàu. Tên thông dịch và ba tên cán bộ đồng đi theo.
Chuyến trở lại nầy có vẻ khở cực hơn, một phần vì ngái ngủ, một phần vì mệt. Ra đến bãi, rủi cho chúng tôi là biển động, sóng đánh mỗi lúc mỗi lớn dần. Anh em ở lại giữ tàu cho hay dầu bị đổ đi một ít. Tất cả lên tàu. Hai cô bị xỉu lần lần đưa lên từng ngưòi một. Cứ một cô như thế là phải mất ba người vừa kéo vừa đỡ.
Tàu nổ máy, Anh nói với tên thông dịch :
- Sóng to gió cả như vậy mà các ông đành lòng đuổi chúng tôi phải ra đi sao đành?
Tên thông dịch xoay qua nói gì với cán bộ một hồi.
- Ông trả lời :
- Ở đây không có luật cho người lạ mặt ở lại, kể cả người khác quận.
Ông tiếp :
- Tôi cũng đã hết lòng xin xỏ cho quý vị. Can thiệp đủ điều nhưng không được. Đó là ngoài tầm tay và ý muốn của tôi. Ông thành thật xin lỗi chuyện đáng tiếc nầy. Nguyện cầu ơn trên phù hộ cho quý vị gặp được may mắn.
- Cám ơn ông, xin giả biệt.
Tàu ra đi trong đêm đen với sóng to gió lớn, dưới những cặp mắt cú vọ, đằng đằng sát khí thiếu tình thương của một lớp người đang nhìn về chúng tôi.
Tàu đi đã gần hơn trăm mét mà những ánh đèn pin của chúng theo dõi vẫn chưa tắt. Mọi người trên tàu ai nấy buồn hiu và đầy hờn dỗi.
Riêng tâm niệm của chúng tôi thì chỉ cầu nguyện được bình an cho tất cả. Không oán hận mà cũng không buồn bực. Tôi an ủi mọi người rằng : Âu cũng là cái nghiệp chung của chúng ta ngày trước vụng tu, nay phải trả cho kiếp nầy. Chúng ta không nên mang cái hận đó đi theo. Dù có trách trời oán người chăng nữa, người ta cũng đã đuổi mình đi ra khỏi địa phận của họ rồi. Mọi người trên tàu huyên náo được vài giờ rồi cũng ngủ vùi. Mặc cho song gió gào thét, mặc cho anh tài công và con tàu định liệu số phận chung. Riêng tôi không ngủ được vì quá giờ, lạ chỗ. Những đêm trên tàu hay đã có chỗ tạm trọ hẳn hoi, lúc nào cũng đến hai ba giờ sáng mà hai mắt vẫn sáng quắc. Ngồi thức một mình, buồn miệng lấy thuốc ra hút. Tôi bò nhè nhẹ ra gần trước mui tàu, lấy tấm ni-long phủ lên người để hút thuốc cho khỏi bị ướt. Mùi thuốc Trung Quốc thơm phức tỏa khói gần mấy chàng nghiện thuốc như Bé cận, Lộc, Quỳnh, Thắng, Phương, Minh, Đính… ông nào cũng bắt mùi nhậm lẹ. Hai con mắt tươi hẳn lên. Không ai bảo ai mà từ từ ngồi dậy, cất giọng :
- Chà, sóng đánh ồn ào khó ngủ quá !
Rồi một, rồi hai, ba bốn tiến dần về phía tôi. Ông nào cũng nhìn vào điếu thuốc, rồi dành nhau một vài hơi cho ấm lòng. Tôi thấy cầm lòng không được. Đưa tay móc bao thuốc cất trong túi ni-long để lấy thêm vài điếu nữa. Và cứ hai người chung một điếu. Tổng cọng bốn điếu. Mấy tên đua nhau thả khói từng cụm một. Giao em Quỳnh nằm dưới gầm tàu với Vũ bắt mùi cũng bò lên sàn tàu để hút thuốc. Sau mục hút thuốc qua mục kể chuyện tiếu lâm. Đố qua đáp lại. Hết người nầy đến người khác. Cứ thế kéo dài suốt đêm. Trời vừa tảng sáng. Xa xa có một vài chiếc thuyền nan đi gỡ lưới như Việt Nam. Anh Cường nói vọng to :
- Thả neo tạm cho máy nghỉ vài giờ.
Các cô các cậu vùng dậy run lập cập. Một chiếc thuyền hỏ ghé cặp tàu chúng tôi với một tên thanh niên còn non nớt. Tuổi độ mười tám, đôi mươi. Hắn ta chống thuyền, bước sang tàu nói :
- Xực phạn a !
Mọi người cũng im lặng. Chúng tôi nhìn nó, nó nhìn ngược lại. Thua buồn, thua kiện, nó nói thêm vài câu tiếng Tàu nữa rồi xuống ghe ra đi. Chuẩn bị cơm nước chưa xong. Nó dẫn đến một chiếc thuyền khác lớn hơn có mang theo một tên công an địa phương. Nó bắt chúng tôi đi theo nó vào tận trong làng. Lại thêm một chuyện nữa, tôi và Anh đi làm công tác xả giao.
Bốn giờ cả đi lẫn về làm việc tại trụ sở xã, thôn gì đó. Chúng hỏi những gì lung tung. Có câu tôi không hiểu họ muốn nói gì. Lúc nầy Hán Văn của tôi nó đi đâu hết. Nó viết một câu mà tôi hiểu chưa tới nửa câu. Đa phần nó viết theo lối văn mới. Đã khó lại viết quá thảo. Tôi bảo chúng :
- Các ông hỏi nhiều quá. Các ông viết chữ khó đọc quá. Tôi không học lối văn nầy. Tôi không hiểu ý các ông muốn nói gì. Chúng tôi cho các ông biết một điều là : Chúng tôi là những kẻ vượt thoát chế độ Cộng Sãn Việt Nam. Chúng tôi đi qua HongKong để tị nạn.
Điều buồn cười cho cái dốt của tôi lúc đó. Hai chữ Hương Cảng tôi viết cũng không được vì nhớ không ra chữ. Túng quá, tôi viết theo kiểu bồi. Một chữ thì tôi viết chữ Hồng là con chim Hồng. Một chữ tôi viết là Công tức người thợ. Ghép hai chữ lại một để thành chữ HongKong. Bắt ép chúng phải hiểu. Tuy thế, những người Tàu hôm đó, có người cũng không hiểu tiếng bồi của tôi viết nữa là. Khi tôi viết ra có một số dành nhau đọc. Nhìn nhau chỉ chỏ rồi cười, có một người đứng tuổi đọc, ngẫm nghĩ một hồi phá lên cười và dẫn giải cho mấy người kia. Họ cũng không tìm hiểu được những gì ở nơi chúng tôi cả. Cứ bên nầy nhìn qua, bên kia nhìn lại và đưa hai chúng tôi trở lại về tàu. Đồng thời họ cũng chấp nhận cho chúng tôi neo tàu lại, trọ một đêm tại eo vịnh này để ngày mai băng qua lục địa.
Vừa ra khỏi eo biển, sóng gió tới tấp. Trước khi chưa rời trại hải quân, dân ở đây cũng đã cho hay rằng : Nếu băng qua vịnh Trung Quốc, thì phải coi chừng. Đi ra quá xa ở ngoài ranh giới hải phận thì không sao. Hoặc giả đi gần trong eo, tuy nước chảy hơi mạnh nhưng cũng không sao. Còn chạy giữa vời cách eo chừng năm ba chục hải lý thì sẽ bị giòng nước xoáy thật nguy hiểm, kể cả tàu lớn. Chúng tôi vẫn thường chú ý đến vấn đề mà người dân Hải Nam, nơi chúng tôi ghé đầu tiên đã dặn dò, đã hướng dẫn. Nước biển đục ngầu. Một số phao giữ lưới cá của ngư phủ thả nổi lềnh bềnh. Thỉnh thoảnh thấy những chiếc dép Nhựt, lớn có, nhỏ có trôi ngược lại Tàu chúng tôi. Nhớ lời dặn lúc nọ, thấy mà phát lạnh người. Những cây tre cập hai bên mạn thuyền cũng bị nước bẻ gãy ào ào. Lúc nầy bà con trong thuyền lại có dịp niệm Phật, kêu cứu Đức Quán Thế Âm Bồ tát một lần nữa. Tôi thấy các cô các cậu niệm liên hồi, niệm thiết tha như lần tàu mới ra cửa biển Thuận An. Đang niệm Phật một chiếc tàu Nhật Bản không mấy lớn chạy vụt qua trước mặt chúng tôi. Mọi người trong tàu đưa tay kêu với, nhưng chúng vẫn thản nhiên chạy đi. Trong tàu ấy thấy độ năm bảy người đàn ông và ba con chó thật lớn. Chúng cũng đưa mắt nhìn lại chúng tôi một cách lơ đảng. Chiếc tàu ấy đã đi xa, Mọi người tiếp tục trở lại niệm Phật như cũ. Không ai bảo ai mà cả thuyền đều có một đức tin giống nhau.
Tàu băng qua vịnh Trung Quốc để vào lục địa như vậy là mất một ngày một đêm. Trời ở Lục Địa có phần sương mù nhiều. Anh tài công lái lâu ngày cũng đã thấm mệt. Sương mù tan dần theo ánh nắng. Trước mặt chúng tôi là những vùng trù phú. Tàu bè và chài lưới nghênh ngang. Ở đâu cũng có lưới giăng. Anh tài công cố gắng hết sức để tránh cho chân vịt của tàu khỏi bị mắc vào lưới bủa cá của ngư dân ở đây. Tránh bên nầy lại sợ vướn bên kia. Nhìn lên trên bờ, thấy nhà cửa tương đối cao ráo và đông đúc hơn ở đảo Hải Nam. Những rặng dừa trồng dọc theo ven biển, cây lá sum suê.
Đường cái rộng, người ta xuôi ngược bằng xe đạp và đi bộ cũng nhộn nhịp. Hôm nay là ngày mồng chín tết. Có lẻ họ cũng chuẩn bị cho lễ hạ nêu. Lễ nầy Việt Nam và Trung Hoa na ná giống nhau. Thấy họ tụ tập từng đoàn với những chiếc áo màu khá đẹp hơn những vùng mà chúng tôi đã ghé qua. Khumg cảng tết ở đây cũng tương tự như Việt Nam.
Thế là chúng tôi đã xa quê tám ngày. Tám ngày lênh đênh trên biển, khi thì được ăn no ngủ kỹ, khi thì bị người ta rượt đuổi cuốn giò chạy không kịp thở. Có những lần bị đuổi phải ra đi trong cảnh gió mưa tầm tả. Trên tàu ai nấy đều ướt dầm cả nước là nước trọn ngày, trọn đêm. Bây giờ trời trong gió tạnh, tàu đi trong eo biển, không có một chút gợn sóng không khác gì đang đi trên sông nhỏ từ Huế về Thuận An.
Ven bờ lục địa Trung Quốc đất đai màu mở, thỉnh thoảng có những mỏm đá khô cằn đâm ngang ra biển. Con đường cái lên quận hay xã, thôn dài thăm thẳm chạy song song với ven biển. Độ vài chục cây số lại có một cái bót gác có lính canh phòng. Đây có thể là địa đầu của mỗi quận hay mỗi xã thì phải. Con tàu lướt phăng trên giòng nưóc. Thình lình tàu bị dừng lại. Xa xa có mấy cây sào bằng tre, bằng gỗ cắm xiêu vẹo. Hình như nó cũng muốn cuốn trôi theo giòng nước mỗi khi có tàu chạy ngang qua. Anh Cường cho hay là tàu đã bị lưới vướng vào chân vịt. Mọi người đang nhốn nháo. Anh Tám la to :
- Ngồi yên, nếu chúng ta ồn, sẽ bị khó khăn.
Cường nói :
- Coi quanh thử có ghe, tàu nào gần mình không ?
Mọi ngưòi đưa mắt nhìn quanh quất thì chỉ thấy thật xa, có mấy chiếc tàu ở đằng sau tàu chúng tôi, nhưng đi ngược chiều. Càng lúc họ càng xa chúng tôi.
Tàu dừng một hồi. Tắt máy xong. Cường tiếp :
- Vinh cầm dao nhảy xuống tìm cách cắt đoạn lưới đang quấn vào chân vịt.
Vinh cần dao nhảy xuóng nước. Dao thì không được tốt. Lưới lại bền. Dùng dằng dưới nước mất mấy chục phút vẫn không được. Chốc chốc Vinh thò đầu lên thở phều phào, rồi tiếp tục lặn xuống để cắt.
Từ ngày ra đi cho đến bây giờ, Vinh là người duy nhất ngảy xuống biển để lo cho tàu mỗi khi chân vịt bị trục trặc. Anh ta cũng có những đức tính hy sinh đáng mến phục. Cắt và gỡ lưới xong đâu vào đấy, tàu lùi lại một đoạn và cho chạy thật sát vào bờ. Đi được một đoạn, ba chiếc tàu đi đánh cá gặp chúng tôi. Họ cũng thả lưới gần chỗ chúng tôi bị vướng. Anh Cường thấy thế tăng tốc độ của tàu. Trong tàu ai nấy cười khúc khích và mừng thầm đã thoát sự khó khăn.
Anh cường lại tiếp :
- Nó mà bắt được, nó đền thấy mụ nội.
Quỳnh tinh nghịch :
- Nó mà bắt được thì ráng mà lãnh đủ. Còn muốn thấy mụ nội cũng không phải là chuyện dễ. Một là quay đầu trở lại Việt Nam mới thấy được. Hai là bà nội đã chết từ lâu rồi. Không cách gì mà thấy lại một cách dễ dàng được đâu.
- Chu cha. Đầu tiên nó bao vây lại và áp tải mình vào bờ, rắc rối lung tung. Nó có chịu để cho mình đi cũng phải sáng mai là may mắn lắm.
Trời ngã về chiều. Mục đường khuấy với bột lại được tái diễn một lần nữa thật hấp dẫn. Khốn nỗi, khi đi đường vì bất cẩn, bột bị ngấm nước mặn, khi pha chung với đường cũng khó ăn. Bên cạnh đó, một số bánh quy ở vùng Mỹ Xương thuộc đảo Hải Nam, nơi ghé lần thứ hai; ở đây, họ có cho độ hai phần ba bao bánh năm chục kilogram, cũng đều bị ướt nên ăn không được. Vì quá đắng. Cả bánh lẫn bột đều cho xuống biển. Duy chỉ còn chừa lại đường, thuốc hút. Mặc đầu thuốc cũng bị ướt, tuy thế vẫn đem ra hong khô, rồi hút. Thuốc không ngon không mặn mà như cũ, nhưng ai nấy đều nghiện thuốc, dù muốn dù không, lấy tạm dùng cũng thấy ngon lành như thường. Thật ra, tàu đầy đủ cơm gạo, nước uống nên bột và bánh bị ướt đều cho xuống biển hết. Giá như bị đói khát, bị cướp giựt như những tàu khác ở vịnh Thái Lan, những tàu hư máy trôi bập bềnh trên biển cả đến mấy chục ngày, hoặc bị trôi tấp vào hoang đảo, không thức ăn đến độ phải ăn thịt người, thì số bánh và bột ấy là những thần dược hay linh dược cấp thời tại chỗ.
Khi tôi còn ở quê nhà, mỗi lần nghe tin vượt biên đều gặp toàn những chuyện kinh hoàng, rùng rợn, thì tôi cũng sợ sệt lắm. Chuyến đi của tôi lại được may mắn nhiều hơn là rủi ro. Tuy thế, nếu sau nầy tôi có được diễm phúc được trở về quê hương, thăm lại nơi chôn nhau cắt rốn, biểu đi bằng tàu thủy, chắc chắn là tôi từ chối lẹ. Có lẻ, đây là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng với tôi. Chiếc tàu dù lớn cách mấy, khi ra đến hải phận quốc tế rồi, nó cũng chẳng ăn thua gì so với lòng đại dương. Dù nó có được bảo đảm đủ điều kiện cũng không tài nào địch nổi với ba đào của biển cả. Nhìn con dân nước Việt bôn tẩu chạy thoát dưới mọi hình thức để tìm tự do, chấp nhận chọn cái sống trong cái chết, xem cái thân đẹp đẽ như chỉ mành treo chuông, như chiếc đèn leo lét trước vũ bão. Nhìn hoàn cảnh của thuyền nhân đùa với tử thần, thì chúng ta có một cái nhìn đích thực về người Cộng Sãn. Không riêng gì Việt Nam. Hiện tại các nước Cộng Sãn trên thế giới, đều có vượt biên bỏ chế độ ấy đi tìm tự do. Tại bức tường ô nhục Bá Linh cũng có đủ hạng người vượt thoát, không may mắn bị gục dưới chân tường, trên bờ hào… Họ chấp nhận chết một khi cất bước ra đi. Họ không thể sống trong chế độ Cộng Sãn để từ từ đi đến cái chết dần chết mòn từ tâm linh cho đến thể xác. Miền Nam lọt vào tay Cộng Sãn chưa đầy một năm mà cả hàng trăm ngàn, hàng triệu người dân lành đành lòng bỏ nước ra đi. Sự ra đi của dân chúng đã vạch trần mặt nạ vô nhân phi dân tộc của chúng. Chúng không còn lừa bịp nỗi dân chúng Việt Nam và cả thế giới. Bây giờ chủ thuyết Mác-Lê không thể còn có ảo vọng để cải tạo thế giới. Hy vọng một ngày nào đó, tự chúng sẽ bị đào thải khỏi con người, tự chúng sẽ bị hủy diệt, mau hay chậm là tùy thuộc vào mức độ hiểu biết của con người. Những hành động mù quáng tôn thờ chủ nghĩa của chúng ta sẽ bị vạch trần cho cả thế giới biết, là nhờ sau tháng Tư đen năm 1975 tại miền Nam Việt Nam và Kampuchia. Những ai đã đọc cuốn “Bạn có thể tin ngưòi Cộng Sãn ?” của bác sĩ Fred Schwarz thì đủ rõ. Nhưng chưa thấm thía cho bằng tại Việt Nam hiện nay. Những ai bỏ nước ra đi, trong đầu óc còn lờ mờ về chủ thuyết Cộng Sãn vô thần hay có những hành động có lợi cho Cộng Sãn ; đó là những hạng ngưòi đắc tội với dân tộc, đắc tội với quê hương. Những kẻ đó phải được trừng trị thích đáng. Một bài học lịch sử vô tiền khoáng hậu đối với chúng ta. Một bài học đầy hận thù và tủi nhục. Không còn suy nghĩ và chần chờ gì nữa cả. Hãy trăm người như một, ngàn người như một và cả toàn dân đồng tâm nhất chí, đoàn kết nhau lại để diệt mối thù chung. Đó là chủ thuyết Mác-Lê. Chủ thuyết Cộng Sãn vô thần. Vì chúng đưa dân tộc của họ càng ngày càng đi lần về cuộc sống mang rợ của thời sơ khai đất nước. Tôi đang nghĩ miên mang về tội ác của Cộng Sãn. Trí vỗ nhẹ lên vai tôi :
- Thầy đang nghĩ gì đó ? Mời thầy đến đầu nầy, tụi con có chuyện hay lắm.
Tôi bò lần về nơi anh em đang nói chuyện tiếu lâm. Bé cận cười :
- Ông thầy vui quá, Bé nói chuyện nầy thầy nghe nhé.
- Thôi mà, thầy biết rồi. Thầy nhìn Bé là biết bệnh rồi.
Tất cả anh em cười vang. Đứa nào cũng ngữa tay ra :
- Rồi làm liền. Lâu quá. Dô. Dô…
Tôi đưa tay nhè nhẹ rút bao thuốc ra, nhưng chỉ còn vỏn vẹn hai điếu. Mấy anh em chia nhau bốn người một điếu. Tuy thế, các anh vẫn chưa đồng ý hút trước hay hút sau. Một chầu oánh tù tì (One, Two,Three…) lại diễn ra thật hấp dẫn. Vừa xong chuyện thứ tự. Mỗi người ngồi laị tại chỗ để đợi đến phiên mình. Anh nào được mồi đầu tiên thì không mấy hứng thú cho lắm. Vì còn ba người kế tiếp hối thúc :
- Lâu quá mầy, mầy làm quá đoạn đường đã ấn định rồi.
- Khoan cái đã, để tao coi. Chưa mà. Ngang đây mới đúng ranh giới đầu mực đã gạch…
- Lẹ lên làm anh em ngồi đợi muốn dài cổ.
Điếu thuốc đang chuyển cho người kế tiếp. Tôi đến trước mui tàu, Trí đi theo cười khẻ :
- Thầy còn nữa cho con thêm một điếu. Tôi liền lấy bao thứ hai gởi nơi Bé Đoan. Rút lẹ một điếu đưa ngay cho Trí. Đưa bao thuốc cho Bé Đoan cất giữ. Không phải tôi tiếc rẻ với anh em. Nhưng phải đưa dần để đi tới đích. Trong thuyền ai cũng biết tôi có nhiều thuốc. Mấy anh em hể ngủ không được, ngồi lâu thấy buồn miệng là có mục mời thầy tới nói chuyện. Thấy tôi đến là cùng cười to lên…Nào. Dô,dô…Nói hươu nói vượn gì rồi cũng mục hút thuốc được đề cập tới.
Trí lấy được điếu thuốc xong, trở lại với anh em thì vừa lúc phiên của Trí là đoạn cuối cùng của điếu thuốc. Nó nhận mẫu thuốc tàn để lên môi ngáp ngáp một hồi.
Bé nói :
- Còn dài, cho tao làm tiếp một hơi, tao hút đầu chưa có nhựa thuốc, nên không đả chút nào, mấy cậu thì hối thúc quá trời. Cụt hứng thấy mồ.
Trí đưa cho Bé mẫu thuốc tàn sau khi đã kéo hai hơi dài. Bé lấy làm thích thú, nào ngờ, Trí ra gần giữa sàn tàu đốt tiếp điếu thuốc có sẵn để chọc quê anh em cho vui. Mọi người cũng đến bao quanh với Trí. Rồi cũng chia chát thêm một lần nữa. Trí ngồi nhìn và cười một mình ngặt nghẻo thật khoái chí. Anh Tám ở gần sau tàu nói vọng tới :
- Vùng nầy có thành phố. Hãy tạm nghỉ ở đây. Mua thêm một ít nhới và dầu. Đi quanh như vậy chắc không đủ nhiên liệu. Nếu không lo liệu trước, lỡ đêm hôm ở những vùng hiu quạnh thì bất tiện lắm.
Mọi người tán đồng ý kiến của Tám. Tàu dừng. Tôi lúc nào cũng đặt chân xuống tàu trước tiên. Đó là bổn phận mà anh em giao phó và tin tuởng. Trên bờ, một số đông dân chúng địa phương đứng nhìn chầm chập. Những dãy nhà được xây cất khá sạch sẽ, tuy không cao lắm. Nhà nào cũng có ít nhất là hai cây sào tre, trên ấy phơi toàn lạp xưởng. Phương theo tôi đến gần đám đông ấy.
Dân chúng ở đây thật tốt so với những nơi mà chúng tôi đã đến. Họ đem cho chúng tôi nào là bánh bò, khoai, sắn và một số mền, tuy không được tốt lắm. Tuy nhiên, chúng tôi cảm động những tấm lòng vàng mà họ đã thể hiện đối với chúng tôi. Chưa một lần gặp gở, chưa một lần quen biết, họ nhìn hoàn cảnh trên tàu như thế, rồi họ bảo nhau tiếp tế cho chúng tôi theo khả năng sẵn có của họ. Mặc dầu chúng tôi không bị đói khát, nhưng hình ảnh nầy đủ để làm cho chúng tôi cảm động, làm cho chúng tôi kính mến. Giá như những người vượt biển để tìm tự do, gặp được hoàn cảnh như vậy thì hạnh phúc biết bao. Như vậy thì làm gì có chương trình chống nạn hải tặc của cao ủy Liên Hiệp Quốc phải bỏ ra cả mấy chục triệu đô la để lo cho thuyền nhân. Làm gì có thảm trạng những nữ thuyền nhân bị cưỡng hiếp trắng trợn và dã man đến độ có những người sợ tủi nhục nhảy xuống biển chấp nhận cái chết đau thương để bảo tồn tiết hạnh.
Từ xã hội Cộng Sãn đã đưa đến dần cảnh tượng tồi tệ như thế, thử hỏi làm sao để nghe hay tin những gì Cộng Sãn nói.
Dầu nhớt được đầy đủ. Ai nấy vui vẻ trong bầu không khí yên ổn. Tôi lại có ít nhất là bốn bao thuốc nữa, chưa kể đã phân phát cho anh em. Nhiều điều may mắn đến với tôi. Trong thuyền từ lớn tới nhỏ, từ trai đến gái, ai ai cũng thương mến. Tôi nói chuyện với anh em, ai ai cũng hoan hỷ. Những lúc tôi cắt đặt công tác, anh em rất vui lòng và hăng hái làm không một chút từ nan. Không khí hòa ái nầy, không những chỉ những ngày trên biển cả, ngay sau khi đến đất liền, được tự do, vẫn thương yêu nhau, đùm bọc nhau. Những vị gặp duyên may đi địch cư trước, cũng được anh em ở lại vồn vã đưa đón, chung vui thân mật. Đó là điều đặc biệt nhất mà những tàu khác không có được ở trong trại Samsuipo, HongKong.
Tàu chạy liên tiếp khoảng một ngày, kột đêm là đến vịnh Hương Cảng.
Trước khi vào đảo, chúng tôi gặp được rất nhiều tàu lớn đậu ngoài hải cảng. Những tàu lớn nhỏ đua nhau chạy vào, chạy ra cửa biển rất tấp nập.
Chúng tôi được cảnh sát tuần phòng cửa biển ra đón và dẫn vào tận trại. Một ngày một đêm ở lại tàu để làm thủ tục. Được chính phủ Hương Cảng cho ăn uống hẳn hoi trước khi đưa chúng tôi vào chính thức của trại tị nạn. Được cái may mắn hơn nữa là không đưa vào trại chuyển tiếp, cho nên những khổ cực ở đây cũng khỏi phải gánh chịu. Dân tị nạn đặt cái trại chuyển tiếp nầy là Kho Đen. Ở đây nhận hết muôn vàn khổ cực trước khi được thừa nhận và được hưởng quy chế tị nạn chính thức. Cũng có nhiều tàu cập bến và bắt buột phải ở đây từ một tháng trở lên. Vì, lúc nầy thuyền nhân đến ngày một thêm đông. Vấn đề lo liệu phương tiện vật chất cũng như hồ sơ nhập trại thiếu cán bộ. Tuy nhiên đã đến đây tức là xem như đã được đến bến bờ tự do. Sẽ đi định cư một quốc gia thật sự được no cơm ấm áo. Thật sự xa lánh hẳn chế độ Cộng Sãn phi nhân. Xa lánh hẳn những con người đi theo để tôn thờ chủ nghĩa Mác-Lê.
TRÊN ĐẤT HƯƠNG CẢNG
Sau một ngày một đêm vượt lục địa Trung Quốc, băng qua Ma Cao, bây giờ tàu cập bến Hương Cảng. Hôm nay là ngày mười bốn tết, khoảng 10giờ30’ sáng, chúng tôi thật sự đến vùng đất tự do. Những chiếc tàu tuần cảnh đang bủa vây chúng tôi. Một đội cảnh binh vừa nam vừa nữ vào khoảng mười người được phái tới. Họ ăn mặc đồng phục màu nước biển trông rất đẹp. Có điều những người cảnh sát ấy tóc dài lượt thượt giống như những chàng tài tử hay nghệ sĩ, trông chẳng oai vệ và mạnh mẽ tí nào. Họ nói tiếng Anh rất khá.
Đến đây mọi việc giao dịch đều do Huỳnh Phan Anh lo liệu. Tất cả hồ sơ đều sử dụng bằng Anh ngữ. Mọi giấy tờ khai báo : nào là ngày rời Việt nam, nào là ngày đến Hương Cảng, nào là phân chia từng gia dình một…
Ở đây cũng dùng từ hộ khẩu như Việt Nam dưới chế độ Cộng Sãn. Có lẻ, những năm chính quyền Hà Nội làm chư hầu cho Nga-Hoa, nên phải lệ thuộc hệ thống hành chánh khuôn rập. Những người có dính líu bà con, hay cảm tình riêng tư thì có thể chung khai một hộ. Chúng tôi : Phương, Đính, Minh, Châu, Đoan và tôi chung một hộ. Tôi làm chủ hộ. Hộ của tôi mang số 868. Mỗi lần gọi tên từng gia đình, thường gọi bằng tiếng Tàu, chứ không gọi bằng Anh văn. Họ nói tiếng Quảng Đông. Ai nấy phải học thuộc lòng cái tên của hộ mình bằng mấy con số. Hễ thấy có cảnh sát xách giấy đến kêu Pạt-Lục-Pạt, là tôi cứ cắm đầu chạy tới. Nếu tôi bận việc, một người đại diện phải chạy thế.
Việc đầu tiên chúng tôi được lên bờ, ban vệ sinh đem thuốc xuống xịt khắp cả tàu, trừ tôi ra, ai ai cũng đều lãnh một chai thuốc nho nhỏ và một chiếc khăn lông. Cả trai lẫn gái đều thoa thuốc vào tóc và lấy khăn quấn lại giống y như mấy ông Chà Và Ấn Độ hay những ông thầy Hời bán vòng mọi tại quê nhà. Những người vừa được xông thuốc lấy làm khó chịu vì mùi thuốc. Người nào cũng hơi ngây ngây như ngái ngủ.
Sau vụ tẩy trừ rận chí, mỗi người được nhận hai quả táo xanh to lớn. Đúng mười hai giờ trưa, nhận thêm một phần cơm với đồ ăn rất ngon lành. Nhân viên cảnh sát làm việc rất có quy củ. Cái gì cũng phải sắp thành hàng hẳn hoi. Nữ trước, nam sau. Ở đây là thuộc địa của Anh Quốc. Cuộc sống theo lối hoàng gia Anh. Giới nữ rất được ưu đãi.
Đã lên bờ hẳn mà ai nấy đều thấy trời đất như xoay vần. Sau mười hai ngày lênh đênh trên biển cả, tất cả đều đen thui như dân chúng sống ở vùng Phi Châu. Điểm danh và thành lập hộ khẩu đâu đó xong xuôi, chúng tôi lại phải ở dưới tàu thêm hai ngày một đêm nữa để chờ lệnh mới. Vẫn được phát cơm mỗi ngày hai lần trưa và tối.
Đến ngày thứ ba, chúng tôi được xe di chuyển đến một vùng do chính phủ Hương Cảng bảo trợ. Lúc nầy, chúng tôi cũng như thuyền nhân vừa mới cập bến chưa được chính thức hưởng quy chế tị nạn của cao ủy Liên Hiệp Quốc. Cũng may không bị ở trại chuyển tiếp. Tôi nghe nói : Đa phần thuyền nhân phải qua trại nầy trước khi đến trại bảo trợ của chính phủ Hương Cảng. Người ta đặt tên cho trại nầy là trại Kho đen. Vì đây, nguyên trước một cái kho bằng sắt sơn màu đen, dùng để chứa hàng cho những tàu lớn đến chất hay bốc hàng chở đi nơi khác. Số thuyền nhân đến Hương Cảng ngày một thêm đông. Ban đầu tạm dung nó để làm trại chuyển tiếp vài ba hôm để tiện việc nhân viên công lực làm sổ sách, hồ sơ; nhưng vì nhân viên phụ trách thiếu thốn, dân tị nạn lại nhiều, từ đó đã biến cái kho nầy thành một trại tị nạn tạm thời. Tuy là tạm thời, nhưng thuyền nhân cũng ở lại nơi đây ít nhất cững vài ba tháng trong lúc chờ đợi chính phủ Hương Cảng tìm nơi tương đối tiện nghi, rộng rãi để tá túc.
Người ta đã từng mô tả rằng : Nơi đây, những thùng vệ sinh dã chiến không được tốt, dòi bọ bò lan khắp cả sàn nhà mà dân tị nạn dung nơi ngủ nghỉ. Thật dơ bẩn.
Khi tôi đến đây, dân tị nạn khoảng chừng bảy ngàn người. Ngày tôi đi định cư, số người tăng lên 69 ngàn. Ngày nào cũng có tàu cập bến. Không tàu lớn thì tàu nhỏ. Có lúc chiếc thuyền nan chỉ chở hai người duy nhất phát xuất từ Đà Nẵng đến. Nhân viên công lực lắm lúc không mấy tin tưởng đươc rằng : Những thuyền nhỏ bé như thế có thể vượt đại dương mà an toàn được. Đa phần là dân miền Trung từ Khánh Hòa trở ra. Sau nầy có một số lớn người Việt gốc Hoa từ miền Bắc cũng đua nhau đến. Có điều, sống người dưới chế độ Cộng Sãn trước 1975, chính phủ Hương Cảng cho quản thúc một khu riêng biệt, không mấy được tự do bằng dân miền Nam. Chính vì thế, vô hình chung đã sinh ra những chuyện lôi thôi giữa Bắc và Nam và gây nhiều phiền toái cho dân địa phương. Những cuộc ẩu đả thường xảy ra, đưa đến án mạng. Tình cảnh hỗn loạn cũng đưa đến cho chính phủ Hương Cảng và Cao Uy tỵ nạn cũng vơi đi một số lớn tình cảm. Luật lệ được đặt ra nặng nề hơn. Đi lại cũng khó khăn hơn. Ra vào tự do cũng bị hạn chế nhiều hơn. Mặc dù đã được ở trong trâi chính thức. Từ đó, vấn đề định cư càng ngày càng phức tạp và khó khăn hơn nhiều. Đồng thời cuộc sống của thuyền nhân cũng bị thắt chặt, túng thiếu đủ điều. Ngày tôi đến tỵ nạn, thì Hương Cảng là trại tị nạn sướng đứng hàng thứ nhì của tất cả các trại tị nạn ở Đông Nam Á, sau Singapore.
Xe dừng hẳn, chung quanh chúng tôi, một hàng rào bằng người đông nghịt. Họ chen lấn vào bên trong chúng tôi để hỏi thăm nầy nọ, mặc dầu bị ngăn chận bởi nhân viên công lực và một hàng rào bằng gỗ. Khu trại nầy ở sát với phi trường quốc tế HongKong. Số người nầy đến trước chúng tôi khoảng chừng nửa tháng và gồm trên bốn người gồm hai tàu Huê Phong và Panama.
Mọi người đều xuống xe và sắp thành hàng xong. Một anh người Hoa sinh tại Chợ Lớn nói tiếng Việt khá rành, mặc bộ đồ Thủy Quân Lục Chiến của quân lực Việt Nam Cộng Hòa với chiếc mũ nâu của Biệt Động Quân, anh đứng ra để dẫn giải về quy luật của trại. Anh làm trong ban đại diện.
Chúng tôi đang ngơ ngác nhìn số ngưòi chung quanh, thì trong số ấy có tiếng lao xao vọng ra :
- Các anh từ đâu đến ? Đến được mấy hôm ? Có ở kho Đen không ?...
Một người trong chúng tôi nhón cổ lên định trả lời liền bị cảnh sát chận lại.
Quỳnh lấy hai tay bụm vào nhau làm giống như cái loa đưa lên miệng hỏi ?
- Quý vị ở mô tới ?
- Ông nói gì tôi không nghe rõ ?
- Ở mô tới ?
- Cái gì ?
Trí tiếp :
- Từ đâu đến ?
- Sài Gòn.
Tâm lý chung, một khi xa quê gặp lại người đồng hương bao giờ cũng vồn vả, hỏi han đủ điều. Vì họ là người đi trước nên muốn biết tin tức củc quê nhà hiện tại ra sao. May mắn hơn, nếu gặp được người cùng xóm phường thì được rõ về chi tiết của người thân hay bằng hữu đang còn kẹt lại.
Chúng tôi kẻ đứng người ngồi để chờ đợi kêu tên lập thủ tục nhập trại và đón nhận những vật dụng cần thiết trong những ngày ở trong trại nầy.
Đây là một trại chuyển tiếp do chính phủ Hương Cảng bảo trợ nên tất cả đều bị hạn chế, không được hút thuốc, đọc báo, không được ra khỏi phạm vi của trại.
Mỗi người lãnh một chiếc ca bằng nhôm dùng để lãnh phần ăn hằng ngày. Một người được cấp phát một cái mền, một cái gối, hai bộ áo quần và khăn, kem, bàn chải…
Trại trưởng là một viên đại tá người Anh. Trại phó là một nữ thiếu tá người Hương Cảng nhưng gia nhập quốc tịch cũng như quân đội của hoàng gia Anh thì phải.
Khi đã nhập trại rồi, thì chỉ biết khuôn viên trại mà thôi. Những ai đau ốm nhẹ thì có bác sĩ, y sĩ, dược sĩ và thuốc men trong bệnh viện dã chiến của trại. Những bệnh nhân bệnh tình nặng hơn hay đàn bà sinh đẻ đều được đưa tới bệnh viện lớn của Hương Cảng ; nhưng phải có nhân viên công lực đi theo để canh chừng. Hầu hết những bác sĩ, y sĩ và dược sĩ của dân tị nạn đều được tuyển dụng tạm thời vào bệnh viện dã chiến nầy. Họ phục vụ thuyền nhân cho đến ngày có giấy tờ đi định cư một nước thứ ba.
Sinh hoạt trong trại chẳng có gì đặc sắc. Hằng ngày dân tị nạn, ngoài vấn đề xách ca nhôm đi nhận phần ăn ngày hai buổi ra, thì giờ còn lại hoặc đánh cờ, hoặc chụm năm chụm ba với nhau để đấu láo cho qua ngày đoạn tháng. Hàng trăm bàn cờ tướng của người Hoa được bày chung quanh những bóng cây. Những ai không có quân và bàn cờ, thì lấy bìa cát-tông cắt, rồi viết tên quân cờ, vẽ tạm một bàn giấy nguệch ngoạt chơi cho vui để giết thì giờ.
Gần hai tháng rưỡi sống ở đây mà tôi cứ tưởng chừng như mấy năm đã trôi qua rồi. Những ngày tháng lúc nầy sao dài quá. Tôi cứ liên tưởng câu :
- Nhứt nhật tại tù, thiên thu tại ngoại.
Thật ra, chúng tôi không phải ở tù. Chính vì Cao Ủy tỵ nạn không đủ nhân viên nên đã nhờ chính phủ Hương Cảng trợ lực. Ngược lại chính phủ Hương Cảng lại Muốn tránh những phiền toái do thuyền nhân gây ra, dùng uy lực sẵn có để quản thúc lại cho yên chuyện. Cứ hai tuần có một vị mục sư hay linh mục vào giảng kinh cho thuyền nhân. Một số vì quyền lợi là muốn đi nhanh, muốn nơi sắp đến định cư có những mối lợi nào đó, họ xin đổi đạo. Họ xin rửa tội. Họ xin tên thánh. Rồi họ tưởng là sắp gần đến với nước Chúa, nên bộ mặt tương đối sáng ra. Mỗi khi đi xưng lễ mỗi sáng chủ nhật về, họ đi ngang qua những người chưa hoặc không theo thì họ đem giáo lý Chúa ra giảng như muốn đại diện cho các vị thừa sai trong việc truyền giáo. Họ thụ huấn học hỏi ra sao thì không ai biết. Khi họ đem ra tán tụng về Chúa, thì nói hay, nói cao, nói ngon lành !!... Đủ điều. Tức cười một vài điểm rất là giản dị, họ bảo rằng theo Chúa thì được Chúa rước, Chúa ban… Nhưng, họ đã theo Chúa rồi, không biết tại sao, ngày nào họ cũng kêu cứu, ngày nào cũng cầu nguyện. Khấn nguyện liên tiếp bảy tám tháng mà vẫn không thấy văn phòng kêu lên phỏng vấn, không thấy thông cáo dán tên mình lên bảng…Chưởi thề, văn tục… rồi thưa lần chuyện đi xin lễ. Rồi ở nhà luôn…Rồi…mất bớt bạn bè đời cũng như đạo.
Thỉnh thoảng cũng có các cơ quan thiện nguyện vào thăm hỏi, phát quà lá, ủy lạo thuyền nhân. Tuy nhiên số quà thì có hạn, dân tỵ nạn ngày lại đông thêm. Lần lần phái đoàn thiện nguyện cũng đến thưa dần. Có một điều nói ra thì không ai tin, nhưng có thật. Đó là vấn đề đi lượm những mẩu thuốc tàn của nhân viên công lực sau khi đã hút xong, dụt ở các góc của văn phòng, trong các hộp lụi tàn thuốc, trong các thùng rác… Một mẩu tàn thuốc kiếm được, ít nhất cũng ba mạng hút chung. Mỗi lần hút cũng phải có người canh chừng cảnh sát gác trực. Vô phước bị chúng bắt được là đưa lên văn phòng phạt quỳ hai tiếng đồng hồ hoặc bắt đi làm tạp dịch đổ rác, dọn vệ sinh ở các hố xí dã chiến.
Bên trong và ngoài khu trại xem cách biệt nhau như xa lạ hẳn. Có một vài người đã được tự do đến la cà gần khu trại tìm người quen cũng bị cảnh sát rượt chạy muốn hết thở. Trên máy phóng thanh, hằng ngày cứ đọc tên những hộ được chuyển trại và giao qua cho Liên Hiệp Quốc, làm cho chúng tôi càng hồi hộp thêm.
Văn phòng trại nằm ngay giữa trung tâm khu trại. Tất cả các lều trại liên lạc với văn phòng y tế rất tiện lợi. Một đôi khi, có một vài tờ báo Tàu lọt vào đất trại do nhân viên đọc xong, cho vào thùng rác, mấy người Việt gốc Hoa lượm lại đọc. Chúng tôi cũng đến gần để nghe họ dịch lại tin tức thời sự đại phương, quốc tế và nhất là tin tức tỵ nạn tại Hương Cảng đã hay chưa được tự do. Hoặc tin tức cho hay là có một số tỵ nạn đã gây hấn, ẩu đả với cảnh sát đã xảy ra án mạng hoặc bị thương cho cả đôi bên. Hoặc tin về tình hình tỵ nạn bây giờ quá phức tạp hay chính phủ Hương Cảng sẽ lập một ủy ban chặn đứng làn sóng vượt biên… Bao nhiêu tin tức vui buồn lẫn lộn xảy ra được đăng lên báo địa phương cũng đủ làm cho toàn khu trại lo sợ. Chúng tôi sau khi nghe vị người Tàu dịch lại như thế, cũng không khỏi lo ngại. Một phần tôi không có thân nhân ở hải ngoại, một phần tôi không thấy rõ tường tận những sự lành dữ ở trại chính thức ra sao. Bao nhiêu suy nghĩ vẫn vơ cứ diễn ra mãi hết ngày nầy qua ngày khác.
Tuy nhiên việc gì đến rồi sẽ đến.
Ngày 29 tháng 04 năm 1979, toàn bộ thuyền tôi được chuyển qua trại tỵ nạn chính thức. Nỗi mừng vui khôn tả hiện lên trên nét mặt mọi người. Những người cùng phòng, cùng trại nhưng khác thuyền cững vui mừng với theo với chúng tôi. Một vụ kiểm kê được diễn ra. Lấy kinh nghiệm của những ngưòi đi trước. Lấy kinh nghiệm của những người đã đi trước. Trong khi vừa nghe máy phóng thanh của văn phòng gọi các chủ hộ, chủ tàu lên ký giấy xuất trại ; tại phòng, các anh chị chung thuyền, không ai bảo ai cũng đã lo thu xếp hẳn hoi mọi công việc. Kiểm kê tất cả những mền mùng… để giao trả lại cho ban quản trại. Nếu thì bị ở lại toàn hộ hay toàn tàu. Chuyện nầy đã xảy ra cho những người đi trước. Vì thế khi những người có trách nhiệm liên lạc với văn phòng đã trở về thì mọi chuyện đương nhiên phải chu tất đâu vào đấy. Hai vị cảnh sát xuống tận phòng để hướng dẫn chúng tôi ra sắp hàng ngay trước văn phòng. Một bên giao trả. Một bên ký nhận. Một vụ khám xét gắt gao trước khi xuất trại hơn là nhập trại. Mọi chuyện hoàn tất. trước giờ lên xe, viên nữ thiếu tá trại phó có đôi lời xả giao. Cô ta nói :
- Trong những ngày quý vị lưu trú tại nơi đây thế nào cũng có những chuyện không mấy tốt đẹp do nhân viên đưa đến. Tôi xin thay mặt văn phòng trại, thành thật đến với quý vị, trưóc khi quý vị đến một trại mới, chúng tôi cầu chúc cho quý vị gặp được nhiều may mắn, luôn gặp phúc lợi, nhất là sớm được định cư như sự mong muốn.
Bên nầy, Anh cũng thay mặt cho cả tàu đáp lại bằng Anh Ngữ :
- Xin chân thành cảm tạ toàn ban giám đốc đã tận tình giúp đỡ cũng như lo lắng cho chúng tôi trong những ngày qua. Chúng tôi cũng xin gởi lời cảm tạ đến đại tá Giám đốc, đồng thời xin cảm ơn cô đã hết lòng giứp đỡ cho dân tỵ nạn Việt Nam chúng tôi. Hy vọng trong giòng máu cùng đỏ với nước mắt cùng mặn như nhau, kính xin cô hoan hỷ lưu tâm cho thuyền nhân theo khả năng của cô mà nhất là thể hiện tình nguời đối với những người lâm cảnh lưu vong, xa xứ.
Một tràng pháo tay vang lên để chào giả biệt và từ lên xe. Những người còn ở lại cũng ra tận văn phòng để đưa tiển chúng tôi. Hai bên vẫy tay nhau và cùng gây cho nhau những bùi ngùi khó tả.
Chuyến xe buýt hai tầng chở chúng tôi từ phi trường đến trại Shamshui-Po. Đây là trại lớn nhất ở Hương Cảng. Viên trại trưởng là cựu đại tá của hoàng gia Anh. Y là người Tàu với quốc tịch Anh. Ông ta làm việc với dân tỵ nạn rất tốt. Chuyến đi địch cư nào ông ta cũng lên tận phi trường để đưa tiễn. Lúc mới đến đây, trại còn thưa thớt, số người khoảng ba nghìn. Đất còn trống rất nhiều.
Chưa đầy hai tháng, khu trại không còn chỗ dựng lều. Cuộc sống bắt đầu xô bồ, phức tạp hơn. Trong trại bắt đầu có trộm cướp say sưa đâm chém gây chết chóc trong trại mỗi lúc một nhiều hơn. Mỗi ngày ít nhất cũng có một vài vụ say sưa ấu đả nhau gây thương tích. Viên trại trưởng từ đó đã sinh gay gắt. Ông đã từng nói chuyện với tôi rằng :
- Tôi không hiểu tại sao dân của thầy đã bỏ nước ra đi, lại không chịu thương yêu nhau, đùm bọc nhau, nở nào gây cảnh đâm chém nhau như vậy. Đáng lý các anh phải đoàn kết lại với nhau thành một khối để : Thứ nhất chung lo diệt mối thù chung là Cộng Sãn, thứ đến là cùng nói lên một tiếng nói là kêu gọi Liên Hiệp Quốc hãy tận tình giúp đỡ cho thuyền nhân có những phương tện khả dĩ trong khi đang ở trong các trại tỵ nạn. Hoặc là kêu gọi Liên Hiệp Quốc thương lượng với các cường quốc cố gắng đón nhận thuyền nhân nhiều hơn…Các anh không thương dân các anh thì làm sao mà bắt dân nước khác thương các anh. Các anh không chịu làm lợi ích chung, trong khi đó, các anh chỉ biết lo gây hấn cho nhau, chỉ có lợi cho Cộng Sãn chứ không không phải cho các anh. Các anh làm mất trật tự của trại thì việc định cư càng bị đình trệ mà thôi. Ví như ngày hôm qua, có một gia đình sắp sửa đi Úc, xảy ra đứa con trai bị giết ; ông chủ hộ phải ở lại để hầu tòa, những người liên hệ bị lao lý, ban giám đốc phải tăng cường an ninh cho trại, vấn đề xuất nhập trại càng phức tạp, khó khăn hơn…
Ông ta nói với tôi một hồi không kịp nghỉ, tôi chỉ biết nhìn ông, im lặng và đứng nghe. Ra khỏi trại chuyển tiếp được một hai ngày thì khai báo lại lý lịch bản thân thêm một lần nữa. Dù đã có chung hộ, dù có bà con, nhưng không phải là vợ chồng, con cái, anh em ruột đều phải tách hộ. Đó là quy luật chung. Có nhiều khi hai anh em ruột đã có gia đình riêng rồi nhưng vẫn xin định cư hai tại hai quốc gia khác nhau. Vì tùy theo sở thích và năng khiếu riêng. Đến trại nầy mới chính thức chọn cho mình một đường lối, một cuộc sống và một quốc gia để định cư.
Ngày lễ quốc hận 30-04 lại diễn ra toàn trại. Cờ xí ngập lều. Những bài ca chống Cộng được hát vang khắpcác phòng. Một buổi họp của quý anh em cựu quân nhân đủ các binh chủng, ngồi thảo luận đường lối tổ chức đoàn thể trong trại. Họ tụ tập gần sát bờ biển sau lưng trại 101. Một toán khác vừa cựu quân nhân, vừa thanh niên cũng họp thành đội ngủ chỉnh tề, có chức tước hẳn hoi, có tuyên thệ dưới lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa. Đoàn nầy sinh hoạt tương đối có quy củ, hằng ngày có ra bản tin để phổ biến nội bộ. Anh em có mời tôi tham dự về việc đóng góp bài vở có tinh thần chống Cộng, có tinh thần xây xựng đường lối chung. Hình như đoàn nầy có lập danh sách gởi qua Hoa Kỳ xin làm hậu thuẩn cho lực lượng Liên Minh Hải Ngoại Phục Quốc (?). Ở trại tinh thần của anh em rất cao. Không biết sau khi tôi ra đi, đoàn nầy đã gặt hái được những gì ? Và, không biết LLLMHNPQ có chiếu cố đến những ước vọng của anh em không ?.
Riêng tôi mỗi tuần hay quan điểm. Ra trại chuyển tiếp hai ngày là gặp ngay mùa Phật Đãn. Bổn phận của chúng tôi là làm thế nào có nơi cho dân tỵ nạn chiêm bái ngày đại lễ dù bất cứ dưới hình thức nào. Bước đến trại mới, tôi quen biết không quá mười người. Đa phần là thanh thiếu niên. May có gặp gia đình của anh Điều và anh em Mậu, Lực với tâm đạo nhiệt thành, các anh sẵn sàng tiếp tay với tôi để chung lo cho ngày Phật Đãn. Các anh nầy đang chờ ngày ký vé máy bay đi định cư. Lúc đầu, chúng tôi định tổ chức đơn sơ trong phòng mà thôi. Gặp được hai anh trưởng phòng 101 và 102 trực tiếp tham gia. Họ ra tận văn phòng để xin mượn đèn, giây va bàn ghế. Nhóm của Mậu, Lực đi tận các phòng để cổ động xin ủng hộ tịnh tài. Ban đầu, trong nhóm có khoảng chừng mười hai người. Mỗi vi lớn nhỏ đều đóng hai mươi đồng tiền HongKong.
Có điều là : Ở Hương Cảng có rất nhiều chùa, có rất nhiều Tăng, Ni và đồng bào Phật Tử ; Phật Giáo cũng tương đối thịnh hành mà không có tượng sơ sanh của Đức Phật vẽ bằng giấy, không có cờ Phật Giáo in trên giấy. Mấy anh em ở đây lâu, biết nhiều nơi phát hành Phật cụ, vẫn không tìm ra được. Đi bất cứ tiệm nào cũng chỉ có tượng Phật bằng Đồng, bằng sành và bằng cẩm thạch. To có, nhỏ có. Cũng có rất đầy đủ về chuông mõ, lư hương, chân đèn.
Chỉ còn bốn ngày nữa là đúng ngày Rằm tháng Tư ta. Là ngày cử hành đại lễ chính thức. Thế nhưng, các anh em vẫn ngồi nhìn mặt nhau. Cuối cùng, tôi bảo :
- Anh Điều ra phố mua cho thầy một tờ giấy bìa màu trắng,cở lớn nhất, hai xấp giấy trắng nhỏ khổ 81/2x 11 và một ít vải vàng.
Lực tiếp :
- Tượng Phật không có thầy tính làm sao ?
- Thầy đang nghĩ chuyện để vẽ tượng Phật. Giả sử không được, dùng lá cờ vải thật lớn thật dài để làm lễ đài cũng không sao.
Còn các anh Mậu, Lực lo cho thầy về ánh sáng và âm thanh. Các anh Đôi, Sĩ, Danh, Minh thì lo mua color nước để vẽ cờ. Dũng, Tha và Hóa lo dọn bàn thờ… Cắt cử đâu đó xong xuôi, tôi cùng anh Nhơn trưởng phòng 101 ra văn phòng gặp ngay viên trại trưởng để xin phép.
Ông ta không những chỉ chấp thuận mà còn khuyến khích nữa.
Suốt đêm hôm ấy, tôi ngồi loay hoay để vẽ tượng Phật sơ sanh. Cũng nhờ vào tâm thành, nên tượng Phật tương đối dễ xem. Các anh em trong phần vụ vẽ lá cờ Phật Giáo, khổ nỗi ; trong lúc vẽ, chúng lo nói chuyện nhiều quá, không chú ý nên tô màu trên lộn xuống màu dưới, trông chẳng ra thể thống gì cả, mặc dù tôi đã cẩn thận ghi chú. Thế là tốn hao mất hết 200 tờ giấy.
Lấy kinh nghiệm, tôi không những đã viết màu từng ô một mà lại còn lấy một ít màu sơn trước để làm dấu. Các em cứ theo đó mà làm tiếp. Cờ xí xong xuôi. Nửa đêm bị mưa tạt, những lá cờ được vẽ từ lúc ban đầu bây giờ màu nọ qua màu kia, trông mà phát nản. Chỉ còn đúng một ngày nữa là cử hành đại lễ chính thức. Lá cờ lớn may bằng vải cũng bị lộn. Trưóc giờ đem ra treo cũng phải tháo ra từng mảnh để may lại cho đúng. Qua một đêm cả thầy lẫn trò thức suốt để lo cho lễ đài được thành tựu. Cả gian phòng 101 ồn ào, các cụ lớn tuổi không sao ngủ được. Tuy thế, các cụ cũng thông cảm cho chúng tôi.
Đại lễ Phật Đãn lần thứ 2523 được trang trọng ccủ hành tại lễ đài dựng sát bờ biển, trên một khu đất rộng gần phòng 101. Đúng 5 giờ chiều ngày rằm tháng tư. Phật Tử và quý đồng hương trong trại đua nhau đến dự lễ và chiêm bái lễ đài rất đông đảo. Đa phần là người Hoa, họ đến cầu nguyện và cúng Phật rất thành tâm. Hết lớp nầy đến lớp khác. Gần nửa đêm mà vẫn còn người đến hành lễ. Có những vị Ni Sư người Hoa đi tỵ nạn cũng đến tụng kinh bộ suốt hai ngày lễ. Hoa quả chất đầy chung quanh bàn Phật. Bàn Phật hết chỗ thì họ trải giấy ra và dâng hoa quả gần ngay bàn chuông mõ. Các phóng viên báo chí của các nước Anh, Pháp, Nhật, Hoa Kỳ và Hương Cảng đến quay phim và phỏng vấn. Đây là lần đầu tiên có lễ đài Phật Đãn tại khuôn viên trại.
Ban đầu mọi chi phí đều mượn đỡ của các anh Điều, Mậu và Lực. Trước khi làm lễ tạ Phật hoàn kinh, một lễ cúng phát chẩn thí thực cô hồn rất đông đồng bào tham dự Họ cũng đợi lễ tất để xin lộc Phật rất tự nhiên.
Cũng trong đại lễ nầy, anh Lực phát nguyện ăn trường trai để cầu nguyện cho gia đình đoàn tụ. Giai cầu tất ứng. Anh ta cũng được toại nguyện. Nhờ Hồng Ân Tam Bảo gia hộ, sau khi lễ xong, trừ những khoảng chi phí cho cuộc lễ, trả lại những số tiền đã mượn của các anh, ngân quỹ còn thừa được gần 500 đồng. Số tiền nầy được dùng vào việc may áo Phật Tử cho các em.
Chính nhờ ảnh hưởng của đại lễ Phật Đãn 2523, đã thức tỉnh được những người con Phật. Đã hâm nóng lại cho tuổi thanh thiếu niên trong tình lam khi xa quê. Chúng tôi đã đứng ra vận đông và thành lập được một gia đình Phật Tử gồm 80 em . Hệ thống tổ chức cũng tương tự như ở quê nhà. Màu lam hiền bắt đầu xuất hiện trong trại tỵ nạn. Anh Điều làm Gia trưởng, anh Sơn làm Liên đoàn trưởng. Anh Đại làm trưởng môn hoạt động thanh niên.
Các ngành cũng đầy đủ. Đa số là ngành thiếu. Tội nghiệp cho anh Đặng Văn Bờ, không phải là Phật Tử, nhưng vì tình cảm riêng tư với cá nhân tôi, anh đã phát nguyện ngồi may gần 60 bộ áo quần cho Phật Tử , đủ cả các ngành nam, nữ, thanh, thiếu và oanh vũ. Điều đặc biệt : Anh Điều nầy cùng với người cháu kêu bằng chú đã dùng một chiếc ghe nhỏ dài không tới 2mét50, chạy từ Đà Nẵng đến Hương Cảng. Khi cảnh sát làm giấy tờ, anh ta khai báo, họ chỉ biết lắc đầu và cười. Chúng tôi thấy chiếc ghe của anh dùng để vượt biên mà phát sợ. Anh nói :
- Sở dĩ tôi làm điều như vậy là vì đằng nào cũng phải chết. Tôi đã bị nhốt mấy tháng trời. Khi vượt ngục không biết trốn vào đâu, lấy đại chiếc ghe để chạy. Ra đến biển bị tấp vào bờ mấy lần nhưng không bị chìm. Cuối cùng được tới đây. Số là tôi chưa đến ngày chết. Anh ta thuật lại, ai ai cũng phát cười, nhưng rất thán phục.
Anh đến ở chung cùng trại với chúng tôi. Qua những lần tâm sự, anh vui lòng giúp đỡ cho gia đình Phật Tử. Tính tình rất ngay thẳng và tốt. Anh thường nói Đạo nào cũng hay, cũng tốt. Cũng dạy cho con người làm điều thiện, tránh điều ác. Chỉ có con người hành đạo có tốt, có xấu mà thôi.
Gia đình Phật Tử ở đây sinh hoạt rất đều đặn. Mỗi chủ nhật vào khoảng 2giờ 30’ chiều là đầy đủ các em. Thường thường thì sinh hoạt trong khuôn viên trại. Thỉnh thoảng thay đổi không khí, đưa các em ra ngoài công viên hay lên các chùa ở trên núi. Ra công viên để sinh hoạt thường bị cảnh sát tuần tra hỏi han. Dân chúng cũng lấy làm lạ. Họ không biết gì về tổ chức gia đình Phật Tử cả.
Chúng tôi có hỏi dân địa phương, họ trả lời chưa bao giờ được thấy hình ảnh như thế. Có lẻ đây là lần đầu tiên họ đưọc thấy. Cảnh sát công lộ hỏi chúng tôi rằng :
Đây là lực lượng gì ? Các anh ra đây có mục đích gì ? Chúng tôi không chấp nhận một tổ chức nào hoạt động nơi công cộng. Yêu cầu các anh dẫn các em về trại.
Chúng tôi phải giải thích đủ điều. Họ cũng không chịu hiểu, họ còn cho biết :
Các chùa ở Hương Cảng không có tổ chức đoàn thể, dù lớn hay nhỏ. Những người mộ đạo thì đi chùa lễ Phật, xin xăm, cầu phước, hay đàm đạo với các sư sãi trong chùa mà thôi. Còn các em, nếu có đi chùa thì chỉ theo cha mẹ. Cha mẹ làm sao con làm theo vậy.
Với những trình bày thiển cận và chơn thật của viên cảnh sát về Phật Giáo tại đây, chúng tôi mới thấy được rằng : Ở Hương Cảng, Phật Giáo chỉ là hình thức hơn là nội dung. Chùa chiền mặc dầu đồ sộ, nguy nga, chư Tăng đông đúc, nhưng chỉ sống gần như Lạc Ma Giáo hay Phù Chú Giáo không khác. Gần mười trường Bồ Đề từ tiểu học đến đại học mà không có hình bóng tu sĩ đứng ra đảm trách việc giảng dạy hay điều khiển. Đa số là nhân viên của chính phủ. Thậm chí cũng là trường Bồ Đề mà ngưòi ngoại tôn giáo làm hiệu trưởng. Chỉ có một đại học duy nhất, có hai vị tăng giảng dạy. Hai vị ấy là ngài Siêu Trần và ngài Tẩy Trần. Ngài Siêu Trần đã từng sống ở Chợ Lớn trên hai mươi năm, nhưng không nói được tiếng Việt, cũng không nói rành về tiếng Quảng mà chỉ nói tiếng Phổ thông (tức quan thoại). Ngài tâm sự với tôi là thuở thiếu thời, ngài rất khâm phục con người của Thượng Tọa Mật Thể, khi nghe tôi nhắc đến quý danh của Thượng Tọa. Hàng tháng cũng có một vài tờ báo nho nhỏ để phổ biến tin tức nội bộ của trường và của chùa.
Những lễ lớn như Phật Đãn, Vu Lan, tín đồ đi chùa rất đông. Họ đến lễ bái, cầu tài, cầu phước theo niềm tin riêng của họ hơn là học Phật…
Chùa nào cũng khói hương nghi ngút. Một đống vàng mả chất cao chót vót. Tôi nhìn đây như một cái đền dành cho số người mê tín dị đoan hơn là cảnh thiền môn dùng để tu niệm, một chốn già lam dành cho chư Tăng chơn tu thật học làm nơi trú xứ, làm giềng mối để xiển dương giáo lý Phật Đà, để nhiếp hóa quần sanh từ mê qua bờ giải thoát. Tôi nhìn khung cảnh nầy mà vừa tiếc, vừa tủi.
Tiếc là tôi không có được một nơi tương đối tự do, khang trang rộng rãi như thế nầy để tiếp tục làm tròn sứ mạng của một tu sĩ chơn chánh trong công cuộc hoàng hóa chúng sanh theo khả năng của mình.
Tủi là một xứ có đủ phương tiện để hướng dẫn quần chúng lại bỏ cái gốc theo cái ngọn. Bỏ cái chánh làm cái phụ. Họ không nghĩ rằng : Cúng vái chỉ là phương tiện, hướng dẫn tín đồ hiểu rõ giáo lý của Phật để sớm giải thoát cảnh sanh tử luân lồi là cứu cánh. Họ tin Phật qua hình thức cung kính, cầu phước, cầu cạnh, chứ họ không hiểu Phật về giáo lý tối thượng, trực chỉ chơn tâm, kiến tánh thành Phật. Những người truyền đạo chỉ mưu cầu lợi dưỡng theo phương thức cúng tế. Thậm chí nhiều lúc họ có thể tung hỏa mù với Phật Tử nhẹ dạ để hưởng lợi và che dấu cái dốt, cái thất học của mình trong biển Phật Pháp. Ngược lại, những người Phật Tử đi chùa chỉ nghe suông những gì các sư sãi hướng dẫn, không chịu nghiên cứu tường tận những gì Đức Phật đã dạy, những gì chư Tổ Tổ đã hành trì và thừa truyền. Đây cũng là một tệ hại chung cho Phật giáo không những chỉ tại Hương Cảng mà tất cả các nước trên thế giới nữa. Đây cũng là một lỗi lầm to lớn chung cho những người hành đạo cũng như học đạo. Tôi chỉ âm thầm thương tiếc cho hoàn cảnh của Phật Pháp đã đến hồi mạt vận.
Mỗi một lần hướng dẫn các em đi chùa, về đến trại là tôi đều có những nổi buồn mang mác. Tôi nghĩ về quê hương Việt Nam yêu dấu, trong những thập niên chấn hưng Phật Giáo đang trên đà phát triển mạnh từ trung ương cho đến địa phương, tháng tư đen đến che phủ cả miền Nam. Bao nhiêu công lao gầy dựng của thầy tổ nay trở thành hư vô. Không biết đến bao giờ mới dứt được cảnh điêu linh nầy. Đêm đêm nằm ngủ mà nước mắt lưng tròng. Thương cho thân phận quê hương và giáo hội đang gánh chịu cảnh lầm than khốn khổ. Tôi còn nhớ ngày ra khỏi trại chuyển tiếp được hơn một tháng, cũng là gần ngày húy nhật thân phụ của tôi ; đêm khuya thanh vắng, đốt nén hương, đứng cạnh bờ biển, mặt hướng về phương Nam. Vì nơi đó có quê hương của tôi, nơi đó có mái chùa thâm nghiêm và nơi đó có mái nhà tranh của song thân tôi…, tôi thầm khấn giữa hư vô mà nước mắt rà rụa. Dưới chân, sóng biển vỗ vào bờ, trên những phiến đá kêu lạch cạch. Vùng ánh sáng của thành phố Cửu Long chiếu rực cả một góc trời. Tôi cứ đứng nhìn về phương Nam ngút ngàn ấy mà không nói được câu nào. Càng về khuya, gió càng lạnh. Trở về phòng với một tâm hồn trống vắng của kẻ lưu đày xa xứ. Lúc nầy mới thấy được tình thương gia đình. Tình thầy bạn mới thấm thía và quý giá biết bao. Những ngày ở trại Shmshui-Po, tôi có ba công việc duy nhất : Một hướng dẫn giáo lý cho các em trong gia đình Phật Tử ; hai, đưa tiễn những gia đình lên phi trường đi định cư ở nước thứ ba ; ba là xin một số áo quần cũ lên phi trưòng để cho lại những thuyền nhân từ các trại Mã Lai, Thái Lan trong khi đi định cư được dần chân ở đây. Tôi đã từng chứng kiến những người đi định cư chỉ vỏn vẹn một bộ áo quần rách nát che thân, mang từ Việt Nam đến trại và từ trại qua đây. Hai chiếc dép mỗi chiếc một kiểu. Nam giới còn khả thứ, nữ giới thấy mà cảm động. Có nhiều cô thiếu nữ, tuổi vừa đôi tám trở lên, ra đi chỉ một tấm thân gầy ốm không có được một vật gì cầm tay. Tôi hỏi thăm ,cô trả lời :
- Nhà con nghèo, may nhờ lối xóm thương tình giúp đỡ cho đi với hai chỉ vàng. Qua đến trại, con không có áo quần. Con ở gặp phải cái trại xa thành phố. Mỗi khi tắm giặt thì nhờ áo quần của bạn bè thay tạm. Sau vài giờ bộ áo quần của con khô, con thay để trả lại cho bạn. Cứ thế mà con sống ở trong trại một năm ba tháng.
Tôi nghe cô kể như thế lòng đau như cắt, tôi chỉ chắt lưỡi thương thầm, vì tôi cũng tỵ nạn, tôi cũng thuộc loại nghèo có hạng, cũng nằm trong diện tứ cố vô thân. Từ đó, tôi nghĩ ra cách xin lại áo quần cũ để mỗi lần lên phi trường cho lại những người gặp cảnh thương tâm. Không một ngày nào mà tôi không có mặt trại phi trường quốc tế Hương Cảng với một túi đồ cũ, dù trong trại có người đi hay không. Một ngày như mọi ngày, ba công việc ấy rất đều đặn.
Trời Hương Cảng thường hay mưa. Tiện lợi cho người dân xứ nầy là xe buýt và chiếc dù. Phố xá san sát nhau. Những lúc xe buýt chật chỗ hay trong túi không có tiền, với chiếc dù ; tôi thả bộ từ trại lên phi trường hay từ phi trường trở lại, trên vai còn cõng một túi vải đựng đầy áo quần cũ. Ngày nào cũng phải về trại trước ba giờ chiều để lo nấu cơm cho một số anh em đi làm về có sẵn để ăn. Lý do mà tôi phải nấu cơm cho đến ngày đi Mỹ như vậy là vì : Tôi không có tiền ăn hằng ngày, nên phải chịu trách nhiệm nấu cơm để khỏi đóng phần ăn. Tôi bắt đầu làm công việc nầy từ ngày Liên Hiệp Quốc cắt giảm ngân sách. Cứ làm liên tục cho đến ngày rời trại. Tính ra chức vụ đầu bếp của tôi cũng hơn hai tháng. Trong trại, anh em Mậu thấy thế thương tình cho vài chục tiền HongKong để mua tem, giấy bút. Qua Mỹ, anh còn gởi về giúp đỡ. Cũng may, trước ngày định cư, các Phật tử : Hề, Xuân, Khôi, Giai và Đẩu có gởi quà về tặng, nên không túng thiếu. Đáng lý, tôi cũng đi xin việc để làm có tiền như mọi người tỵ nạn khác. Tuy thế, tôi thấy Phật tử trong trại cũng đông, niềm tin yêu Phật Pháp cũng khá. Tôi tự nghĩ : Mình đi vượt biên là đem cái thân còn lại ra hải ngoại để làm một cái gì đó cho Đạo, cho đời. Đâu phải, dùng cái thân nầy ra hải ngoại để đi làm, để đua chen với đời sống bên ngoài mong kiếm những của cải vật chất tầm thường. Đã là xuất gia thì cố gắng : xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo. Mình chịu đựng cực khổ một tí để giữ thanh danh cho đaọ. Chính tôi cũng hãnh diện rằng : Kể từ khi đặt chân xuống thuyền, cho đến ngày đi định cư, chưa bao giờ đầu tóc tôi dài quá hai phân. Bất cứ trường hợp nào, tôi cũng để cho cái đầu tôi nó trọc lóc. Có một số bạn rất thân, năn nỉ tôi phải mặc đồ thế tục, tạm để tóc mà hóa trang trong lúc vượt biên. Tôi bảo với bạn tôi rằng : Tôi sẽ tự lo liệu điều đó, các bạn yên tâm. Tôi biết, tuy là phương tiện, nhưng càng ít dùng phương tiện chừng nào thì tốt chừng đó. Theo tôi nghĩ : cái đầu tóc tu còn chưa xong, làm sao tu cái tâm. Cái tâm của mình tu hay không tu nào ai biết. Trước mắt tôi, cũng nhan nhãn tu sĩ dùng phương tiện cái đầu tóc ấy, bộ áo quần thế tục, nhưng khi cạo đi để làm tu sĩ trở lại mà hình như còn nuối tiếc. Thậm chí khi dùng phương tiện mang vào mình chiếc áo của thế tục, tóc tai dài lượt thượt, thế mà khi thấy người đồng đạo mặc áo giải thoát thì cho là đóng kịch cho là khùng… Tâm lượng như vậy làm sao mà xiển dương giáo lý tối thượng của đấng Chí Tôn ? Đem cái tư tưởng lợi dụng đạo pháp để mua danh, lợi dưỡng… Thử hỏi làm sao đem niềm tin cho mọi người được. Chính bản thân mình lo chưa tròn, làm sao làm việc đại sự. Chưa vào việc đã có âm mưu kết bè kết phái, làm sao kêu gọi đoàn kết ? Suốt đời xách cái thân bẩn thỉu chạy ngược chạy xuôi để cầu cạnh không biết nhục… Đã vậy, còn cất giọng quân tử với đạo đức.
Hơn bảy tháng ở Hương Cảng, đến ngày 19.09.1979, với một chiếc xắc nhỏ trên tay lên phi trường để sang Mỹ trong sự tiển đưa của bè bạn chung thuyền, của Phật Tử, của đồng hương và của ông ChuTrại Trưởng.
TRÊN ĐẤT HOA KỲ
Tôi được đặt chân lên đất Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 09 năm 1979. Chiếc máy bay 747 của hảng PAN AM đưa tôi từ Hương Cảng đến nhập cảnh tại Honolulu. Suốt hai mươi tiếng đồng hồ trên máy bay. Đến Los Angeles độ khoảng chừng 16giờ30’chiều. May mắn khi đến tại phi trường có thầy Tánh Thiện ra đón. Thầy làm cho chương trình đưa đón tỵ nạn. Một xứ văn minh nhất thế giới, một phi trường rộng rãi, bát ngát bao la nhưng tôi không cảm thấy lạc lỏng bơ vơ. Vì tôi đã gặp ngay một người vừa đồng hương vừa đồng đạo ; cõi lòng như ấm lại, một niềm an ủi chân tình cho dù đang mang cảnh lưu đày biệt xứ. Dù là xứ tự do, phương tiện vật chất đủ đầy, nhưng vẫn là của người. Chúng ta chỉ là những kẻ ăn nhờ, ở đỡ. Vì hoàn cảnh đen tối của đất nước, nên đành lòng uất nghẹn ra đi.
Sau khi thầy Tánh Thiện hướng dẫn đi nhận hành lý xong xuôi, cả hai cùng lên xe ra về.Con đường từ phi trường đến chùa Việt Nam nó chạy ngoằn ngoèo và dài lắm. Một vùng đất toàn nhà, xe và đường sá rộng rãi. Lên xe, cả hai cùng nói chuyện cho nhau nghe rất thân mật. Thầy Tánh Thiện thì biết trước là đi rước một vị tu sĩ. Còn tôi, từ Hương Cảng đến Nhật, từ Nhật đến Honolulu Rồi đến Los Angeles, chỉ biết là xuống phi trường chắc chắc có người ra đón. Tuy nhiên, tôi không nghĩ người đi đón tôi là một vị tu sĩ.
Lưu lại Los Angeles được mười tám hôm, gặp rất nhiều Phật Tử và đồng hương. Chủ nhật đầu tiên, tôi nói chuyện với đồng bào Phật Tử chùa Việt Nam, Los Angeles. Chủ nhật kế đó, tôi được Thượng Tọa Thích Trí Chơn, đương kim sáng lập chùa Vạn Hạnh và lãnh đạo tinh thần Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam tại San Diego, ngài đã đích thân lên tận chùa Việt Nam để thăm tôi và mời tôi về nói chuyện với đồng bào Phật tử. Khi trở lại Los Angeles, Thượng Tọa cũng đích thân đưa tiễn tận chùa Việt Nam. Phải công nhận Thượng Tọa Thích Trí Chơn là một người rất chân tình. Những ngày ở San Diego, Thượng Tọa Trí Chơn dẫn cho đi đó đây để xem phong cảnh. Những ngày tại Los Angeles, có bạn Hồng Quang cũng dẫn cho đi tham quan những danh lam thắng cảnh của miền Nam california.
Ngày 07 tháng 10 năm 1979, tôi lên đường nhận nhiệm vụ mới ở một tiểu bang có tiếng đẹp nhất về mùa Thu. Mùa của Aspen rụng. Một nhiệm vụ tôi chưa bao giờ gặp. Đó là lãnh đạo tinh thần của Cộng Đồng Phật Giáo Việt Nam ở Colorado, cũng như trú trì chùa Việt Nam. Và kể từ đây, tôi thật sự dấn thân với xã hội mới, với một việc làm mới và cộng tác với một giáo hội mới. Đây là một chức vụ quá lớn lao so với khả năng của tôi.
Tiễn chân tôi ra phi trường có Hòa Thượng Thích Thiên Ân, Thượng Tọa Thích Đức Niệm, thầy Trí Đức, thầy Đồng Trung và thầy Tánh Thiện. Trước khi lên máy bay Hòa Thượng Thiên Ân nói với tôi rằng : Có lẻ thầy cũng thuộc trường hợp đặc biệt, chứ đời tôi ít đưa đón ai. Ngay từ hồi còn ở quê nhà cũng thế, Thượng Tọa Thích Đức Niệm cười và tiếp :
Hòa Thượng nói đúng. Hòa Thượng nói chuyện rất vui với khuôn mặt hiền hòa. Một bậc danh tăng khoa bảng. Tuy thế ngài sống rất giản dị. Ngài vừa là sáng lập, vừa là viện trưởng lẫn giám đốc của viện đại học Đông Phương, cũng là một giáo sư dạy về triết học Đông Phương ở LACC, tại Los Angeles. Bên cạnh đó, ngài cũng là vị khai sáng ra chùa Phật Giáo Việt Nam, chùa A Di Đà và hội Liên Hữu Phật Giáo tại đây.
Đến Denver, Phật Tử và đoàn Thanh Niên Thiện Chí ra đón khá đông đảo. Một đêm không mền, không chiếu. Một đêm với chiếc nệm cũ đã lâu đời lâu kiếp với mùi hôi mốc đặt biệt.
Tôi làm việc ở đây được hai cái tết, một mùa Phật Đãn và một mùa báo hiếu. Tôi cố gắng nhờ chính quyền địa phương, nhất là ngành cảnh sát đã chận một đoạn đường để làm lễ đài, đưa Phật Đãn lên đài truyền hình cũng như báo chí của Denver Post. Tôi là người duy nhất nhờ ban quản trị hội đưa đi thăm tận những gia đình một, dù là Phật Tử hay đồng hương. Nhờ thế, những năm tôi làm việc tại đây, lễ nào cũng đông đúc. Không có sự phân hóa. Giang sơn quy về một mối. Ngày tôi đến nhận việc, quỹ điều hành chỉ có 175 đồng, đủ để trả một tháng tiền nhà cuối cùng trước khi giao trả nhà lại cho chủ, nếu không có vị sư về ở. Tiền quỹ xây chùa không quá 700 đồng kể cả tiền lời. Ngày tôi đi, quỹ điều hành gần 2,000.00 đồng. Quỹ kiến thiết chùa là 8,000.00 đồng. Điều đau buồn nhất là : Tôi vừa về làm việc tại Phật Học Viện Quốc Tế chưa đầy ba tháng, thì chùa bắt đầu chia năm xẻ bảy. Phật Tử từng nhóm ủng hộ phe nầy, phe nọ. Trung ương thì tìm cách lập vây cánh không đúng chỗ. Bao nhiêu vị đại diện cho Trung ương về đây tìm cách lập lại sự giao hảo cũng đều bất lực. Và từ đó, một tiểu bang chưa đến 10,000 dân tỵ nạn mà đã có đến bảy hay tám ngôi chùa.
Điều buồn cười hơn nữa là sau khi tôi rời nơi đây, nhiều vị kế thế, dù cùng chung một giáo hội mà có nhiều vị làm việc bất nhất. Trung Ương thì làm báo viết sách để vinh danh, tưởng niệm ; ngược lại, lãnh đạo tinh thần địa phương thì cố tình, đan tâm xóa tên một vị danh tăng đã trọn đời hy sinh cho Đạo Pháp và dân tộc, đã đón nhận một cái chết vô cùng bi thảm trong ngục tù Cộng Sãn như Hòa thượng Thích Thiện Minh. Tôi cũng không hiểu mấy người nầy làm lãnh đạo ở chỗ nào ?
Những lần tôi trở laị thăm, hay có duyên sự Phật Pháp, đa số Phật Tử đã hỏi tôi :
Kính bạch thầy. Thầy nghĩ sao khi chúng con đi chùa gặp hội họp, thì cấm không cho phát biểu, gặp bầu cử thì không cho tham gia. Thậm chí còn tìm cách đuổi ra khỏi chùa. Tuy thế chúng con vẫn im lặng và đóng góp theo khả năng sẵn có. Nhưng cái gì cũng đến một mức độ mà thôi, chúng con chịu đựng hết muốn nổi, đành lòng tìm một chổ tương đối độc lập để giữ đạo và hành đạo. Lúc ban đầu cũng tìm cách cấm đoán, ngăn chận rồi manh tâm phá hoại; nhưng không làm gì được, cuối cùng cũng khệnh khạng mò tới.
Tôi trả lời :
A Di Đà Phật. Cái đó, các con đặt vấn đề với đương sự. Các con hỏi lại cấp trên của các con. Bây giờ thầy là người thoát ra ngoài vòng cương tỏa.
Kính bạch thầy. Chúng con xin hỏi thầy : Tại sao trung ương làm lễ kỷ niệm ngài Thiện Minh hằng năm, tại địa phương chẳng những đã không tưởng niệm, lại tìm cách cho người vào vu khống để triệt hạ hình ảnh của Ngài ra khỏi bàn thờ. Thậm chí, thầy đã đặt cho đoàn chúng con là đoàn Thanh Niên Học Phật Thiện Minh, họ lại bắt chúng con phải đổi tên ?
Thầy đâu biết. Các con không thấy sao. Những ngày thầy làm việc ở đây, đã đem hết tâm nguyện và ý lực ra phục vụ giáo hội. Đem lại sự hòa đồng với các tôn giáo bạn. Đã từng đi lượm những chiếc loong nhôm để bán gây quỹ lập chùa. Ngày thầy được đương kim, lãnh đạo lẫn trú trì thỉnh thầy từ California về với tư cách chứng minh, nhưng các con có thấy các cấp từ trung ương cho đến địa phương, từ tăng cho đến tục, dùng âm mưu thâm độc một cách quá đê tiện và hèn nhác để hạ bệ thầy trước quần chúng. Đó là chưa kể những cái đốn mạc khác nữa. Nhưng họ làm được gì thầy đâu. Cuộc đời của họ cũng chỉ là những kẻ ăn nhờ ở đỡ.
Các con ơi ! Người xưa có nói :
Ngậm máu phun người miệng mình nhớp trước.
Bạch thầy. Chúng con thường nghe chư Tăng dạy rằng : Đối kinh điển như đối Phật, hoặc chúng con cũng thường được sự giảng dạy của quý thầy : Bất đắc ố thủ chấp trì kinh tượng … Chúng con không hiểu tại sao, xuất gia làm ông thầy từ lâu, chắc cũng đã được học những câu đó rồi, tại sao hội thỉnh kinh từ Phật Học Viện Quốc Tế về để trì tụng, đã không đọc tụng lại còn đem kinh Pháp Hoa thầy gạch lót chân giường mà nằm ? Thầy nghĩ sao về chuyện nầy ?
Thầy cũng chẳng nghĩ sao. Ai làm sai lời Phật dạy, thì tự lo lấy. Và, thầy cũng nhắc lại cho quý anh em biết một lần nữa là : Đức Phật đã từng dạy :
Ngụy tác Sa Môn, tâm phi Sa Môn là chỗ đó. Ngạn ngữ tây phương có câu :
Chiếc áo nhà tu không tạo nên một tu sĩ.
Bây chừ thầy nói ra để quý vị tu và cũng để cho thầy tu. Còn những người xem nhẹ Phật pháp như vậy, tùy các con, tùy mọi người nhìn vào mà thôi.
Riêng thầy. Thầy luôn tin vào luật nhơn quả mà đức Phật đã dạy. Thầy có tâm với đạo, hết lòng phục vụ đạo, cho dù gặp lao lý, gặp phong ba bảo táp, kể cả tính mạng chăng nữa, thầy cũng không sờn lòng. Đường ta ta cứ đi. Thầy làm lãnh đạo không cốt để lợi dưỡng yên thân, hay để kiếm chút lợi danh huyễn mà cốt đem hết khả năng, tâm nguyện ra phục vụ . Cứ nhìn việc làm của thầy thì rõ.
Tôi giảng cho chúng một hồi lâu, tất cả lấy làm hoan hỷ và vỗ tay cười. Tôi tiếp tục làm việc với tổ chức nầy một thời gian nữa. Lần lần tôi thấy chân tướng của cấp lãnh đạo hiện ra những đường nét bỉ ổi, những tâm địa thấp hèn không xứng đáng cho tôi cọng tác. Tôi đành lánh mình và bước qua một ngã rẽ khác. Tôi suy nghĩ : Nếu cứ tiếp tục ủng hộ một cách mù quáng, không những thân phân của mình làm con thiêu thân không đúng chỗ đã đành, lại vô tình tiếp tay nhận chìm thanh danh Giáo Hội Phật Giáo. Không khác gì đã trực tiếp làm tan nát hàng ngủ Phật Giáo tại hải ngoại.
Đáng lý, phần TRÊN ĐẤT HOA KỲ là một trường thiên đại đoạn của tác phẩm. Nhưng những ngày làm việc, những lần sinh hoạt chung ; tôi thấy chấp nhận thương đau hơn là giải thoát. Mục đích của tu niệm là giải thoát, là bình đẳng, là vô vị lợi…Tôi suy nghĩ : Nếu trở lại đời sống tự lập, làm thế nào có lợi cho đạo, cho đời ; đó cũng là một pháp môn phục vụ chúng sanh cúng dường chư Phật.
Chấp nhận độc hành. Không còn muốn nhìn thấy một tổ chức giáo hội như giáo sư Bùi Ngọc Đường trong tập Tiến Đến Thống Nhất do cư sĩ Quảng Phụng chủ trương, trang 62 có đoạn viết :
“…Muốn thấy được chư Tăng hòa hợp, muốn thấy đuợc giáo hội hợp nhất, muốn thấy đuợc một Phật Giáo Việt Nam cao đẹp, vừa chia xẻ những nỗi thăng trầm của dân tộc, vừa che chở mối nguy nan đến với tổ quốc. Tuyệt đối không còn nhìn thấy trạng huống của một thứ giáo hội cũng mang tiếng là Phật Giáo Việt Nam, nhưng manh múng tản mát, cục bộ trong mỗi tự viện, trong từng mỗi giáo phái, hùng bá với nhau, hơn thua nhau, tranh giành nhau cái lợi phù vân, cái quyền lực của cát bụi, bỏ mất đi cái hùng tâm, dũng khí nghìn đời của Phật Giáo, quên mất đi sự thăng trầm của dân tộc, cảnh tù đày chết chóc của thầy tổ, huynh đệ đang gánh chịu từng ngày, từng giờ ở quê nhà. Cái thứ giáo hội khi hành sự không vì nghĩa cả việc chung, mà chỉ muốn tô hồng, đánh bóng cái địa vị cá nhân và giáo phái của mình. Toàn thể Tăng, Ni, Phật Tử muốn lấy lại nền Phật Giáo chân chính, truyền thống lấy khổ đau lầm than của dân tộc làm khổ đau của chính mình; lấy sự thịnh vượng của dân tộc và tổ quốc làm một hạnh nguyện của chính mình…”
Bên cạnh đó, Thượng Toạ Thích Nguyên Đạt qua bài : Hướng Đến Một Giáo Hội Trong Lành Và Sáng Tạo trong Tập San Phật Học Viện Quốc Tế, trang 17 có đọan viết :
“…Trong khi đó, những ý thức quyền danh, cá tính hẹp hòi chưa thức thời tạo ra những ngăn cách trong tình huynh đệ đạo vị để hướng đến mục tiêu đồng nhất ý chí. Cụ thể những công tác Phật sự cho đến bây giờ vẫn mỗi người phát triển riêng rẻ và thậm chí hơn nữa, đôi khi kẻ nầy làm việc thì kẻ khác ngăn chận, tuyên truyền phá hoại lẫn nhau ; phải chi người cố ý là kẻ vô đạo thiếu hiểu biết, đàng nầy mang danh trí thức…” (Đoạn nầy, Thượng Toạ có dẫn chứng những nhân chứng). Và Thượng Tọa còn nhấn mạnh thêm một vài nét để thấy :
“. . . . Ở đây, tư bản được hiểu là cái nhân lãnh tụ Phật Giáo, nó đã không hội đủ những đức tính cần thiết, kế hoạch được xem là giáo lý Phật Đà không áp dụng đúng mức, quản lý là những bàn tay có khả năng, đều không đào luyện, và thị trường là quảng đại quần chúng không dựa vào nguyện vọng thầm kín, như vậy có gào thét, cố tình tạo ra những danh xưng to lớn ; tổ chức bánh vẽ, bao trùm thiên hạ, cũng chỉ là những kẻ hành động lẫn quẫn trong vũng bùn danh tướng, khi tự nó không hội đủ yếu tố tâm lý đại chúng trong một xã hội thực tiển, tiến bộ và trioinh độ hiểu biết phóng khoáng, dân chủ . . .”.
Việc làm của tôi kể kể từ khi đặt chân đến Hoa Kỳ, trong những giai đoạn vừa qua là muốn nhắm đến một Giáo Hội Phật Giáo tại xứ người trong tinh thần lục hòa như đức Phật đã răn dạy. Xây dựng Giáo Hội Phật Giáo tại hải ngoại tương đương như quê nhà, tôi nghĩ rằng : Công tác tối thượng và trọng đại nầy không phải cho riêng ai, của ai dù có khả năng và uy đức mà đãm trách được ; không thể có những đầu óc vị kỷ, hẹp hòi và lỗi thời theo kiểu sai khiến của hạng hủ nho quan liêu để tự lợi dưỡng. Tinh thần làm việc vắt chanh bỏ vỏ, đâm đằng sau lưng cán bộ. Thấy người làm được việc thì cho bộ hạ chạy quanh tung hô những chiêu bài : Đó là riêng tư ?
Thực tình mà nói, hiện giờ tôi cũng chưa hiểu thế nào là tư, thế nào là chung nữa chứ !
In kinh sách cho quảng đại quần chúng có giáolý Phật Đà để nghiên cứu và tu niệm là riêng ư ! Nuôi nấng và giáo dục mầm non cho đạo để mai sau có cán bộ cho đạo là riêng ư !
Chụm đầu nhau lại một chỗ để : Tụ đầu huyên huyên tạp thoại, mang pháp phục, đứng trước chánh điện kêu gọi Phật Tử và giới tử nhân ngày bát quan trai giới đóng tiền để có phương tiện in truyền đơn, làm báo để chống lại một giáo phái ; như vậy thử hỏi đã đúng với chánh pháp chưa ? Ở đời, người ta còn chưa nở làm chuyện đó, huống hồ mình là tu sĩ, là cán bộ của giáo hội. Đó mới là việc chung ư ! Củng cố phe phái để hạ bệ kẻ khác, làm việc cùng sở đem tâm lượng hẹp hòi, vị kỷ, bẩn thỉu phá người trên (viện trưởng, giáo sư…) thì thất điên bát đảo, dìm hồ sơ kẻ dưới (sinh viên, nhân viên đại học…) có những tăng sinh như Huệ Nghiệp…phải chịu cảnh đói cơm rách áo hơn sáu tháng trời và còn cho đó như là một thành công đắc ý ; xúi hạ những thuộc hạ giáo dục, thiếu học Phật viết thư rơi, viết thư nặc danh thì xem đó là những công tác chung ư ! Là phục vụ giáo hội ư !
Mãi đến bây giờ, thử hỏi tại Hoa Kỳ nói riêng và tại hải ngoại nói chung, không biết bao nhiêu ngôi chùa, bao nhiêu tu viện, tự viện, bao nhiêu hôi Phật Giáo dưới nhiều danh xưng khác nhau ; xem thử cái nào là cái nào là riêng (?).Và ai là người đã làm việc chung và ai là người đã làm việc riêng ? ? ?
Tìm về những thắc mắc nầy thật chính xác, lúc đó chúng ta kết luận được thế nào là chung, thế nào là riêng, là chia rẻ, là đoàn kết, là phục vụ, là làm mất thanh danh của đạo…
Càng nghĩ càng đau. Nhưng âu cũng là cái nghiệp. Cũng là thời mạt pháp tận thế, nên xuất hiện những loại ma quỹ hóa làm đệ tử Phật cả xuất gia lẫn tại gia làm tan nát con thuyền chánh pháp, làm tan nát hàng ngũ cán bộ các cấp của giáo hội.
Vì những ngần ấy thứ, tôi đành cho tác phẩm tạm chấm dứt ngang đây. Thứ nhất, không viết cho mọi chuyện được cuốn thêo chiều gió như những chiếc lá vàng cuối mùa được rơi rụng rồi cắm phập xuống đắt cho xong chuyện. Bởi vì, viết tức là nói lên cái trung thực của chính lòng mình, nói lên tất cả những gì tai nghe mắt thấy. Dù sao, tôi vẫn là người trong cuộc từ Việt Nam cho đến Hoa Kỳ. Tôi cũng đã từng tham gia, tham dự những công tác cùng những đại hội của tổ chức. Tôi cũng đã từng sát cánh, hết lòng cộng tác ; cuối cùng, phải chấp nhận sống cảnh thâm sơn cùng cốc. Sớm chiều vui thú kinh kệ trong đời sống đạm bạc.
Những vị đã từng cợng tác, hết lòng phò tá cũng tiếp theo tôi sau đó, đều rủ áo ra đi như : Thượng tọa Thích Thiện Thanh, Thượng tọa Thích Trí Chơn, Thượng tọa Thích Nguyên Đạt, Thượng tọa Thích Pháp Châu, Đại đức Thích Đồng Trng, . . . Cán bộ tại gia thì có giáo sư Trần Quang Thuan, giáo sư Bùi Ngọc Đường, Hồng Quang, Hoàng Phấn, giáo sư Hoàng Hà Thanh, . . . Và, còn nhiều, nhiều nữa. Các vị nầy cũng đồng than lên : Không ngờ, chúng ta lại có cái ngày cùng ra đi như thế nầy. Tất cả đèu có một nỗi ưu tư như nhau. Cũng đồng cmột sự thương tiếc cho tổ chức.
Hàng chu Tăng, vị nào ra đi cũng đều có nền móng vững chắc cho đạo, cũng đèu đem lại được niềm tin cho quần chúng.
Đó là chưa kể những thảm trạng biu đát của Thượng tọa Thích Đức Niệm và Phật Học Viện Quốc Tế.
Nhưng thôi, phút qua rồi chỉ là phút thương đau. Có nói gì chang nữa thì chuyện cũng đã xảy ra như thế. Những người đồng cảnh ngộ đều chấp nhận sống âm thầm để lo cho đạo, cho đời.
Thứ hai, như đẻ cho có viết, đùng viết còn hay hơn. Nói như Đại văn hào Nhất Linh :
- Để lịch sử xử.
Mong rằng : Quý độn giả hoan hỷ cho nhũng gì ở đoạn sau nầy không được vừa lòng, mãn ý. Nếu hoàn cảnh chẳng đặng đừng, tôi sẽ lấy những dữ kiện, những tài liệu hoặc hữu danh hoặc vô danh để ghi lại cho tác phẩm mới.
Hiện Tình Phật Giáo Việt Nam. Thích Tín Nghĩa
Chú Đại Bi Lược Giải . Thích Tín Nghĩa
Cốt Tủy Nghi Lễ Phật Giáo . Thích Tín Nghĩa
Từ Đàm Quốc Nội Quốc Ngoại . Thích Tín Nghĩa
Trúc Lâm Thiền Phái Tại Huế . Thích Tín Nghĩa
Nghi Thức Chẩn Tế Cô Hồn . Thích Tín Nghĩa
Hiền Lương Chí Lược Tân Biên . Thích Tín Nghĩa
Thiền Môn Văn Điệp (Hán Văn) . Thích Tín Nghĩa
Kỷ Yếu Khánh Thành và Đại Hội. Tín Nghĩa
Kỷ Yếu Tổng Vụ Cư Sĩ. Tín Nghĩa
Tưởng Niệm Ôn Mật Hiển. Tín Nghĩa
Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập. Thích Tín Nghĩa
Nghi Thức Tụng Niệm Đặc Biệt . Thích Tín Nghĩa
Nghi Thức Phổ Thông. Tín Nghĩa
Nhơn quả. Thích Tín Nghĩa
Tổ Liễu Quán. Thích Tín Nghĩa
Ba ngày rằm. Thích Tín Nghĩa
Tách trà còn nóng. Thích Tín Nghĩa
Đạt Ma Huyền Trang. Thích Tín Nghĩa
Pháp khí và Pháp phục. Thích Tín Nghĩa
Những Bước Chân Đi Qua. Thích Tín Nghĩa
Vulan nghĩ về Đấng Sinh Thành Thích Tín Nghĩa
Tình pháp lữ giữa tôi và HT Thiện Trì. Thích Tín Nghĩa
Những kỷ niệm với HT Thích Đức Niệm. Thích Tín Nghĩa
45 Ngày Du Hóa Âu Châu. Thích Tín Nghĩa
Ảnh Hưởng Thiền với Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam. Thích Tín Nghĩa
Những Dấu Mốc Trong Hơn Nửa Thế Kỷ Qua. Thích Tín Nghĩa
Mấy Mùa AN CƯ . Thích Tín Nghĩa
Một Kỷ Niệm Khó Quên Với, Ôn Huyền Quang . Hậu học, Thích Tín Nghĩa
Ôn Già Lam . Điều Ngự Tử, Thích Tín Nghĩa
Hình ảnh, Thích Tín Nghĩa
An Cư là Một Tuyệt Tác của Tăng Già Hòa Hợp và Thanh Tịnh Điều Ngự Tử, Thích Tín Nghĩa
Chiếc Xe Đạp - Điều ngự tử Tín Nghĩa
TU - Điều ngự tử Tín Nghĩa
Kỷ Yếu Cư Sĩ và Sự Thật Vùng Đất La Vang Điều ngự tử Thích Tín Nghĩa
Những Vần Thơ Xuân Điều ngự tử Thích Tín Nghĩa
Những Tác Phẩm Điều ngự tử Thích Tín Nghĩa
Nguồn Gốc Về Nguồn Thích Tín Nghĩa
Vu Lan nhớ về : Thần Lực Chúng An Cư Thích Tín Nghĩa
Tình Pháp Lữ : TÍN NGHĨA - TRÍ HIỀN :Thích Tín Nghĩa
Lần Đầu Tiên Đến Xứ Úc: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
Bóng Thời Gian: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
Hòa Thượng Xe Bus: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
Một Chữ: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa