PHÁP KHÍ và PHÁP PHỤC
Thượng tọa THÍCH TÍN NGHĨA
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn. Pháp khí là những đồ dùng trong chùa nhưng đúng với Phật pháp như chông mõ, khánh, tang đẩu, linh, chung cổ, v.v... . Pháp phục là những y phục dành cho trong nhà chùa, cũng có thể cho hàng phật tử tại gia nhưng có thọ giới pháp của Phật. Có những cái đã có từ khi đức Phật còn tại thế như Y, Bát, ... có những cái sau nầy chư tổ mới tùy duyên mà sáng chế ra tùy theo quốc độ, tùy theo phương tiện như tích trượng, chuông mõ, khánh, bảng, đại hồng chung...
Pháp khí có những cái liên quan đến cổ nhạc Phật giáo, nhưng có những cái dùng trong thường ngày.
Hầu hết những vị xuất gia hay tại gia tùy theo tông phái khi tụng kinh, bái sám, hành lễ đều ít nhiều có dùng đến những pháp khí nói trên. Và, cũng tùy theo buổi lễ để xử dụng cho đúng chỗ và đúng điệu của nó. Một bài tán hương cúng Phật được cử lên, ta đã thấy những cung điệu thật nhịp nhàng với nhau một cách tuyệt diệu. Bài tán là một bài thơ Phật pháp được phổ theo điệu nhạc thiền. Nếu bài thơ được phổ dồn dập lời nhạc thì được gọi là tán xấp, nếu phổ theo điệu nhạc lơi thì được gọi là tán rơi. Và, khi ta đi vào bằng một tâm hồn thiền học thì ta thấy những âm ba ấy làm cho cõi lòng ta an nhiên tự tại và cảm thấy thanh thoát. Vì giá trị văn thơ và triết lý của bài thơ đã là cao sâu, nốt nhạc để diễn tả những vầng thơ ấy lại càng thấm hương vị thiền rất là sâu sắc.
Viết về cổ nhạc Phật giáo, nhạc sĩ Nguyễn hữu Ba đã nói : “Trong âm nhạc giữa đời, chúng ta nghe có điệu như máu sôi, như lửa cháy, như quỷ khốc thần sầu, có khúc như say đắm dâm ô, như reo cười múa hát. Thật ra, âm nhạc tượng trưng cho cảnh vui buồn tương đối của trò đời giả dối vậy.
Trái lại, âm nhạc nhà Phật là phản ảnh của đời sống an lạc, đạm bạc tâm hồn bình dị thanh khiết, của đạo mầu giải thoát khổ đau... Nội tâm thì bình tĩnh an vui, ngoại cảnh thì thanh thoát hồn nhiên, nên âm nhạc nhà Phật đã thấm nhuần tinh thần thoát tục siêu phàm, không vướng chút gì gọi là ưu sầu phiền lụy.
Ở đây có những nét nhạc lung linh như nến, uyển chuyển như khói trầm, nhẹ nhàng như hương sen, có những nét nhạc sáng sủa như vàng, huy hoàng như vàng son điện tháp, có những nét nhạc trầm hùng và tỏa rộng như chuông chiều, oai nghiêm như đại cổ...”.
Vậy thì, muốn dùng lễ nhạc Phật giáo đều cần những pháp khi như :
1.- Chuông :
Xuất xứ : Theo như trong kinh Tăng nhất A hàm có chép: Mỗi khi nghe tiếng chuông ngân lên, thì các hình phạt trong các ác đạo tạm thời dừng nghỉ, chúng sanh nào đang chịu những hình phạt ấy cũng được tạm thời an vui. Nghe được tiếng chuông là phiền não nhẹ vơi đi.
Trong chuyện Cảm Thông cũng có chép rằng :
“Ngày xưa khi đức Phật Câu lưu Tôn ở tại viện Tu đa La xứ Càng Trúc đã có tạo một quả chuông bằng đá xanh, thường vào lúc mặt trời vừa mọc khi tiếng chuông ấy vừa ngân lên thì trong ánh mặt trời ấy có các vị Hóa Phật hiện ra, diễn nói 12 bộ kinh, làm cho người nghe được chứng thánh quả không kể xiết”.
Trong bộ kinh Kim cang Chí cũng có chép : “Vua Hiếu Cao Hoàng đế đời nhà Đường, nhân vì nghe lời sàm tấu của Tống tề Khưu mà giết lầm kẻ tôi trung tên là Hòa Châu, nên khi chết đọa vào địa ngục. Một hôm có một người bị bạo tử (chết thình lình) thần hồn đi lạc vào địa ngục ấy, thấy một tội nhân đang bị gông cùm, bị kềm kẹp đánh đập rất là khổ sở, hỏi ra thì mới biết là vua Hiếu Cao nhà Đường. Vua gọi vị bạo tử ấy vào mà nói rằng: Nhờ người trở lại dương thế nói giúp với hậu chúa ta rằng: Hãy vì ta mà đúc chuông cúng dường, và làm các việc từ thiện. Khi trở lại dương thế, người bạo tử liền đến yết kiến hậu chúa để chuyển lời nhắn nhủ của vua Hiếu Cao. Nghe vậy, hậu chúa liền thân hành đến chùa Thanh Lương phát nguyện đúc một quả chuông để cúng dường và cầu siêu cho Hiếu Cao Hoàng đế." (Tích nầy trong truyện Bá trượng Thanh quy, trang 68 và 87). Đồng thời trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật cũng bảo ngài La hầu La đánh chuông để giảng cái lý thường cho Tôn giả A Nan nghe. Vì thế ta có thể hiểu rằng chuông đã có từ thời đức Phật còn tại thế.
Các loại chuông: Chuông lớn thường gọi là Đại hồng chung, chuông nhỏ gọi là Bảo chúng, chuông gia trì cũng có loại lớn, vừa và nhỏ...
a.- Đại hồng chung : Cũng có tên là chuông u minh (mờ mờ, mờ mịt), thường được đánh vào lúc đầu hôm gần sáng.
Tiếng chuông đánh đầu hôm là nhắc nhở cho mọi người biết rằng cơn vô thường đến với chúng ta không hứa hẹn, rất ngắn ngũi, nhanh chóng. Đánh vào lúc ban sáng là nhắc nhở cho mọi người cố gắng tinh tiến tu hành để mau vượt thoát ra khỏi cảnh đau khổ, không vướng mắc cảnh tội lỗi và dễ dàng ra khỏi cảnh luân hồi sanh tử. Thông thường mỗi lần thỉnh chuông như thế là phải 108 tiếng với mục đích là khuyến tấn vạn loại hữu tình mà đặc biệt là con người cố gắng đoạn trừ 108 phiền não căn bản. Mỗi lần thỉnh chuông được đọc lên những câu kệ để chú nguyện theo tiếng chuông.
Nguyện thử chung thanh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn,
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhất thế chúng sanh thành chánh giác.
Nghĩa là :
Nguyện tiếng chuông nầy vang khắp pháp giới,
Núi Thiết vi mờ mịt kia cũng đều được nghe,
Căn cảnh thanh tịnh chứng bậc viên thông,
Hết thảy chúng sanh thành bậc chánh giác.
Đồng thời, nguyện cho tất cả loài hữu tình lắng lòng nghe tiếng chông, rồi duyên theo tiếng cũng bằng câu kệ :
Văn chung thanh phiền não khinh,
Trí huệ trưởng, bồ đề sanh,
Ly địa ngục, xuất hỏa khanh,
Nguyện thành Phật độ chúng sanh
Án già ra đế da tóa ha. (3 lần)
Nghĩa là :
Nghe được tiếng chuông, phiền não liền nhẹ,
Trí huệ thêm lớn, sanh tâm bồ đề,
Ra khỏi địa ngục, vượt thoát hầm lửa,
Nguyện được thành Phật, để độ chúng sanh,
Án già ra đế da sa ha (3 lần)
Tiếng chuông sớm hay tiếng chuông chiều không những chỉ để cảnh tĩnh cõi dương mà còn hướng dẫn cho cõi âm nữa. Vì thế mà thường gọi là chuông U minh.
b.- Bảo chúng : Cũng gọi là chuông Tăng đường, tức là chuông nhỏ, hình thái như đại hồng chung, được treo ở trai đường, dùng để báo tin trong lúc họp chư Tăng biết vào những lúc: Nhóm chúng, thọ trai, giờ chấp tác, giờ bái sám trong các tự viện.
c. Chuông gia trì : Loại chuông nầy dùng để đánh lên trong lúc tụng kinh bái sám. Tiếng chuông gia trì được xử dụng trước khi tụng kinh hay báo hiệu sắp hết đoạn kinh đang tụng hay câu niệm Phật.
Cũng thường dùng để đánh lên khi lạy Phật một mình. Còn khi có đông người thì để báo hiệu cùng lạy cho nhịp nhàng. Chuông nhỏ thường để cho hàng Phật tử tại gia bái sám nh iều hơn.
2.- Trống :
Xuất xứ : Trong kinh Kim Quang Minh có chép: Một hôm người Tín trưởng Bồ tát nằm mộng thấy một cái trống bằng vàng. Trống ấy có chiếu ra hào quang sáng rực như mặt trời. Trong hào quang có rất nhiều đức Phật đang ngồi trên tòa sen lưu ly đặt dưới những gốc cây quý. Chung quanh các đức Phật đều có trăm nghìn ức vị đại đệ tử đang ngồi nghe pháp. Lúc ấy có một đạo sĩ Bà la Môn đang cầm dùi trống đánh mạnh vào chiếc trống vàng, tiếng trống vang rền nghe như lời kinh sám hối. Khi đã tỉnh mộng, ngài Tín trưởng Bồ tát liền đem những điều mà mình đã thấy nghe trình lên đức Thế tôn.”.
Trong kinh Lăng nghiêm cũng có chép: Đức Phật dạy : "Này A nan, người hãy nghe tiếng trống mỗi khi dọn cơm xong, nghe tiếng chuông mỗi khi nhóm họp đại chúng trong tịnh xá Kỳ đà nầy. Tiếng trống hoặc tiếng chuông ấy trước sau nối tiếp nhau. Vậy, theo ý ông, mỗi khi ông nghe được các thứ tiếng ấy là vì nó tự bay đến bên tai ông, hay tai ông đến nơi chỗ phát tiếng ấy ?” (Đây là lúc đức Phật chỉ cái Tâm cho ngài A nan).
Trống có hai loại : Trống đại và trống tiểu.
a.- Trống lớn : Dùng để đánh vào những dịp lễ lớn. Trống lớn thường gọi là Trống Bát nhã. Đánh trống lớn có bài kệ của nó. Tiếng trống tượng trưng cho chánh pháp. Chúng sanh mỗi khi nghe tiếng trống chánh pháp ấy thì tội chướng được tiêu trừ và cũng nhờ đó mà được giải thoát vào cảnh giới an lạc. Vì khi nghe được tiếng trống Bát nhã, tùy loại chúng sanh mà thâm nhập tiếng trống và có thể nương vào tiếng trống mà cảm nhận được dung nhan của chư Phật. Tiếng trống Bát nhã đánh lên để cúng dường và cung thỉnh Phật đăng bảo tọa.
Cho nên có bài kệ như sau :
Bát nhã hội (ba lần),
Thỉnh Phật thượng đường,
Đại chúng đồng văn,
Bát nhã âm,
Phổ nguyện pháp giới,
Đẳng hữu tình,
Nhập Bát nhã,
Ba la Mật môn...
Nghĩa là :
Hội Bát nhã,
Thỉnh Phật thượng (giảng) đường,
Đại chúng đều (được) nghe :
Âm Bát nhã,
Vang khắp pháp giới,
Chúng hữu tình (vân vân),
(Đều nhập) lý Bát nhã,
Chứng (pháp môn) Ba la mật.
b.- Trống tiểu : Dùng để đánh mỗi khi tụng kinh nên cũng được gọi là trống kinh (tiếng bình dân gọi là trống cơm). Ngoài việc dùng để đánh lên để tụng kinh hằng ngày vào hai thời công phu khuya và chiều trong các tự viện, trống tiểu còn dùng để hòa âm trong cổ nhạc Phật giáo và cổ nhạc Việt nam. Trống tiểu thì khó đánh hơn trống lớn. Bài học để xử dụng cho trống tiểu rất nhiều, phức tạp và khó học. Có rất nhiều thể điệu khác nhau như là thể điệu thiền khi tụng kinh, thể điệu ai khi dùng vào đám táng... Nếu không học thì không thể xử dụng được.
3.- Mõ :
Xuất xứ : Trong bộ sách Sắc tu Thanh quy Pháp khí về chương mộc ngư có chép rằng: Lời tương truyền: Loài cá luôn luôn thức không bao giờ ngủ và rất hoạt động. Vì vậy khi tạo loại pháp khí nầy thì mõ được chạm trổ theo hình con cá với thâm ý là muốn thức tĩnh con người cũng như chúng hữu tình đang còn trong cơn mê muội, u trầm.
Trong sách Chính ngôn đời nhà Đường thì chép: Có một người bạch y đến hỏi một vị Trưỡng lão ở Thiên trúc rằng: Tại sao các Tăng xá đều có treo mõ ?
Vị Trưởng lão trả lời rằng :
-. Vì để cảnh tĩnh chúng Tăng tại Tăng xá hay tự viện ấy.
Người bạch y lại hỏi tiếp :
-. Nhưng tại sao lại tạc hình con cá ?
Vị Trưởng lão không trả lời được. Người bạch y lại hỏi ngài Hộ Biện và được ngài giải thích rằng :
-. Cá là loài không bao giờ nhắm mắt và thích hoạt động. Cũng vì muốn cho người tu hành ngày đêm quên ngủ, gắng công tu tập, mau chứng đạo quả nên treo và đánh mõ và cái mõ được tạc hình con cá vậy.”.
Mõ có hai loại: Mõ có hình bầu dục và mõ có hình điếu. Tất cả đều được tạc theo hình con cá.
-. Mõ hình bầu dục dùng để tụng kinh, điều khiển buổi lễ khi đông người tụng được nhịp nhàng.
-. Mõ hình điếu thì treo ở nhà trù dùng để báo hiệu khi thọ trai hay chấp tác. Ngoài ra, cũng có một loại mõ rất nhỏ dùng để chư Tăng đi kinh hành gọi là đi nhiễu Phật. Tiếng mõ vừa giữ cho buổi lễ được trang nghiêm lại vừa giữ cho tâm hồn khỏi tán loạn trong khi hành lễ. Bởi thế, người đánh mõ gọi là Duyệt chúng, tên nầy có nghĩa là làm đẹp lòng mọi người trong lúc cùng tụng kinh với nhau. Đánh mõ cũng phải học hẳn hoi, đúng điệu và đúng cú pháp của nó.
Ý Nghĩa Về Chuông Mõ :
a.- Trước tiên đánh ba tiếng (tiên khởi tam)
b.- Kế nhịp bảy (thứ lôi thất)
c.- Tiếp đánh ba tiếng (tịnh đả tam)
d.- Giữa đánh mười (trung đả thập)
e.- Sau cùng dứt bốn (hậu diệt tứ)
*.- Trước đánh ba tiếng : Nghĩa là chúng sanh do ba nghiệp thân khẩu ý tạo tác mọi điều ác, sau sẽ đọa vào ba dường dữ: địa ngục, ngạ quỹ và súc sanh. Nhưng cũng có nghĩa là cố trừ ba độc: tham, sân và si để vượt lên ba giải thoát để chứng đắc ba đức: Pháp thân, Bát nhã thân và Giải thoát thân. (Phần nầy sau nầy giảng lượt đi nên không mấy ai biết đến. Chúng tôi viết ra đây cho đủ, vì là tài liệu).
*.- Kế tiếp nhịp bảy tiếng : Đây là tiêu biểu cho thất chi tội. Về thân thì có ba: Sát, đạo và dâm. Về khẩu thì có bốn: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu. Sau khi đã đoạn trừ được bảy tội nêu trên liền chứng được thất giác chi: Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, trừ, xả, định và niệm.
*.- Và đánh tiếp ba tiếng : Là phát nguyện tu tam học tức là giới, định và tuệ để quyết chứng cho được ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát.
*.- Giữa đánh mười tiếng : Đó là tiêu trừ mười điều ác gồm thất chi tội cọng thêm của ý có ba là mười, từ đó chứng nhập mười thân gồm: Bồ đề thân, nguyện thân, hoá thân, lực thân, trang nghiêm thân, oai thệ thân, ý sanh thân, phước thân, pháp thân và trí huệ thân. (Phần nầy, sau nầy giảng lượt đi, không mấy ai dùng đến và cũng không mấy biết để ý đến. Chúng tôi viết ra đây là vì tài liệu nghiên cứu, phải làm cho đầy đủ mà thôi.).
*.- Sau cùng dứt bốn tiếng : Tức là để tiêu trừ bốn tướng: Sanh, lão, bệnh và tử để chuyển thành bốn trí:
+ Thành sở tác tri: Tiền ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân),
+ Diệu quang sát tri: Đệ lục ý thức,
+ Bình đẳng tánh trí: Đệ thất Mạc na thức,
+ Đại viên cảnh trí: Đệ bát A lại da thức.
4.- Khánh và Bảng :
Xuất xứ : Bảng và Khánh là một trong những thứ pháp khí của nhà Phật. Hai loại nầy được thường dùng trong ngày ở các chùa, viện. Từ xưa đến nay đều dùng làm hiệu lệnh như báo tin giờ học, tụng kinh, thọ trai, chấp tác của chư Tăng.
Trong sách Tượng khí Tiêu, quyển 18 có chép rằng: Ngài Vân Chương nói: Hình của Bảng giống như đám mây, nên người ta cũng gọi la Vân bảng. Còn theo lão Hòa thượng Tục sư có thuật chuyện vua Tống thái Tổ cho rằng: Tiếng trống hay làm giật mình người ngủ, nên thay vì dùng trống, Tống thái Tổ chế ra thiết khánh. Loại khánh nầy cũng được gọi là Vân bảng. Vì hình của nó cũng giống như hình cánh dơi trên bề lưng lẫn bề mặt có đám mây qua lại, loại nầy có nơi gọi là chinh (chiêng).
Cách chế tác và xử dụng: Theo ngài Vân Chương trong sách Tượng khí Tiêu thì hình của Bảng giống như đám mây và làm bằng đồng, thiết. Nhưng nay ở các tòng lâm, tự viện thì dùng bằng gỗ và được chạm trổ theo hình bán kính bát giác. Bề cao khoảng chừng bốn tấc tây, rộng chừng hai tấc tây. Bảng cũng được thay thế cho trống trong những trường hợp nói trên, đồng thời cũng dùng để phân phát đồ cúng dường hay phân xử việc của chúng Tăng .... Bảng và Khánh trong luật được gọi là Kiền Chùy Thành. Cách dùng không khác nhau, chỉ khác nhau về hình tướng và vật liệu chế tác. Ngày xưa thiết và đồng còn khan hiếm nên chư tổ đã dùng bằng đá cẩm thạch. Tiếng kêu cũng tương tự như khánh đồng, nhưng nhỏ tiếng hơn. Ngày nay các tòng lâm lại ít dùng Khánh mà dùng Bảng nhiều hơn.
5.- Y :
Tàu dịch là Ca sa tức là hoại sắc, bất chính sắc. Dùng để cho chư Tăng mặc. Những vị được chính thức có Y kể từ khi đã thọ giới. Sau khi đắc giới, giới sư quyền thừa chư Phật để truyền Y cho giới tử. Y cũng có nhiều bậc khác nhau.
Người thọ mười giới tức là Sa di giới: Vị nầy bắt đầu chính thức được ở trong hàng ngũ xuất gia. Những vị thọ mười giới thì chỉ được phép mặc (mang) chiếc Mạng Y là những chiếc Y không có mạng (miếng) nhỏ, tức là Y không có Điều.
Khi mặc Mạng y có bài kệ và chú như sau :
Đại tai giải thoát phục,
Vô tướng phước điền y,
Phi phụng như iới hạnh,
Quảng độ chư quần sanh.
Nghĩa là :
Lớn thay áo giải thoát,
Là ruộng phước không tướng,
Mặc kính đúng giới hạnh,
Rộng độ hết chúng sanh.
Nam mô Ca sa tràng Bồ tát ma ha tát (ba lần)
Vị thọ Cụ túc giới cũng gọi là Tỳ kheo giới : Được mặc những chiếc Y có những miếng vuông, thường gọi là Điều Y.
Y nầy có ba loại khác nhau :
-. Áo mặc ở ngoài gọi là Tăng già lê,
-. Áo mặc ở giữa gọi là Uất đà la tăng,
-. Áo trong, áo lót gọi là An đà hội.
Chiếc áo Tăng già lê cũng có các bậc khác nhau như :
Ngũ điều y, thất điều y và đại y.
*.- Chiếc Y có năm miếng thì gọi là Ngũ điều. Khi mặc chiếc Y nầy thì đọc kệ chú và phát nguyện :
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Thế thế bất xả ly.
Án tất đà da tóa ha (3 lần)
Nghĩa là :
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Nay con đầu đội nhận,
Đời đời không lìa bỏ.
Án tất đà da tóa ha (3 lần)
*.- Chiếc Y có bảy miếng thì gọi là Thất điều. Khi mặc chiếc Y nầy cũng đọc kệ chú và phát nguyện :
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Ngã kim đảnh đới thọ,
Thế thế thường đắc phi.
Án đọ ba độ ba tóa ha (3 lần)
Nghĩa là :
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Nay con đầu đội nhận,
Đời đời thường được mặc.
Án độ ba độ ba tóa ha (3 lần)
-. Chiếc Y từ 9 Điều trở lên 25 điều (miếng vuông), thì được gọi là Đại y. Đại y cũng có ba bậc:
-. Chiếc y có 9 miếng, 11 miếng, 13 miếng thì gọi là Hạ đai y.
-. Chiếc Y có 15 miếng, có17 miếng, 19 miếng thi gọi là Trung đại y.
-. Chiếc y có 21 miếng, 23 miếng, 25 miếng thì gọi Thượng đại y.
Khi mặc (thiền môn gọi là đắp) ba chiếc Đại Y trên đây cũng đọc kệ, chú và phát nguyện:
Thiện tai giải thoát phục,
Vô thượng phước điền y,
Phụng trì Như lai mạng,
Quảng độ chư chúng sanh.
Án ma ha bà ba tra tất đế tóa ha (3 lần)
Nghĩa là :
Lành thay áo giải thoát,
Áo ruộng phước vô thượng,
Vâng giữ Như lai mạng
Rộng độ hết quần sanh.
Án ma ha bà ba tra tất đế tóa ha (3 lần)
Những chiếc Y nầy đã có từ đời đức Phật. Chiếc Y đầu tiên được cúng dường cho chư Tăng là chiếc Y của bà Di mẫu của đức Phật (tức là bà Kiều đàm di vị Tỳ kheo ni đầu tiên)..
Y của chư Tăng được gọi rất nhiều tên: Hoại nạp phục, Hoại sắc phục, Pháp phục, Pháp y, Ứng pháp diệu phục, Liên hoa phục, Giải thoát phục, Giải thoát tràng tướng phục, Xuất thế phục, Ly trần phục, Vô cấu phục, ... Nói chung là Ca sa tràng Như lai, nghĩa là áo của chư Phật, chính là lòng nhu hòa nhẫn nhục như trong kinh Pháp hoa đã dạy.
6.- Bát :
Xuất xứ : trong kinh Phật bổn hạnh có nói: Khi đức Phật còn tại thế, có hai thương gia là Đế ly phú bà và Bạt ly ca đều ở phía bắc Ấn độ. Hai vị nầy, một hôm đem sữa cúng dường đức Phật, nhưng đức Phật không có đồ đựng. Lúc bấy giờ có bốn vị thiên vương đem bốn cái bát bằng vàng đến dâng cúng đức Phật để đựng sữa, ngài không nhận. Bốn vị thiên vương ấy lại trở về đem bốn cái bát khác cũng có đủ các loại quý như: ngọc, ngà, xa cừ, ... để dâng cúng đức Phật, ngài cũng không nhận. Sau cùng bốn vị ấy đem dâng cúng bốn cái bát khác bằng đá, đức Phật rất hoan hỷ.
Ý nghĩa : Chữ Bát, tiếng Phạn gọi là Bát đa la, Tàu dịch là Ứng lượng khí. Nghĩa là đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người.
Bình bát chỉ được làm bằng đá, bằng sành, bằng đất sét nung thật chín rồi tráng men bên trong cho khỏi rĩ nước, chứ không được làm bằng vàng bạc hay các kim khí quý... Nếu dùng bằng kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh của vị xuất gia.. Các vị đã phát tâm xuất gia tức là tập hạnh xả bỏ tất cả, kể cả thân mạng nếu cần và đúng với chánh pháp, nghĩa là xả phú cầu bần xả thân cầu đạo.
Đặc biệt Bình bát không nên làm bằng gỗ, vì đây là loại bát của Bà la môn đã thường dùng.
Ở các nước Tiểu thừa Phật giáo, chư Tăng thường đi khấc thực nên thường dùng bình bát. Các nước theo Đại thừa Phật giáo thì không đi khất thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ, có nơi còn ba tháng kiết đông nữa; đồng thời, thỉnh thoảng có quý thí chủ phát tâm cúng dường trai Tăng thì cũng dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai. Sau khi các vị đã đắc giới, chư giới sư trao truyền bình bát và bắt đầu trì bình từ đó.
Mỗi khi dùng bình bát, tâm thường niệm :
Thiện tai Bát đa La,
Như Lai ứng lượng khí,
Phụng trì dĩ tư thân,
Trưởng dưỡng trí huệ mạng,
Án chỉ rị chỉ rị phạ nhự ra hồng phấn tra (3 lần)
Nghĩa là :
Lành thay bát đa la,
Ứng lượng khí của Phật
Vâng giữ để tu thân,
Nuôi lớn thân và trí.
Án chỉ rị chỉ rị phạ nhật ra hồng phấn tra (3 lần)
Mỗi lần đi khất thực, tay nâng bình bát đang còn trống không, đức Phật dạy đệ tử của ngài không phiền muộn, không lo lắng mà phải an tịnh và thầm nguyện :
Nhược kiến không bát,
Đương nguyện chúng sanh,
Cứu cánh thanh tịnh,
Không vô phiền não.
Nghĩa là :
Nếu thấy bát không,
Xin nguyện chúng sanh,
Cứu cánh thanh tịnh,
Trống không phiền não.
Và, sau đó thí chủ đã cúng dường phẩm vật được đầy đủ thì thầm nguyện tiếp :
Nhược kiến mãn bát,
Đương nguyện chúng sanh,
Cụ túc thạnh mãn,
Nhất thế thiện pháp.
Nghĩa là :
Nếu thấy bát đầy,
Xin nguyện chúng sanh,
Chứa đựng đầy đủ,
Tất cả pháp lành.
7.- Tích Trượng :
Xuất xứ : Theo kính Tích trượng có chép: Này các Tỳ kheo, các ngươi nên thọ trì tích trượng, vì rằng tích trượng là một pháp khí mà ở đời các Như lai đã có thọ trì.
Ý nghĩa : Tiếng Phạn gọi là Khiết khí la, Tàu dịch là Tích trượng, tức là các gậy của các vị Tỳ kheo dùng để đi đường hay đi khất thực.
Tích trượng cũng còn có tên là Đức trượng, nghĩa là nhờ chiếc gậy trí huệ và đức độ nầy mà người xuất gia học đạo giải thoát được vững tiến và hướng đến quả vị giải thoát.
Trong kinh Tích trượng cũng có chép : Ngài Ca Diếp bạch Phật: Bạch đức Thế tôn, thế nào gọi là Tích trượng ? Đức Phật dạy các ý nghĩa như sau :
-. Tích cũng còn nghĩa là Khinh, có nghĩa là nhờ chiếc gậy đức hạnh và trí tuệ nầy mà phiền não được nhẹ đi và sớm ra khỏi cảnh sanh tử luân hồi.
-. Tích cũng có nghĩa là Minh, nghĩa là được trí huệ sáng suốt, là hết khổ não.
Đường kính của chiếc Tích trượng thì vừa đủ cho vòng tay của người xử dụng. Cũng còn được gọi với những tên: Thỉnh trượng hay Minh trượng. Vì, trong khi đi đến nhà ai, vị sa môn cần gõ tích trượng xuống đất để người trong nhà biết. Trên đầu tích trượng có bốn cái gọng và mười hai cái vòng. Đó là biểu tượng cho Tứ diệu đế và Thập nhị nhơn duyên, buộc các Tỳ kheo luôn luôn phải nhớ nghĩ, luôn luôn phải thực hành. Ngoài ra còn có loại tích trượng trên đầu chỉ có hai cái vòng và sáu cái khâu, thì nó tượng trưng cho Chơn đế, Tục đế là Lục độ. Tích trượng nầy do đức Phật Ca Diếp chế ra. Tất cả hai loại tích trượng ấy đều không cao quá đầu người.
Cái tích trượng của Bà la môn thì có bảy mắt và có ba bậc: sơ, trung và thượng. Theo phái Bà la môn thì cái gì cũng ở trong số bảy :
*.- Bảy bậc tu, bảy quả đức, bảy sức linh...
Bảy bậc tu của họ gồm:
*- Tu tại gia,
*.- Tu vái các thần thánh thông thường,
*.- Tu biết biến hóa,
*.- Tu biết thần biến, linh thiêng,
*.- Tu cần thần thánh, không mặc quần áo,
*.- Tu thiền định,
*.- Tu bậc thượng, làm thầy cả trong các phép tu trên, là vị nối gót đại diện cho đức Phạm thiên.
Ngày xưa ở Ấn độ, họ thường quan trọng con số bảy, họ cho là huyền vi đến với con người. Cái gì họ cũng dùng và nghĩ đến số bảy như :
*.- Bảy vị tiên (Sapta-Rchirs),
*.- Bảy cảnh tiên (Sapta-Poura),
*.- Bảy hòn đảo tiên (Sapta-Douita),
*.- Bảy biển (Sapta-Samudra),
*.- Bảy sông linh (Sapta-Nady),
*.- Bảy núi linh (Sapta-Pariatta),
*.- Bảy cây ở cỏi trời (Sapta-Arania),
*.- Bảy chủng (Sapta-Coula),
*.- Bảy cảnh giới từ hạ đến thượng (Sapta-Loca),
*.- Bảy loại gồm cả trời đất thần thánh như : Jyaus, Naranari-Viradj, Brahma, Vischnơu, Siva...
Riêng trong Phật giáo, ngài Địa tạng vương Bồ tát đã dùng tích trượng để đi vào địa ngục hướng dẫn cho thập loại chúng sanh đang bị đọa trong các cỏi ấy được hiểu rõ chánh pháp, đưọc giải thoát lên các cảnh giới sung sướng hơn hay trực chỉ đến cảnh giới giác ngộ thành Phật. Mỗi khi ngài vào trong địa ngục, ngài dùng tích trượng gõ xuống đất thì các cửa ngục được mở ra, cho nên trong kinh có dạy: Chấn khai địa ngục chi môn.
Những vị sau khi đã đắc giới, liền được thừa truyền tích trượng. Trong khi nhận lãnh, các vị giới tử thầm niệm rằng :
Thiện tai khiết khí la,
Trí huệ công đức bổn,
Như pháp thọ trì giả,
Siêu đăng niết bàn ngạn.
Án, na lật thế, na lật thế, na lật tra, bát để, na lật đế, na dạ bát nễ hồng phấn tra (3 lần).
Nghĩa là :
Lành thay chiếc tích trượng,
Gốc công đức, trí huệ,
Thọ trì như chánh pháp,
Sớm lên bờ niết bàn.
Án, na lật thế, na lật thế, na lật tra, bát để, na lật đế, na dạ bát nễ hồng phấn tra (3 lần)
Nhưng khi các vị dùng tích trượng để đi đó đây thì lại thầm nguyện :
Chấp trì tích trượng,
Đương nguyện chúng sanh,
Thiết đại thí hội,
Thị như thiệt đạo.
(Câu chú đọc y như khi được nhận tích trượng do giới sư trao)
Nghĩa là :
Cầm giữ tích trượng,
xin nguyện chúng sanh,
Thiết đại hội thí,
Chỉ đạo như thật.
8.- Đãy lọc nước :
Xuất xứ : Ngày xưa khi đức Phật chứng thành đạo quả, ngài dùng huệ nhãn, xem thấy trong nước có vô số vi trùng, ngài liền truyền dạy cho hàng đệ tử, nhất là hàng xuất gia đều phải có một cái túi bằng vải để lọc nước trước khi uống.
Ý nghĩa : Đạo Phật là đạo từ bi. Đạo Phật tôn trọng mạng sống. Vì khi uống nước mà không dùng đãy lọc nước để lọc thì mắc phải tội ăn thịt chúng sanh. Chúng sanh được tôn trọng trên từ bậc thánh nhơn chư Tăng, loài người, dưới đến cho các loài có chân, không chân hay có cánh không cánh đều được giữ gìn mà không nên sát hại.
Bởi thế cho nên, hàng xuất gia phải dùng những vật thực không liên hệ đến mạng sống của chúng sanh. Một khi đã phát tâm xuất gia, đã được thọ giới thì cần phải có đãy lọc nước. Tàu dịch là Lự thủy nang.
Khi nhận thọ thì thầm nguyện :
Thiện tai lự thủy nan,
Hộ sanh hành tự cụ,
Xuất nhập thường đới dụng,
Phương hợp Bồ tát đạo.
Án phạ tất ba ra ma ni tóa ha (3lần)
Nghĩa là :
Lành thay đãy lọc nước,
Vật bảo trợ mạng sống,
Ra vào thường dùng đến,
Mới hợp đạo Bồ tát,
Án phạ tất ba ra ma ni tóa ha (3 lần)
9.- Ngọa Cụ :
Ngọa tức là nằm. Dụng cụ dùng để ngồi và nằm. Quý vị xuất gia thường dùng hằng ngày cho nên trong luật Trường Hàng gọi là Nhật dụng.
Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, chư Tăng sống không lập chùa chiền, tịnh thất như ngày nay. Trong tay chỉ có bình bát, ba chiếc y, một tích trượng, một đãy lọc nước và một ngọa cụ mà thôi. Đi đâu đều mang tất cả những pháp khí ấy đi theo.
Ngày nay chư Tăng có chùa, có tòng lâm, có Phật học viện, có tịnh thất, ... nên ít dùng đến ngọa cụ tích trượng trừ khi tấn đàn truyền giới và trao giới cho giới tử phát tâm đăng đàn cầu giới pháp để tu. Ngọa cụ cũng được dùng trong lúc đăng đàn chẩn tế, nhưng được gọi là tọa cụ chứ không gọi là ngọa cụ như trong luật tiểu.
Khi dùng ngọa cụ thì thầm nguyện câu kệ và chú như sau :
Ngọa cụ ni sư đàn,
Trưởng dưỡng tâm miêu tánh,
Triển khai đăng thánh địa,
Phụng trì Như Lai mạng.
Án a mật lật đế hồng phấn tra (3lần)
Nghĩa là :
Ngọa cụ ni sư đàn,
Nuôi lớn lúa tâm tánh,
Mở ra lên đất thánh,
Phụng giữ Như Lai mạng.
Trên đây là những Pháp khí và Pháp cụ có từ thời đức Phật đã được tổ tổ thừa truyền cho đến ngày nay. Những thứ được viết ra trong bài nầy hoàn toàn gần như chỉ dành riêng cho hàng xuất gia, nhưng phải cần cầu giới pháp, có thọ giới và đắc giới. Và tùy theo giới mà thọ dụng khác nhau như Y, Bát, Tích trượng và tọa cụ, ... Ngoài ra, những pháp khí khác thì những vị tân xuất gia và Phật tử tại gia đều có thể dùng được như nhau. Vậy bài nầy quý vị nào trong hàng tại gia được phước báo thọ dụng thì cũng nên tuân theo lời Phật dạy để hành trì đúng như pháp.
Thượng tọa Thích Tín Nghĩa
Hiện Tình Phật Giáo Việt Nam. Thích Tín Nghĩa
Chú Đại Bi Lược Giải . Thích Tín Nghĩa
Cốt Tủy Nghi Lễ Phật Giáo . Thích Tín Nghĩa
Từ Đàm Quốc Nội Quốc Ngoại . Thích Tín Nghĩa
Trúc Lâm Thiền Phái Tại Huế . Thích Tín Nghĩa
Nghi Thức Chẩn Tế Cô Hồn . Thích Tín Nghĩa
Hiền Lương Chí Lược Tân Biên . Thích Tín Nghĩa
Thiền Môn Văn Điệp (Hán Văn) . Thích Tín Nghĩa
Kỷ Yếu Khánh Thành và Đại Hội. Tín Nghĩa
Kỷ Yếu Tổng Vụ Cư Sĩ. Tín Nghĩa
Tưởng Niệm Ôn Mật Hiển. Tín Nghĩa
Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập. Thích Tín Nghĩa
Nghi Thức Tụng Niệm Đặc Biệt . Thích Tín Nghĩa
Nghi Thức Phổ Thông. Tín Nghĩa
Nhơn quả. Thích Tín Nghĩa
Tổ Liễu Quán. Thích Tín Nghĩa
Ba ngày rằm. Thích Tín Nghĩa
Tách trà còn nóng. Thích Tín Nghĩa
Đạt Ma Huyền Trang. Thích Tín Nghĩa
Pháp khí và Pháp phục. Thích Tín Nghĩa
Những Bước Chân Đi Qua. Thích Tín Nghĩa
Vulan nghĩ về Đấng Sinh Thành Thích Tín Nghĩa
Tình pháp lữ giữa tôi và HT Thiện Trì. Thích Tín Nghĩa
Những kỷ niệm với HT Thích Đức Niệm. Thích Tín Nghĩa
45 Ngày Du Hóa Âu Châu. Thích Tín Nghĩa
Ảnh Hưởng Thiền với Văn Hóa Dân Tộc Việt Nam. Thích Tín Nghĩa
Những Dấu Mốc Trong Hơn Nửa Thế Kỷ Qua. Thích Tín Nghĩa
Mấy Mùa AN CƯ . Thích Tín Nghĩa
Một Kỷ Niệm Khó Quên Với, Ôn Huyền Quang . Hậu học, Thích Tín Nghĩa
Ôn Già Lam . Điều Ngự Tử, Thích Tín Nghĩa
Hình ảnh, Thích Tín Nghĩa
An Cư là Một Tuyệt Tác của Tăng Già Hòa Hợp và Thanh Tịnh Điều Ngự Tử, Thích Tín Nghĩa
Chiếc Xe Đạp - Điều ngự tử Tín Nghĩa
TU - Điều ngự tử Tín Nghĩa
Kỷ Yếu Cư Sĩ và Sự Thật Vùng Đất La Vang Điều ngự tử Thích Tín Nghĩa
Những Vần Thơ Xuân Điều ngự tử Thích Tín Nghĩa
Những Tác Phẩm Điều ngự tử Thích Tín Nghĩa
Nguồn Gốc Về Nguồn Thích Tín Nghĩa
Vu Lan nhớ về : Thần Lực Chúng An Cư Thích Tín Nghĩa
Tình Pháp Lữ : TÍN NGHĨA - TRÍ HIỀN :Thích Tín Nghĩa
Lần Đầu Tiên Đến Xứ Úc: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
Bóng Thời Gian: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
Hòa Thượng Xe Bus: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa
Một Chữ: Điều Ngự Tử Tín Nghĩa