Phần Hai (đầy đủ)
開 山 竹 林 大 聖 寺, 創 立 安 南 佛 學 會 , 證 明 導 師, 誠 至 通 覺 先 和 尚 知 銘 .
覺 先 和 尚 臨 濟 正 宗 四 十 二 世 之 大 師 也 . 師 本 姓 阮, 原 籍 承 天 府 香 水 縣 野 黎 上 社, 以 嗣 德 三 十 三 庚 辰 落 塵 . 成 泰 六 年 甲 午 枯 特 雙 喪, 師 感 世 事 無 常, 因 暏 報 國 寺 戒 壇 飄 然, 有 出 塵 之 志, 遂 招 慈 孝 寺 禮 心 淨 和 尚 奚 即 雜 薙 染, 根 性 通 利, 經 律 諳 詳. 屢 欲 楊 春 山 結 菴 專 修 而 未 竟.
Phiên âm :
Ngự chế Diệu Ðế tự Trú trì, Lâm tế tứ thập nhị thế, Khai sơn Trúc Lâm Ðại thánh tự Giác Tiên Hòa thượng chi tháp.
Khai sơn Trúc Lâm Ðại thánh tự, sáng lập An Nam Phật Học hội, chứng minh Ðại đạo sư Trừng Thành Chí Thông Giác Tiên Hòa thượng chi minh.
Giác Tiên Hòa thượng, Lâm tế chánh tông tứ thập nhị thế chi đại sư giả. Sư bản tánh nguyên tịch, Thừa Thiên phủ, Hương Thủy huyện, Dã Lê Thượng xã, dĩ Tự Ðức thập tam Canh thìn lạc trần.
Thành Thái lục niên Giáp ngọ (*), thị khô tử tán sư, cảm thế sự vô thường, nhân đô Báo Quốc tự giới đàn, phiêu nhiên hữu xuất trần chi chí.
Toại chiêu Từ Hiếu tự, lễ Tâm Tịnh Hòa thượng, viện tức thế nhiễm. Căn tánh thông lợi, kinh luật am tường, lũ dục Dương Xuân sơn kết am vị tự tu chi vị cánh.
Dịch nghĩa :
Bia ký tạm dịch :
Bài minh khắc nơi tháp của Hòa thượng Giác Tiên, pháp danh Trừng Thành, thụy hiệu Chí Thông, thuộc giòng Lâm Tế chánh tông dời thứ 42.
Nguyên Trú trì Ngự chế Diệu Ðế, khai sơn chùa Trúc Lâm Ðại Thánh, sáng lập hội An Nam Phật Học và Chứng minh Ðại đạo sư cho hội ấy.
Ðại sư nguyên người Giạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, phủ Thừa Thiên. Sinh năm Canh thìn niên hiệu Tự Ðức thứ 33.
Năm Giáp ngọ, niên hiệu Thành Thái thứ sáu, nhân đám tang thầy mà cảm nhận về tánh chất vô thường của cuộc đời ; thêm vào đó, nhờ xem Giới đàn ở chùa Báo Quốc cố đô Huế, nên bỗng nhiên khơi dậy chí nguyện xuất trần (đi tu). Ngài đến chùa Từ Hiếu đảnh lễ Hòa thượng Tâm Tịnh và xin xuống tóc xuất gia.
Ngài là người căn tánh thông lợi, khá am tường về kinh luật đã nhiều lần muốn dựng am ở núi Dương Xuân để tịnh tu, nhưng không thành.
Âm hán :
比 丘 尼 胡 氏, 法 名 清 妗, 號 延 長 嘉 其 志, 為 建 竹 林 寺, 請 師 為 開 山 座 主. 於 是 禪 心 圓 頓, 法 語 弘 開. 嗣 遇 廣 南 省 福 林 寺 永 嘉 和 尚 開 大 戒 壇 , 師 登 壇 受 具 足, 時 年 僅 二 十 八. 繼 而 集 眾 講 學 于 天 興 寺, 僧 尼 大 眾 利 益 潭 霑. 求 心 淨 和 尚 妙 契 法 偈 云 :
覺道劫空先
空空般若船
果因符行解
處處即安然.
Phiên âm :
Tỳ kheo ni Hồ Thị Nhàn pháp danh Thanh Linh, hiệu Diên Trường gia kỳ chí, vị kiến Trúc Lâm tự, thỉnh sư vi khai sơn tọa chủ. Ư thị thiền tâm viên đốn, pháp vũ hoằng khai. Tự ngộ Quảng Nam tỉnh, Phước Lâm tự, Vĩnh Gia Hòa thượng khai Ðại giới đàn, sư thọ Cụ túc giới thời, vu Thiên Hưng tự, tăng ni đại chúng, lợi ích đàm triêm ; cầu Tâm Tịnh Hòa thượng, diệu khế phú pháp kệ vân :
“Giác đạo kiếp không tiên,
Không không Bát nhã thuyền,
Quả nhân phù hạnh giải,
Xứ xứ tức an nhiên.”.
Dịch nghĩa :
Thế nhưng, sau đó Tỳ kheo ni họ Hồ, pháp danh Thanh Linh, hiệu Diên Trường tán thưởng ý chí của ngài, đứng ra lập chùa Trúc Lâm và mời ngài làm tọa chủ.
Gặp lúc Hòa thượng Vĩnh Gia mở Ðại giới đàn ở chùa Phước Lâm, tỉnh Quảng Nam, ngài liền xin thọ Cụ túc giới, bấy giờ vừa đúng 29 tuổi.
Thọ Cụ túc giới xong, ngài trở về chùa Thiên Hưng, Huế, mở trường dạy học; rất nhiều Tăng Ni nhờ sự giaó huấn của ngài mà được thấm nhuần Phật pháp. Ngài đắc pháp với Hòa thượng Tâm Tịnh qua bài kệ phú pháp như sau:
“Giác đạo vượt hậu tiền,
Không không thuyền bát nhã,
Hạnh giải hợp quả nhân,
Nơi nơi đều an lạc.”.
Âm hán :
佛 門 庇 缽, 聖 種 紹 隆, 師 復 何 可 解 . 啟 定 甲子年, 集 禪 門 法 侶, 建 戒 壇 于 慈 孝 寺, 請 淨 心 和 尚 傳 授 毘 尼 , 行 化 遠 遙, 洒 楊 枝 水, 甘 被 西 天 . 既 啟 定 九 年 庚 午, 大 集 禪 和 於 祥 雲 寺, 九 旬 結 界, 行 滿 功 圓, 福 慧 雙 修, 自 他 兼 利. 佛 祖 之 幹 絲, 禪 門 之 棟 樑 師 哉! 平 日 常 參 一 偈 :
諸 法 從 本 來,
常 自 寂 滅 相.
保 大 元 年 , 蒙 旨 準 為 妙 諦 寺 住 持. 保 大 六 年 崇 修 竹 林 寺, 殿 宇 佛 堂 僧 舍 煥 然 一 新.
Phiên âm :
Phật ngôn tý bát, thánh thiền thiệu long, sư phục hà khả giải.
Khải Ðịnh Giáp ngọ niên, tập thiền môn pháp lữ, kiến Giới đàn Từ Hiếu tự, thỉnh Tâm Tịnh Hòa thượng truyền thọ Tỳ ni, hành hóa viễn diêu, sái dương chi thủy, cam bị Tây Thiên. Kỵ Khải Ðịnh cửu niên Giáp tý, đại tập thiền hòa ư Tường Vân tự, cửu tuần kết tập giới, hạnh mãn công viên, phước huệ song tu, tự tha kiêm lợi, Phật Tổ chi cán ty, thiền hòa chi lương đống sư tai. Bình nhật thường tham chi kệ vân :
“Chư pháp tùng bản lai,
Tự tánh thường diệt tướng.”.
Bảo Ðại nguyên niên, mông chỉ chuẩn chi Diệu Ðế Trú trì. Bảo Ðại lục niên, sùng tu Trúc Lâm tự điện vũ, Phật Tăng xá, hoán nhiên nhất tân.
Dịch nghĩa :
Ngài quả thật đã thấu rõ yếu chỉ cửa Phật giòng Thiền.
Năm Giáp Ngọ (*) (Ðã có chú thích ở phần âm), đời vua Khải Ðịnh, mở Giới đàn ở chùa Từ Hiếu và cung thỉnh Hòa thượng Tâm Tịnh truyền thọ giới pháp. Khắp nơi xa gần đều nhờ ơn tế độ, nước cành dương đã rưới đến Tây thiên.
Ðến năm Giáp tý (1924), niên hiệu Khái Ðịnh thứ chín, ngài tập họp Ðại Tăng và tổ chức an cư kết hạ ba tháng ở chùa Tường Vân. Mãn hạ, cũng tức là phương thức lợi mình, lợi người, phước huệ song tu một cách đầy đủ. Ngài đúng là rường cột của cửa thiền, sứ giả của Phật Tổ.
Hằng ngày thường tham cứu :
“Các pháp tứ xưa nay,
Chơn tướngvốn tịch diệt.”.
Ðời vua Bảo Ðại thứ Nhất, ngài được sắc chỉ làm Trú trì chùa Diệu Ðế, qua năm sau, lo trùng tu Phật điện, Tăng xá Trúc Lâm.
Âm :
而 師 是 行 普 賢 是 心 願 度 一 切, 爰 請 福 慧 和 尚 卓 錫 竹 林 寺, 開 壇 講 經, 力 覺 群 夢, 剎 那 間, 善 男 信 女 發 菩 提 心 者 雲 集, 以 願 力 弘 深, 故 佛 學 會 朝 唱 而 暮 成. 繼 則 大 小 諸 佛 學 堂 亦 於 焉 創 始. 我 安 南 佛 學 會 之 擴 張 , 惟 吾 師 是 願.
於 保 大 十 一 年 十 月 初 二 日, 召 諸 弟 子 講 寶 壇 經, 至 般 若 品, 付 囑 佛 法 家 業. 住 初 四 日, 忽 捨 世 緣, 五 十 七, 夏 臘 二 十 九, 建 塔 于 寺 傍 之 左.
Phiên âm :
Nhi sư hành, Phổ Hiền thị tâm, nguyện độ nhất thế, viên thỉnh Phước Huệ Hòa thượng, trác tịch Trúc Lâm tự, khai đàn giảng kinh, lực giác quần mộng. Sát na gian, thiện nam tín nữ, phát bồ đề tâm gia vân tập. Dĩ nguyện lực hoằng thâm, cố Phật học triêu xướng chi mộ thành. Kế tắc đại, tiểu chư Học đường, diệc ư yên sáng thỉ. Ngã An Nam Phật Học hội chi khoáng trương, duy ngô sư thị nguyện.
Ư Bảo Ðại thập nhất niên, thập nguyệt, sơ nhị nhật triệu thỉnh đệ tử tụng Bảo Ðàn kinh, chí Bát Nhã phó chúc Phật pháp gia nghiệp vãng sơ tứ nhựt hốt xả thế duyên, du nhiên viên tịch, thế thọ ngũ thập thất, hạ lạp thập cửu. Kiến tháp vu tự bàng chi tả.
Dịch nghĩa :
Noi theo đại hạnh của Bồ tát Phổ Hiền, muốn độ thoát tất cả; do đó, ngài mời Hòa thượng Phước Huệ từ Bình Ðịnh đến chùa Trúc Lâm để giảng dạy kinh điển. Chẳng bao lâu, thiện tín phát tâm tu học khắp nơi tụ tập về và cũng nhờ thế mà hội An Nam Phật Học đã được hình thành trong một thời gian rất ngắn. Tiếp theo, các Phật học đường lớn nhỏ bắt đầu dựng lên.
Hội Phật Học ngày nay lớn mạnh, phần nhiều cũng đều do nguyện lực của ngài. Thế rồi, ngày mồng Hai, tháng Mười năm Bảo Ðại thứ 11, ngài cho mời các đệ tử tới tụng kinh Pháp Bảo Ðàn, đến phẩm Bát Nhã; đem sự nghiệp Phật pháp phú thác xong xuôi, vào ngày mồng Bốn tháng Mười, Bảo Ðại năm ấy, ngài an nhiên viên tịch. Ngài thọ thế 57 tuổi đời và 29 tuổi đạo. Tháp ngài được xây bên chùa Trúc Lâm.
Âm :
般 若 心 經 云 :
“遠 離 夢 想 究 竟 涅 盤. 信哉”
法 界 無 生 死 於 何 有 覺 緣, 玆 摘 塵 慮 笑 粘 塔 之 碑 之 偈 之 頌 之 法 門, 有 繼 能 無 檠 之 籠 之 乎, 行 鏡 不 磨 能 無 金 石 之 乎! 道 風 高 妙, 法 度 弘 圓 如 我 師, 後 人 宜 思, 所 以 闡 揚 而 歷 歷 遺 蹟 撰 此 如 左, 與 世 間 相 及 人 道 因 緣 併 鑄 于 石, 惟 願 佛 日 培 培 增 輝 焉 耳.
銘曰 :
Phiên âm :
Bát nhã vân :
- “Viễn ly mộng tưởng,
cứu cánh niết bàn, tín tai.”.
Pháp giới vô sanh tử, ư hà hữu giác duyên ?
Tư trích trần lự, tiếu niêm tháp chi bi, chi kệ, chi tụng, chi pháp môn. Hữu kế năng vô kềnh chi lũng, chi hồ. Hành kính bất ma năng vô kim thạch chi hồ. Ðạo phong cao diệu, pháp độ hoằng viên, như ngã sư giả, hậu nhơn nghi tư. Sở dĩ xiển dương, nhi lịch lịch di tích, soạn thứ như tả, dữ thế gian tương cập nhơn đạo nhơn duyên, tích chú (1) vu thạch. Duy nguyện Phật nhựt bồi bồi, tăng huy yên nhỉ.
Minh viết :
Dịch nghĩa :
Ðúng như Bát Nhã tâm kinh :
- “Xa lìa mộng tưởng điên đảo,
đạt đến niết bàn.”
Trong pháp giới nếu không có mê mờ sanh tử thì lấy gì làm duyên cho giải thoát giác ngộ ?
Vì thế, tôi đem một vài ý nghĩ thô cạn viết thành bia, kệ, tụng, pháp môn niêm khắc nơi tháp với hy vọng người sau sẽ nhân đây mà tiến xa hơn, hoàn bị hơn.
Ðạo phong cao diệu, pháp độ hoằng viên như Ðại sư, thật đáng để cho đời sau suy tư, tuyên dương.
Nay đem di tích của ngài soạn thành văn, khắc vào đá để lại cho đời; đồng thời, kính nguyện Phật giáo ngày một thêm rạng rỡ, huy hoàng.
Nội dung bài minh như sau :
Âm :
香 屏 靈 毓
爰 誕 佛 僧
童 年 妙 悟
塵 濾 澄 澄
捨 身 宣 法
禪 業 中 興
洪 鍾 雷 吼
群 夢 震 矜
僧 徒 濟 濟
惟 師 是 承
漫 漫 長 夜
師 燭 之 燈
Phiên âm :
Hương bình linh dục,
Viện đản Phật tăng,
Ðồng niên diệu ngộ,
Trần lự trừng (2) trừng,
Xả thân tuyên pháp,
Thiện nghiệp trung hưng,
Hồng chung lôi hống,
Quần mộng thần linh,
Tăng đồ tế tế,
Duy sư thị thừa,
Man man trường dạ,
Sư chúc chi đăng,
Dịch :
“Ðất linh Hương Bình,
Sinh được cao Tăng,
Diệu ngộ từ bé,
Trần niệm sạch trong,
Xả thân vì đạo,
Thiền nghiệp vượng hưng,
Hồng chung vang dội,
Vua dân đều mừng,
Tăng đồ đông đúc,
Chỉ một mình Thầy,
Ðêm dài mờ mịt,
Thầy là đuốc soi,
Âm :
茫 茫 彼 岸
師 引 之 燈
曇 花 一 朵
秘 典 千 層
塵 寰 可 轉
道 山 不 崩
煌 煌 斯 碣
綿 綿 頌 稱.
保 大 十 二 年, 尚 書 充 國 史 館 總 裁 黎 汝 霖 撰.
Mang mang bỉ ngạn,
Sư dẫn chi đăng,
Ðàm hoa nhứt tiếu,
Bí diễn thiên tằng,
Trần hoàn khả chuyển,
Ðạo sơn bất băng,
Hoàng hoàng tư kiệt,
Miên miên tụng xưng.
Hoàng triều Bảo Ðại thập nhị niên, tuế thứ Ðinh sửu, lạp nguyệt, Phật thành đạo nhựt.
An Nam Phật Học Hội trưởng Hiệp tá Ðại học sĩ Nguyễn Ðình Hòe đồng bổn hội đồng phụng lập.
Phó hội Trưởng Thượng thơ sung Quốc sử quán Tổng tài Lê Nhữ Lâm phụng soạn.
Ghi chú : (1) Trong bài viết chữ Thọ, nó không hợp nghĩa. Phải viết là chữ Chú thức là Ghi, Khắc vào, mới đúng nghĩa bài minh.
(2) Trong bài viết chữ Chứng, nhưng theo bài minh thì phải viết là Trừng. (Trừng trừng : nghĩa là sạch trong, tức là sạch sẽ một cách trong suốt).
Vậy, quý vị, khi được đọc bài chữ Nho thì nó là Chứng Trừng ??? Còn theo đúng nghĩa của nó là Trừng Trừng. Xin lưu ý. Người viết cố tra cứu thì biết đến ngang đây. Xin quý thức giả và độc giả cao minh tha thứ và bổ khuyết cho. Kính cám ơn. Tín Nghĩa.
Dịch nghĩa :
Bờ giác mênh mông,
Thầy là hải đăng,
Hoa đàm một tập,
Bí điển một tầng,
Sao dời vật đổi,
Núi đạo không băng,
Bia đá rạng rỡ,
Xưng tụng vĩnh hằng.”.
Tháp Chạp năm Ðinh sửu, niên hiệu Bảo Ðại thứ 12, ngày đức Phật Thành đạo,
Dựng bia :
Hiệp tá Ðại học sĩ Nguyễn Ðình Hòe, Hội trưởng hội An Nam Phật Học và toàn thể hội viên, (Dựng bia),
Soạn văn :
Thượng thơ phụ trách Tổng tài Quốc sử quán kiêm Phó hội Trưởng hội Phật học Lê Nhữ Lâm.
Hiện kim Trú trì THÍCH MẬT HIỂN hốt phùng biến cố Mậu thân (1968) phá hoại tàng tích chiếu cựu bi tục chí minh như tiến tái phụng thiết lập dĩ minh hậu thế kỵ miễn thất tích. Trọng hạ Nhâm tý - 1972