KINH VU LAN - DỊCH GIẢNG
Hòa thượng Thích Trí Quang
ĐÔI LỜI BỘC BẠCH
Bổn kinh Vu Lan Bồn do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch, chú giải và nhà in Sen Vàng tại Saigon ấn tống vào mùa Vu Lan Báo Hiếu lần thứ 2515-1970. Bác sĩ Trần Nguơn Phiêu, lúc bấy giờ là đương kim Tổng trưởng bộ Xã hội, đến thăm cô nhi viện Quách Thị Trang ; đồng thời, đến tham vấn Hòa thượng, sau khi về, Hòa thượng nhờ Thượng tọa Nhật Thiện mang cuốn kinh nầy đến Bộ tặng cho bác sĩ Phiêu. Hầu hết những kinh, sách quý nầy trong tủ sách gia đình của Bác sĩ đều được đưa sang Hoa kỳ, trong đó có cuốn kinh Vu Lan Bồn nầy.
Năm 1991, bà giáo sư Phạm Thị Vân là phu nhân của Bác sĩ về quê thăm thân mẫu và có đến vấn an Hòa thượng. Trước khi từ giả, bà đảnh lễ và xin Hòa thượng cho phép được ấn tống lại để truyền bá ở xứ người, nhất là tại thành phố Amarillo và vùng phụ cận miền Bắc Tiểu bang Texas, nơi Bác sĩ đang sinh hoạt với Cộng đồng Phật giáo.
Được Hòa thượng hoan hỷ chỉ giáo :
-. Làm gì cũng được miễn sao đúng với Chánh pháp.
Phật đản 2538, tôi đến chứng minh và thuyết giảng đại lễ ở đây, được Bác sĩ trao tay mang về, mặc dầu trước đó bác sĩ đã cho đọc qua nhiều lần.
Suốt một tuần đọc và nghiền ngẫm, nhận thấy đây không phải là một phẩm Vu Lan Bồn dùng để tụng trong ngày Vu Lan không thôi ; mà đây, là một bài Phật pháp dài nằm trong chương trình hướng dẫn giáo lý hằng năm cho hàng Phật tử xuất gia lẫn tại gia. Vì, trong phần dịch giảng, Hòa thượng đã dày công sưu tầm và rút ra đầy tất cả những tinh túy trong Đại tạng và Tục tạng, để hợp thành phần chú giảng.
Tôi xin phát tâm đánh máy lại cho rõ ràng hơn, theo khổ sách thường dùng và cho in ấn lại. Tất cả những gì trong cuốn kinh nầy đều là của Hòa thượng, ngoại trừ “Đôi lời bộc bạch và phần phụ lục”. Tôi không dám thêm hoặc bớt bất cứ lời, chữ nào, chỉ có sửa đổi hình thức.
Con xin sám hối lên Hòa thượng và được Hòa thượng chứng minh cho việc làm của con tuy đường đột, nhưng, con vì Phật pháp mà mạo muội kính sao.
Sau một thời gian gần Mười năm, một số đông Phật tử gần xa yêu cầu tôi đưa lên trang nhà Từ Đàm Hải Ngoại để dễ dàng phổ biến rộng rãi. Tôi cũng hoan hỷ và chịu khó ngồi đánh máy lại một lần nữa theo dạng chữ Unicode để mọi người, bất cứ ở châu lục nào, ai cũng có thể đọc được thoải mãi.
Nam mô Hoan hỷ tạng Bồ tát Ma ha tát.
Phật lịch 2549,
Vu Lan Ất Dậu – 2005
Tỳ kheo Thích Tín Nghĩa
* * * * *
KINH VU LAN - DỊCH GIẢNG
(Phần trì tụng âm Hán văn)
Khai Kinh
Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn :
Án lam tóa ha. (3 lần)
Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn : Án, ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới,
Cúng dường nhất thế Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ tát,
Vô biến Thanh văn chúng,
Cập nhất thế Thánh hiền,
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật sự,
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành vô thượng đạo.
*
* *
Pháp vương vô thượng tôn,
Tam giới vô luân thất,
Thiên nhơn chi đạo sư,
Tứ sanh chi Từ phụ,
Ư nhất niệm quy y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp,
Xưng dương nhược tán thán,
Ức kiếp mạc năng tận.
* * * * *
Năng lễ sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì,
Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung,
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền thánh tăng thường trú Tam bảo. (một lạy)
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô Ta bà giáo chủ bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sanh Di Lạc tôn Phật, đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, đại hạnh Phổ Hiền Bồ tát, đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật, Bồ tát. (một lạy)
Nhất tâm đảnh lễ : Nam mô Tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ tát. (một lạy)
Chú Đại Bi
Nam mô Đại bi hội thượng Phật, Bồ tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả.
Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Ðát điệt tha. Án. A bà lô hê, lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Ðồ lô đồ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Ðà ra đà ra. Ðịa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Ma ma. Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lị, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đê lị dạ. Na ra cẩn trì. Ðịa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra da, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, ta bà ha.
“Án, tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da, ta bà ha.” (3 lần)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Khai Kinh kệ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chơn thật nghĩa.
Tụng kinh :
Nam mô Vu Lan hội thượng Phật, Bồ tát. (3 lần)
Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh :
Như thị ngã văn : Nhất thời Phật tại Xá Vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên.
Đại Mục Kiền Liên thỉ đắc lục thông, dục độ phụ mẫu, báo nhũ bộ chi ân. Tức dĩ đạo nhãn quán thị thế gian, kiến kỳ vong mẫu sanh ngạ quỷ trung, bất kiến ẩm thực, bì cốt liên lập.
Mục Liên bi ai, tức dĩ bát thạnh phạn, vãng hướng kỳ mẫu. Mẫu đắc bát phạn, tiện dĩ tả thủ chướng bát, hữu thủy xuy tự. Tự vị nhập khẩu, hóa thành hỏa thán, toại bất đắc thực.
Mục Liên đại kiếu, bi hiều thế khấp, trì hoàn bạch Phật, cụ trần như thử.
Phật ngôn : Nhữ mẫu tội căn thâm kết, phi nhữ nhất nhơn lục sở nại hà. Nhữ tuy hiếu thuận, thanh động thiên địa, thiên thần địa kỳ, tà ma ngoại đạo, đạo sĩ, tứ thiên vương thần, diệc bất năng nại hà. Đương tu thập phương chúng Tăng oai thần chi lực, nãi đắc giải thoát. Ngô kim đương thuyết cứu tế chi pháp, linh nhất thế nạn giai ly ưu khổ.
Phật cáo Mục Liên, thập phương chúng Tăng, thất nguyệt thập ngũ nhật, Tăng tự tứ thời, đương vị thất thế phụ mẫu, cập hiện tại phụ mẫu ách nạn trung giả, cụ phạn bách vị, ngũ quả, cấp quán bồn khí, hương du đỉnh chúc, sàng phu ngọa cụ, tận thế cam mỹ dĩ trước bồn trung, cúng dường thập phương Đại Đức Chúng Tăng.
Đương thử chi nhật, nhất thế Thánh chúng, hoặc tại sơn giang thiền định, hoặc đắc tứ đạo quả, hoặc tại thọ hạ kinh hành, hoặc lục thông tự tại giáo hóa Thanh văn, Duyên giác, hoặc Thập địa Bồ tát đại nhơn quyền hiện Tỳ kheo, tại đại chúng trung, giai đồng nhất tâm thọ bát hòa la phạn. Cụ thanh tịnh giới, kỳ đức uông dương.
Kỳ hữu cúng dường thử đẳng tự tứ Tăng giả, hiện tại phụ mẫu, lục thân quyến thuộc, đắc xuất tam đồ chi khổ, ứng thời giải thoát, y phục tự nhiên,
Nhược phụ mẫu hiện tại giả, phước lạc bách niên ; nhược thất thế phụ mẫu sanh thiên, tự tại hóa sanh, nhập thiên hoa quang.
Thời Phật sắc thập phương chúng Tăng, giai tiên vị thí chủ gia chú nguyện, nguyện thất thế phụ mẫu, hành thiền định ý, nhiên hậu thọ thực.
Sơ thọ thực thời, tiên an tại Phật tiền, tháp tự trung Phật tiền, chúng Tăng chú nguyện cánh, tiện tự thọ thực.
Thời Mục Liên Tỷ kheo cập đại Bồ tát chúng, giai đại hoan hỷ. Mục Liên bi đề khấp thanh thích nhiên trừ diệt.
Thời Mục Liên mẫu tức ư thị nhựt, đắc thoát nhất kiếp ngạ quỷ chi khổ.
Mục Liên phục bạch Phật ngôn, đệ tử sở sanh mẫu đắc mông Tam bảo công đức chi lực, chúng Tăng oai thần chi lực cố, nhược vị lai thế, nhất thế Phật đệ tử, diệc ưng phụng Vu Lan bồn, cứu độ hiện taị phụ mẫu, nãi chí thất thế phụ mẫu, khả vi nhĩ phủ ?
Phật ngôn : Đại thiện khoái vấn, ngã chánh dục thuyết, nhữ kim phục vấn.
Thiện nam tử, nhược Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, quốc vương thái tử, đại thần tể tướng, tam công bách quan, vạn dân thứ nhơn, hành từ hiếu giả, giai ưng tiên vị sở sanh hiện tại phụ mẫu, quá khứ thất thế phụ mẫu, ư thất nguyệt thập ngũ nhật, Tăng tự tứ nhật, dĩ bách vị phạn thực, an Vu Lan bồn trung, thí thập phương tự tứ Tăng. Nguyện sử hiện tại Phụ Mẫu, thọ mạng bách niên, vô bịnh, vô nhất thế khổ não chi hoạn, nãi chí thất thế phụ mẫu ly ngạ quỷ khổ, sanh nhơn thiên trung, phước lạc vô cực.
Thị Phật đệ tử tu hiếu thuận giả, ưng niệm niệm trung thường ức phụ mẫu, niên niên thất nguyệt thập ngũ nhật, thường dĩ hiếu từ, ức sở sanh phụ mẫu, vị tác Vu Lan Bồn thí Phật cập Tăng, dĩ báo phụ mẫu trưởng dưỡng từ ái chi ân. Nhược thất thế Phật đệ tử, ưng đương phụng trì thị pháp.
Thời Mục Liên tỷ kheo, tứ bối đệ tử hoan hỷ phụng hành.
Báo phụ mẫu ân chú :
Nam mô mật lật đa dà bà duệ tóa ha. (3 lần)
Kinh tán :
Vu Lan chánh giáo,
Tự tứ giai thần,
Mục Liên ai khẩn cứu từ thân,
Chư Phật đại oai thần,
Thoát khổ u hoành,
Vạn cổ hiếu danh xưng.
Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát Ma ha tát. (3 lần)
Hồi Hướng
A Di Đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân,
Bạch hào uyển chuyển ngũ tu di,
Cam mục trừng thanh tứ đại hải,
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây phương cực lạc thế giới, đại từ đại bi A Di Đà Phật.
Nam mô A Di Đà Phật. (30 hay 108, tùy duyên)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát, (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát, (3 lần)
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát, (3 lần)
Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát, (3 lần)
Nam mô thanh tịnh Đại hải chúng Bồ tát. (3 lần)
* * * * *
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Ða tâm kinh
Quán tự tại Bồ tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách.
Xá lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc ; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá lợi tử, thị chư pháp Không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhỉ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn ; tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú : thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thế khổ, chân thật bất hư : Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú.
Tức thuyết chú viết : “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.”. (3 lần)
Vãng Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú :
Nam mô a di đà bà dạ. Ðá tha dà đá dạ. Ðá địa dạ tha,
A di lị đô bà tì,
A di lị đá, tất đam bà tì,
A di lị đá, tì ca lan đế,
A di lị đá, tì ca lan đá,
Dà di nị, dà dà na,
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng Vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương tịnh độ trung,
Cửu phẩm liển hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thoái Bồ tát vi bạn lữ.
* * * * *
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo phát vô thượng tâm. (một lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh thâm nhập kinh tạng trí huệ như hải. (một lạy)
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh thống lý đại chúng nhất thế vô ngại. (một lạy)
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhất thế,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cọng thành Phật đạo.
* * * * * * *
Kinh Vu Lan - Dịch Giảng
(Phần trì tụng theo Việt dịch)
Niệm Hương
Mặc Niệm
Tịnh Pháp Giới Chơn Ngôn :
Án lam tóa ha. (3 lần)
Tịnh Tam Nghiệp Chơn Ngôn :
Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ, thuật độ hám. (3 lần)
(Ghi Chú : Hai câu trên đây, không phải chỉ dành riêng cho vị Chủ lễ mật niệm. Sau khi vị Chủ lễ niệm hương xong, cắm hương vào lư và xướng tiếp. Cũng có thể đồng xướng với nhau. Nhưng, có nhịp khánh đánh cho đều để cùng xướng).
Cúng Hương
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phưởng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác. (xá ba xá rồi đọc tiếp)
* * * * *
Tán Phật
Đấng Pháp vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận.
Kỳ nguyện
Hôm nay, chính là ngày chư Tăng mãn hạ, đem đức lành chú nguyện cho chúng sanh ; chúng con một dạ chì thành, cúng dường trì tụng ba ngôi Tam bảo, đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đức đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, đức đại hiếu Mục Kiền Liên tôn giả và hết thảy Thánh Hiền Tăng từ bi gia hộ cho hết thảy cửu huyền thất tổ, thân bằng quyến thuộc nội ngoại của chúng con sớm tiêu trừ nghiệp chướng, ra khỏi cảnh giới u đồ, siêu sanh lạc quốc.
Ông bà cha mẹ, thân bằng quyến thuộc còn tại thế đượm nhuần chánh pháp, thân tâm an ổn, một mai xả báo thân được sanh về Phật cảnh.
Nam mô Vu Lan Thắng Hội Phật Bồ Tát, chứng minh gia hộ.
Quán Tưởng
(Đứng dậy cắm hương lên lư rồi vị Chủ lễ chấp tay đứng thẳng và niệm)
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật Bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
* * * * *
Đảnh Lễ
(Vị Chủ lễ xá ba xá, rồi niệm lớn hoặc đồng niệm)
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (Lạy một lạy)
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô ta bà giáo chủ bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, đương lai hạ sanh Di Lạc Tôn Phật, đại trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (Lạy một lạy)
Chí tâm đảnh lễ : Nam mô tây phương cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, thanh tịnh đại hải chúng Bồ Tát. (Lạy một lạy)
Chú Đại Bi
Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni :
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca rô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án. A bà lô hê, lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ. Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lị, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, ta bà ha.
“Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đa da, ta bà ha.” (3 lần)
Nam mô thập phương thường trú Tam Bảo. (3 lần)
Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
Kệ Khai kinh
Phật pháp cao siêu lý nhiệm mầu,
Trăm ngàn vạn kiếp dễ tìm đâu,
Con nay gặp được xin trì tụng,
Nguyện giải Như Lai ý rộng sâu.
Nam mô Vu Lan Thắng Hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
* * * * *
Phật nói kinh Vu Lan bồn :
Tôi nghe như vầy :
Một lúc Phật ở trong vườn trưởng giả tên cấp Cô Độc, còn cây thì của thái tử Kỳ Đà, thuộc nước Xá Vệ.
Lúc ấy tôn giả Đại Mục Kiền Liên mới được thực hiện sáu phép thần thông, muốn cứu cha mẹ, đền đáp ân đức sanh thành dưỡng dục, nên dùng thiên nhãn quan sát khắp cả thế giới luân hồi, nhìn thấy mẹ mình sanh trong ngạ quỷ, không được ăn uống, da liền bọc xương. Tôn giả thống thiết, lấy bát đựng cơm đem dâng cho mẹ. Bà mẹ nhận được, tức thì tay trái che lấy cái bát, tay phải bốc cơm. Cơm chưa vào miệng đã thành than lửa, nên ăn không được. Tôn giả kêu gào, khóc lóc bi thảm, chạy về bạch Phật, trình rõ mọi việc.
Phật dạy tôn giả Đại Mục Kiền Liên, thân mẫu của ông gốc rễ tội ác kết đã quá sâu, không phải năng lực của một mình ông có thể giải cứu. Dẫu ông hiếu thuận vang động trời đất, nhưng mà những vị thiên thần địa kỳ, tà ma ngoại đạo, các vị đạo sĩ và bốn thiên vương cũng đều không thể làm gì cho được. Phải nhờ thần lực của thập phương Tăng, mới được giải thoát. Nay ta dạy ông cách thức cứu vớt, để cho hết thảy những kẻ tai nạn đều thoát thống khổ.
Đại Mục Kiền Liên, thập phương chúng Tăng lấy rằm tháng bảy làm ngày tự tứ.
Các người hãy vì cha mẹ bảy đời, cha mẹ hiện tại, những kẻ đang ở trong vòng tai nạn, mà sắm trai soạn đủ cả mùi vị, các thứ trái cây, bồn chậu để rửa, hương du đèn nến, giường trải đồ nằm; đem đồ ngon nhất đăt vào trong bồn, hiến cúng thập phương Đại Đức Chúng Tăng.
Chính trong ngày nầy, hết thảy Thánh Tăng, hoặc đã nhập định ở trong núi non, hoặc đã thực hiện bốn thứ đạo quả, hoặc đã kinh hành dưới gốc đại thọ, hoặc là Thanh Văn hay là Duyên Giác đủ sáu thần thông giáo hóa tự tại, hoặc chính những vị Bồ Tát Đại Sĩ đã lên thập địa mà lại phương tiện hiện hình tỳ kheo, tất cả tập hợp ở trong đại chúng, đồng đẳng nhất tâm thọ cơm tự tứ. Vì có đầy đủ giới pháp thanh tịnh, thế nên đạo đức liệt vị Thánh Tăng thật vô bờ bến.
Ai được hiến cúng liệt vị Thánh Tăng tự tứ như vậy, thì cả cha mẹ cùng với bà con, hết cả thống khổ ở trong tam đồ, tức thì giải thoát, cơm áo tự nhiên ; cha mẹ hiện tại thì hưởng hạnh phúc, sống lâu trăm tuổi, cha mẹ bảy đời thì sanh chư thiên, tự tại hóa sanh vào trong thiên giới hoa lệ chói sáng.
Lúc ấy đức Phật huấn thị hết thảy thập phương Tăng chúng, trước hết hãy vì thí chủ chú nguyện, nguyện đến tất cả cha mẹ bảy đời. Hành thiền định ý, nhiên hậu thọ thực. Trước khi thọ thực, hãy đặt vật thực ở trước Phật Đà, hay trước tượng Phật thờ trong chùa tháp, Tăng chúng chú nguyện rồi mới tự thọ.
Bấy giờ tôn giả Đại Mục Kiền Liên, liệt vị Đại Sĩ đều rất hoan hỷ. Tiếng khóc bi thảm của ngài tôn giả Đại Mục Kiền Liên tức thì tan biến. Thân mẫu của ngài, ngay trong ngày ấy, thoát được một kiếp ngạ quỷ thống khổ.
Liền đó tôn giả Đại Mục Kiền Liên lại bạch hỏi Phật, mẫu thân của con đã được như vậy là nhờ năng lực công đức Tam Bảo, trong đó gồm có thần lực Tăng Chúng. Trong thời vị lai, hết thảy Phật tử có nên phụng hành pháp Vu Lan Bồn, cứu độ cha mẹ trong đời hiện tại cho đến bảy đời, bằng cách ấy không ?
Phật dạy tôn giả Đại Mục Kiền Liên, câu hỏi của ông rất phải rất hay. Chính ta muốn nói thì ông lại hỏi.
Đại Mục Kiền Liên, các vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, quốc vương thái tử, đại thần tể tướng, tam công bách quan, cùng toàn dân chúng, ai muốn thực hành cái đức từ hiếu, thì trước hãy vì cha mẹ hiện tại, kế đó hãy vì cha mẹ bảy đời trong thời quá khứ, đến rằm tháng bảy, ngày Phật hoan hỷ, ngày Tăng tự tứ, đặt đồ ăn ngon vào Vu Lan Bồn, hiến cúng thập phương tự tứ Tăng chúng, cầu nguyện cha mẹ trong thời hiện tại sống lâu trăm tuổi, không bệnh không khổ, cha mẹ bảy đời trong thời quá khứ thoát khổ ngạ quỷ, sanh trong nhơn loại hay trong thiên giới, phước lại vô cùng, Phật tử thực hành cái đức từ hiếu, thì mỗi ý nghĩ, luôn luôn tưởng nhớ cha mẹ hiện tại, cho đến cha mẹ bảy đời quá khứ. Hằng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy, đem lòng từ hiếu tưởng nhớ song thân, sắm Vu Lan Bồn hiến cúng Phật Đà, hiến cúng Tăng chúng, để báo ân đức từ ái nuôi dưỡng của cha của mẹ. Là con của Phật, thì ai cũng phải tuân giữ cách ấy.
Bấy giờ tôn giả Đại Mục Kiền Liên, cùng với bốn chúng đệ tử của Phật, hoan hỷ phụng hành.
Báo Phụ Mẫu ân chú :
Nam mô mật lật đa dà bà duệ tóa ha. (3 lần)
Sám Vu Lan
Đệ tử chúng con,
Vâng lời Phật dạy,
Ngày rằm tháng bảy,
Gặp hội Vu Lan,
Phạm vũ huy hoàng,
Đốt hương đảnh lễ,
Thập phương tam thế,
Phật, Pháp, Thánh Hiền.
Noi gương đức Mục Kiền Liên,
Nguyện làm con thảo,
Lòng càng áo não,
Nhớ nghĩa thân sanh,
Con đến trưởng thành,
Mẹ dày gian khổ,
Ba năm nhũ bộ,
Chín tháng cưu mang,
Không ngớt lo toan,
Quên ăn bỏ ngủ.
Ấm no đầy đủ,
Cậy có công cha,
Chẳng quản yếu già,
Sanh nhai lam lũ,
Quyết cùng hoàn vũ,
Phấn đấu nuôi con,
Giáo dục vuông tròn,
Đem lòng học đạo,
Đệ tử ơn sâu chưa báo,
Hổ phận kém hèn.
Giờ nầy quỳ trước đài sen,
Chí thành cung kính,
Đạo tràng thanh tịnh,
Tăng Bảo trang nghiêm,
Hoặc thừa tự tứ,
Hoặc hiện tham thiền,
Đầy đủ thiện duyên,
Dũ lòng lân mẫn.
Hộ niệm cho :
Bảy kiếp cha mẹ chúng con,
Đượm nhuần mưa pháp ;
Còn tại thế,
Thân tâm yên ổn,
Phát nguyện tu trì ;
Đã qua đời,
Ác đạo xa lìa,
Chóng thành Phật quả.
Ngữa trông các đức Như Lai,
Khắp cõi hư không,
Từ bi gia hộ.
Nam mô A Di Đà Phật. (30 lần)
Nam mô đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (10 lần)
Nam mô đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (10 lần)
Nam mô đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát. (10 lần)
Nam mô Vu Lan Thắng Hội Phật Bồ Tát. (10 lần)
Đồng tụng :
Tâm kinh Bát nhã ba la mật đa
Quán Tự Tại Bồ Tát, khi thực hành Bát nhã ba la mật đa sâu xa, thì soi thấy năm uẩn đều không, vượt mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử ! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc ; sắc tức là không, không tức là sắc ; thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy.
Xá Lợi Tử ! Không ấy của các pháp, không sanh không diệt, không nhớp không sạch, không thêm không bớt ; nên trong không, không sắc thọ tưởng hành thức ; không nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý ; không sắc thanh hương vị xúc pháp ; không nhãn giới cho đến ý thức giới ; không vô minh và sự diệt tận của vô minh, cho đến không lão tử và sự diệt tận của lão tử, không khổ tập diệt đạo ; không trí không được vì không được gì cả.
Bồ Tát y theo Bát nhã ba la mật nên tâm không vướng mắc, không vướng mắc nên không khiếp sợ, siêu thoát mộng tưởng điên đảo, cứu cánh niết bàn. Chư Phật cả ba thời gian y theo Bát nhã ba la mật nên được Vô thượng Bồ đề. Do đó nên biết Bát nhã ba la mật là bài chú rất thần diệu : bài chú rất sáng chói, bài chú tối thượng, bài chú tuyệt bậc mà đồng bậc, trừ được hết thảy khổ não, chắc thật, không hư ngụy.
Nên tôi nói chú Bát nhã ba la mật.
Ngài liền nói chú ấy :
“Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.” (3 lần)
Vãng Sanh Tịnh Ðộ Thần Chú :
Nam mô a di đà bà dạ. Ðá tha dà đá dạ. Ðá địa dạ tha,
A di lị đô bà tì,
A di lị đá, tất đam bà tì,
A di lị đá, tì ca lan đế,
A di lị đá, tì ca lan đá,
Dà di nị, dà dà na,
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng Vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu,
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương tịnh độ trung,
Cửu phẩm liển hoa vi phụ mẫu,
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thoái Bồ tát vi bạn lữ.
Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo phát vô thượng tâm. (một lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh thâm nhập kinh tạng trí huệ như hải. (một lạy)
Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh thống lý đại chúng nhất thế vô ngại. (một lạy)
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhất thế,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cọng thành Phật đạo.
* * * * *
Kinh Vu Lan - Dịch Giảng
Phần thích giảng :
Để phụ chú kinh nầy, tuy không phải đầy đủ, tôi cũng đã đọc nguyên văn trong Đại Tạng kinh (Bản Đại Chánh Tân Tu, tập 16, trang 779), đã đọc bản dịch khác nữa, cũng in ngay sau nguyên văn ấy. Tôi lại đọc qua tất cả tám bản chú thích xưa : một, trong Đai Tạng Kinh tập 39, trang 505-512, một trong Đại Tạng kinh tập 85, trang 540-543, Năm bản khác nhau trong Tục Tạng Kinh (bản chữ Vạn) tập 35, liên tiếp từ tờ 100 dến 171, một nằm trong Tục Tạng kinh tập 94, tờ 369-427. Tôi cũng có tham chiếu bản dịch âm và dịch nghĩa của Pháp sư Trí Tịnh nằm trong bộ kinh Tam Bảo. Ngoài ra, tôi còn phải tham khảo một số kinh và sách khác, cần thiết và quan trọng hơn nữa.
Xin chú ý, từ đây sắp đi, Đại Tạng kinh và Tục Tạng kinh (bản Đại Chánh Tân Tu và bản chữ Vạn) chỉ ghi tắt khi trích dẫn. Thí dụ ĐT, 1, 100 là Đại Tạng kinh tập 1 trang 100 – TT, 35, 100a là Tục Tạng kinh tập 35 tờ, mặt trước.
1.- Giải Thích Nhan Đề Vu Lan Bồn :
Vu Lan Bồn có hai nghĩa :
a.- Cả ba chữ cùng dịch âm một Phạn ngữ Ullambana. Phạn ngữ nầy, ngoài tiếng dịch âm Vu Lan Bồn, còn dịch âm là Ô Lam Bà Na. Dịch nghĩa là Giải Đảo Huyền, mô tả cái khổ như bị treo ngược. Ngài Trí Húc nói dịch nghĩa là Cứu Đảo Huyền ; Cứu cái khổ như kẻ bị treo ngược. (TT,35,151b).
b.- Một sự ngẫu hợp, chữ Bồn cũng là chữ Trung Hoa mà trong kinh văn đã nói “đặt vào trong bồn”, do đó, Vu Lan Bồn là được có caí nghĩa “Bồn Vu Lan”. Bồn ấy là gì thì sẽ thấy ở sau, khi chú thích kinh văn.
Do đó đúng ra thì phải nói Vu Lan Bồn toàn là dịch âm Phạn ngữ. Tuy nhiên, nhờ trùng âm, ngẫu nhiên chữ Bồn lại có cái nghĩa của chữ Trung Hoa mà quan trọng nhất, chữ ấy trong kinh văn đã dùng để nói đến cái dụng cụ đựng đồ hiến cúng hầu “cứu cái khổ đảo huyền” cho cha mẹ. Nên nhan đề Vu Lan Bồn có hai nghĩa mà vẫn cùng một ý :
Một, Vu Lan Bồn là bản kinh nói đến cái khổ như bị treo ngược và chỉ cách giải cứu caí khổ ấy.
Hai, Vu Lan Bồn là cái bồn Vu Lan, đựng đồ hiến cúng Tăng chúng trong ngày tự tứ : Đó là cách hiếu tử phụng hành để cầu cho cha mẹ được giải cứu cái khổ như kẻ bị treo ngược.
2.- Dịch Giả Kinh Vu Lan :
Dịch giả kinh nầy là ngài Trúc Pháp Hộ. Trúc là Thiên Trúc, tức Ấn Độ ngày xưa. Các ngài người Ấn, trước ngài Đạo An, khi vào Trung Hoa dịch kinh, hay đề chữ Trúc trước Pháp danh. Say nầy, do đề nghị của ngài Đạo An, hầu hết Tăng sĩ đều dùnbg chữ Thích (là gọi tắt chữ Thích Ca, họ của Phật).
Pháp Hộ, Phạn Ngữ là Dharmaraksa, dịch âm là Đàm Ma La Sát. Tiểu truyẹn của Ngài nằm trong Cao Tăng Truyện cuốn một (ĐT, 50, 326-327).
Ngài người Nhục Chi. Nhục Chi tuy là một quốc gia thuộc Tây Vức xưa, nhưng có thời là một đại đế quốc, cai trị tất cả quốc gia Tây và Đông củaThông Lĩnh, lại xâm lược cả Ấn Độ. Từ Hải trang 1415, nhất là Hai bài Phật giáo dữ Tây Vức và Hựu Phật giáo dữ Tây Vức (số 5 và số 6) của Lương Khải Siêu (nằm trong sách Phật học Nghiên cứu thập bát biên của ông, bản in mới) nghiên cứu khá kỷ về quốc gia Nhục Chi. Ngoài hai bài nầy, rãi rác ở các bài khác của sách ấy cũng nói đến nước Nhục Chi không ít. Vì không những Nhục Chi liên quan đến Phật giáo và văn hóa của Ấn Độ và Trung Hoa, mà chính Ca Nị Sắc Ca Vương là người gốc người nước ấy. Trong sách dẫn thượng, ngoài hai bài trên, đặc biệt là chú thích ở trang bảy của bài Ấn Độ Phật giáo khái quan (số 3), nhất là bài Thuyết Đại Tỳ Ba Sa (số 14), Lương Khải Siêu đã luận chứng Ca Nị Sắc Ca Vương là người gốc Nhục Chi và niên đại của ông là quãng thế kỷ thứ sáu sau Phật niết bàn, chứ không phải thế kỷ thứ tư. Ngài Pháp Hộ không những đồng hương với nhà vua nầy, mà niên đại chỉ cách ông hơn hai thế kỷ. Đồng hương với ngài Pháp Hộ mà hữu danh trong giới phiên dịch Phật Điển, thì có các ngài Chi Lâu Ca Sấm và Chi Khiêm. Tất cả những việc liên hệ đến quốc gia Nhục Chi, bản xứ của ngài Pháp Hộ, tiếc rằng quá nhiều và quan trọng cả, không thể chỉ trích dẫn hay tóm tắt lại ở đây. Học giả phải tìm hiểu theo sự chỉ dẫn trên mà đọc cho kỹ.
Cao Tăng Truyện dẫn thượng, chép ngài Pháp Hộ vốn người Nhục Chi, họ Nhục (Hoàng tộc Nhục Chi), nhưng tiền nhân cự ngụ tại Đôn Hoàng (Vì Nhục Chi xưa giáp ranh xứ nầy). Ngài xuất gia từ năm lên tám, thờ ngài Trúc Cao Tòa làm thầy. Rất thông minh, ký ức cực mạnh. Bẩm tính thuần hậu, tiết tháo, chuyên tinh, chịu khổ, quyết chí, hiếu học, muôn dặm tìm thầy không từ. Vì vậy mà thành người bác học. Tuy nhiên, thế sự khen chê chưa bao giờ chen vào được hoài bảo của Ngài. Bấy giờ là thời đại Vũ Đế nhà Tấn. Tự viện tượng tranh tuy đã có cả kinh thành thôn ấp, nhưng kinh sách Đại thừa vẫn còn nằm kín bên trong Thông Lãnh. Ngài phát phẫn, quyết chí hoằng dương đạo cả, nên theo thầy vào Tây Vức, đi khắp các nước, 36 thứ ngôn ngữ văn tự khác nhau, ngài thông suốt cả, quán triệt nguyên ngữ và từ điển, phát âm, dịch nghĩa, văn phạm, văn thể, ngài cũng biết rất rành. Nên ngài mang về Trung Hoa rất nhiều kinh sách bằng Phạn văn... Từ Đôn Hoàng, ngài vào Trường An. Trên đường vào đó, ngài đã phiên dịch ra Hoa văn. Tổng số dịch phẩm của ngài có 165 bộ (thứ), trong đó có Chánh Pháp Hoa, Quang Tán Bát Nhã, vân vân. Cần cù với công việc, chỉ lấy sự hoằng dương làm chí nghiệp, nên ngài phiên dịch suốt đời, mệt nhọc mấy cũng không từ. Kinh pháp lưu thông rộng rãi tại Trung Hoa, đầu tiên, là nhờ Ngài.
Cuối đời Vũ Đế nhà Tấn, Ngài ẩn cư trong núi sâu. Núi ngài ở có suối nước rất trong, ngài thường lấy dùng. Sau đó, một tiều phu phóng uế bên cạnh, suối cạn liền. Ngài bồi hồi, than, chắc ta phải dời đi nơi khác. Nói xong, suối tuôn nước như cũ. Đức chân thành của Ngài cảm ứng đến như thế đó.
Về sau ngài dựng chùa ngoài Thanh Môn của Trường An, tinh tiến hành đạo, đức hóa vang xa, tăng tín vài ngàn thời ngài tu học. Đến đời Duệ Đế nhà Tấn, bôn tẩu về hướng tây, dân chúng di tản. Ngài cùng môn đồ cũng di tản tị nạn, đi về hướng đông, đến Thằng Tri thì bệnh mà tịch, thọ 78 tuổi.
Sự phiên dịch của ngài Pháp Hộ được sự cọng tác của cha con cư sĩ Nhiếp Thừa Viễn, rành Phạn Văn, văn chương không lụy về nếp sáo cổ, lại dốc chí vào công việc hoằng pháp. Thử ngoại còn có các ngài Trúc Pháp Thủ, Trần Sĩ Luân, Tôn Bá Hổ, Ngu Thế Nhã, vân vân. Ngài Đạo An đã phê phán như sau :
- “Kinh sách xuất từ tay ngài Pháp Hộ thì cương lĩnh chắc chắn chính xác, không hoa mỹ nhưng khoáng đạt ; diệu ngộ vô sanh, nên Ngài bằng vào tuệ giác mà không vụ văn hóa Vi chất phát nên tiếp cận với nguyên ngữ.”
Được ngài Đạo An ca tụng đến như thế thì đủ biết sự phiên dịch của ngài Pháp Hộ như thế nào rồi.
Vì ngài cư ngụ tại Đôn Hoàng mà đức hóa khắp nơi, nên thời bấy giờ đều tôn xưng là Đôn Hoàng Bồ Tát. Sự tôn xưng nầy, đến nhà Đường, ngài Đạo Tuyên viết bài tựa thuật lược sử hoằng truyền kinh Pháp Hoa, cũng vẫn dùng đến.
Về niên đại của ngài Pháp Hộ, theo tiểu truyện dẫn thượng, ngài tịch quãng năm 304, năm Duệ Đế nhà Tấn bôn tẩu về Tây, thọ 78 tuổi ; như vậy, niên đại của ngài ước định 326-304, thế kỷ thứ Chín sau Phật niết bàn, cùng thời đại với Thế Thân Bồ Tát, sau Long Thọ Bồ Tát hai thế kỷ, trước ngài Đạo An hai phần ba thế kỷ, La Thập và Pháp Hiển một thế kỷ, Huyền Trang ba thế kỷ rưởi. Điều đáng ghi là theo sự ước định của Lương Khải Siêu (Trong sách dẫn thượng, bài Phật Pháp Đại Sự Biểu, phụ lục của bài số một, trang 15) ngài Pháp Hộ bắt đầu phiên dịch từ năm 266, điều nầy đúng với câu “trên đường vào, đã bắt đầu phiên dịch” của tiểu truyện, và chứng tỏ ngài không đi một mạch đến Trường An, cũng không phải tất cả dịch phẩm của ngài đều được dịch ở đó. Nên trong phần Đại Sự Niên Biểu, trang 15, Từ Hải ghi Ngài đến Trung Hoa năm 286, chỉ là ghi năm vào đến Trường An.
Về số lượng dịch phẩm của ngài Pháp Hộ, tiểu truyện ghi 165 bộ (thứ), không ghi số cuốn. Từ Hải, ngay nơi điều dẫn thượng, thêm rằng dịch 210 bộ. Số lượng của tiểu truyện là kê vào đời nhà Lương Vũ Đế (502-549), thời đại Cao Tăng Truyện dẫn thượng được biên tập (thường gọi là Lương Cao Tăng Truyện), nghĩa là sau thời đại ngài Pháp Hộ non hai thế kỷ rưởi. Nay tôi căn cứ mục lục của Đại Tạng kinh, bản Đại Chánh Tân Tu của Nhật Bản, thống kê về số lượng dịch phẩm của ngài Pháp Hộ thì thấy :
- Loại A hàm : 11 thứ, 11 cuốn,
- Loại Bản Duyên : 07 thứ, 18 cuốn,
- Loại Bát Nhã : 01 thứ, 10 cuốn,
- Loại Pháp Hoa : 03 thứ, 14 cuốn,
- Loại Hoa Nghiêm : 05 thứ, 19 cuốn,
- Loại Bảo Tích : 16 thứ, 27 cuốn,
- Loại Niết Bàn : 04 thứ, 07 cuốn,
- Loại Đại Tập : 04 thứ, 21 cuốn,
- Loại Mật Giáo : 01 thứ, 01 cuốn,
- Loại Kinh Tập : 43 thứ, 79 cuốn.
(Linh tinh trong đó có Thiền)
Tổng cọng tất cả 95 thứ, gồm 207 cuốn.
Phụ chú : Từ Hải nói 210 bộ, nếu là cuốn thì khá đúng.
Sau đây là vài chi tiết, xin lưu ý độc giả :
1.- Tổng số nầy chắc chắn thiếu. Vì xưa cũng như nay, không một Đại Tạng kinh nào kê và in đầy đủ hết kinh điển hiện còn. Đó là chưa kể hai loại : Một số mất hẳn và một số mất tên dịch giả. Tích cách sử của Cao Tăng Truyện rất ít sai, vậy mà kê 165 thứ, thì đủ biết mất không ít.
2.- Nhìn vào thống kê trên, ta thấy ngài Pháp Hộ dịch toàn kinh, luật và luận không có, hay có mà mất. Tuy vậy, có một điều có thể nhìn thấy : Ngài Pháp Hộ dịch nhiều nhất, so với người trước và đồng thời, về các loại quan trọng : Pháp Hoa, Bát Nhã, Niết Bàn và Hoa Nghiêm. Nhất là hai loại Pháp Hoa và Bát Nhã. Không những dịch nhiều nhất, mà có loại ngài là người làm công việc khởi đầu, như chính kinh Pháp Hoa. Liên quan đến điều nầy, Lương Khải Siêu, trong sách dẫn thượng, bài Phật Điển Chi Phiên Dịch (số 10, trang 25) có vài đối chiếu về dịch phẩm của ngài, rất dễ thấy cho người mới đọc, mới học. Ai quen đọc và tra Đại Tạng kinh (bản Đại Chánh Tân Tu) thì sự đối chiếu các dịch phẩm, một sự đối chiếu chính xác nhất, cứ lật Mục lục ra là thấy rõ ràng tất cả.
3.- Có điều chắc chắn là ngài Pháp Hộ không dịch được nhiều như chỗ sở học của Ngài. Vì tiểu truyện nói ngài ẩn cư núi non một thời gian, thêm nữa, thời đại của ngài, sự phiên dịch và sự tổ chức phiên dịch vẫn còn phôi thai. Vả chăng, có bao bao giờ ai biết có bao nhiêu đưa ra hết được bấy nhiêu đâu. trừ ngài Huyền Trang chỉ còn thấy than chỉ còn không dịch được bộ Đại Bảo Tích, còn người than nhiều nhất về điều trên đây chính là ngài La Thập. Ngài Pháp Hộ chắc chắn cũng vậy.
4.- Văn ngài dịch thì ngoài lời bình nghị của ngài Đạo An mà xưa nay ai cũng kính trọng là công minh bậc nhất, ta còn phải nhìn vào thời đại của ngài, để thấy công phu của ngài không nhỏ, và tương đối tiến bộ cũng không ít đâu.
5.- Kinh Vu Lan Bồn là số 685, trong loại Kinh Tập. Ở đây phụ chú kinh nầy nên đặc biệt nêu lên.
6.- Lương Khải Siêu, trong bài Phật Giáo Đại Sự Biểu, phụ lục của bài số một, trong sách dẫn thượng (trang 15) có đến Bảy việc dành cho ngài Pháp Hộ :
*.- 266 : Ngài bắt đầu dịch kinh (1).
*.- 269 : Niết bàn của Đại thừa bắt đầu xuất hiện do ngài dịch (2).
*.- 272 : (3 – sai nên không trích).
*.- 288 : Pháp Hoa và Phóng Quang Bát Nhã bắt đầu xuất hiện do ngài dịch (3 và 5).
*.- 302 : (6 và 7 sai nên không trích).
Bất cứ kẻ nào đọc hay học kinh sách Hoa văn, đều nhận vai trò và ảnh hưởng, nhất là nhân cách của ngài Pháp Hộ. Phần tôi, vốn ngưỡng mộ Ngài từ hồi còn học Trung đẳng Phật học. Sự ngưỡng mộ ấy ngaỳ một tăng, không giảm. Nay có dịp nên viết đôi điều về Ngài, gọi là hiến lên ngài chút ít lòng ngưỡng mộ ấy. Tuy nhiên, có ba việc thật đã chưa làm được ở đây, đó là quốc gia Nhục Chi của ngài, tư tưởng và ảnh hưởng của ngài qua các dịch phẩm. Hãy để cơ hội khác. Ở đây chỉ nói, tuy đã gần hết 17 thế kỷ rồi, vậy mà Vu Lan Bồn, một bản kinh rất ngắn, nhưng hằng năm, cứ đến mùa Vu Lan Báo Hiếu, lời dịch của Ngài non 1,700 năm về trước, vẫn đưọc duy nhất tụng lên, và hình ảnh của ngài lại càng hiện rõ trong niềm ngưỡng mộ của các Học giả Phật học, thì cũng đủ biết.
3.- Phần Phụ chú Kinh văn :
Từ lúc được nhìn thấy kinh Pháp Hoa, đọc câu :
“Thị pháp trú pháp vị, thế gian tướng thường trú, Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết nhất thừa”, cho đến giờ nầy, tôi vẫn chưa lúc nào dịch được câu ấy sao nghe cho được mà cảm thấy hiểu như đọc nguyên văn. Cũng chưa thấy ai dịch cho được như vậy. Thành thử cái câu quan trọng nầy, tôi thấy, cứ để vậy mà đọc tụng, còn được hiểu hơn là dịch ra.
Nói một thí dụ đó để làm điển hình cho một số kinh, hay một số văn trong đó, cứ đọc tụng nguyên ngữ khí, nhờ chính ngữ khí đó mà ta cảm thấy hiểu được, và nhất là cảm thấy tôn trọng và thấm thía hơn lên. Kinh nầy có chỗ cũng vậy. Cứ để nguyên ngữ khí mà đọc tụng, lại thấy dễ hiểu, cảm động, hơn là dịch rồi lại giải thích ra.
Do đó, tuy đã dịch rồi bây giờ sắp phụ chú, tôi cũng chỉ ghi những điều làm tăng sự sùng kính hơn là sự lý giải.
“Tôi nghe như vầy :
Một lúc Phật ở trong vườn trưởng giả Cấp Cô Độc, còn cây thì của thái tử Kỳ Đà, thuộc nước Xá Vệ.”.
“Tôi nghe như vầy” là Tôn giả A Nan tự xưng để thuật lại kinh nầy. Tuy nhiên, câu ấy chính do Phật lúc gần Niết bàn, đã dạy ngài như thế, ở đầu tất cả các kinh, trong lúc kết tập. Đoạn văn tiếp theo câu ấy là tôn giả A Nan thuật lại xuất xứ của kinh nầy.
Phật, ở đây là đức Bổn sư Thích Ca. Phật là ngôi vị phải do ba vô số kiếp tu tập phước trí, thân tối hậu phải đủ 32 tướng và thành Phật bằng quá trình gọi là bát tướng thành đạo, có đủ mười đức biểu hiệu bằng mười danh hiệu, sau hết Phật là gốc của Pháp và thầy của Tăng mà thành Tam Bảo, và xuất thế để làm Năm việc :
- Chuyển pháp luân,
- Độ cha mẹ,
- Đem đức tin lại cho kẻ không có đức tin,
- Ai chưa có chí nguyện Bồ tát thì làm cho họ có,
- Và thọ ký làm Phật cho hàng Bồ tát.
(Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 622, 699, 703).
Do đó, muốn hiểu Phật, phải có đức tin và sự thấy biết phù hợp với cái trí không thể phá hoại (Trung A Hàm, ĐT, 1, 732).
Tôi thiết nghĩ, nội một vài sự nhỏ nhặt sau đây cũng đủ cho ta hiểu Phật như thế nào, bằng tầm mức con người chúng ta : Giác ngộ rồi, Phật tuyên bố ngay rằng, nếu có ai nói một cách đúng đắn để nói đến cái điều sáng suốt nầy : Tất cả chúng sanh sanh ra ở đời, thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp, thì người ấy chính là ta đây.
- Vì chính ta nói đến cái điều sáng suốt nầy : Tất cả chúng sanh sanh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp (Trung A Hàm, ĐT, 1, 680). Lại xác định hết thảy các thiện pháp là chính sáu giác quan (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 225), nhìn bồ đề đại thọ đến bảy ngày không chớp mắt (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 618), xác nhận đưa đệ tử vào pháp tuyệt đối, không phiền không nhiệt và vĩnh cữu (Trung A Hàm, ĐT, 1, 769), minh định rằng, đối với một thực vật đang cháy còn không muốn nó hủy hoại, huống chi muốn hủy hoại động vật (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 352), cây mà hiểu được ý Phật nói thì Ngài cũng phán quyết cho biết được giải thoát như thế nào (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 240). Dạy đệ tử rằng các người ở trong Phật pháp vẫn vô phước là vì không săn sóc bệnh nhân.
Ngài tự tay rửa trừ đồ bẩn và sửa soạn chỗ nằm cho bệnh nhân, ngăn sự làm thay của chư thiên mà bảo, khi xưa làm Bồ tát, vì một con chim mà ta còn không tiếc tánh mạng, huống chi nay làm Phật mà ta lại bỏ một Tỳ kheo bị bệnh. Rồi ngài tự tay quét phòng, giặt y, đỡ bệnh nhân dậy mà tắm rửa cho, xong, đưa lại giường, tự tay trao đồ ăn. Ăn xong, chính ngài rửa bát, và khuyên hãy cố mà trừ khử nguyên nhân của bệnh tật bây giờ và đời sau. Vị Tỳ kheo đang bệnh nghe dạy, nhìn kỷ ngài, tức thì đốn ngộ. Phật lại định luật, ai không chăm sóc bệnh nhân thì phải xử phạt (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 766 và 767). Kêu gọi đệ tử, hãy thương và đừng oán ta, vì ta không thuyết pháp như thợ gốm làm đồ gốm, mà ta chỉ dẫn cho thấy những sự nghiêm trọng, cấp bách, chí khổ, và ai chân thật thì có thể vượt qua được (Trung A Hàm, ĐT, 1, 740). Con người của Phật thánh thiện cho đến nỗi ngoại đạo cố quán sát cả bốn tháng, thấy đến nỗi ăn mà khi đồ ăn chưa đến sát miệng, miệng không hả ra được (Trung A Hàm, ĐT, 1, 687). Do đó mà chỉ có kẻ ngước nhìn tôn nhan của Phật cũng đốn ngộ và giải thoát (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 752) và kẻ điên nhìn Phật cũng tỉnh (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 317). Còn đệ tử thì đến cư sĩ cũng tự tin rằng không còn sanh ra bởi dạ con, sống bằng khí huyết và tăng thêm mồ mả (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 152). Những chi tiết nhỏ nhặt mà trong vài mươi phút duyệt lại ghi chú cũ, tôi cũng đã thấy được trên đây, cùng loại còn có vô lượng vô số sự việc nằm trong kinh điển, nhất là Bốn bộ A Hàm và Luật Tạng, tập hợp lại thành đức Phật mà con người càng biết càng tôn kính.
Riêng sự hiếu hạnh của Phật, chính Ngài đã nói với Ba Tư Nặc Vương, ta cũng là thành phần loài người, cha là Chân Tịnh, má là Ma Gia (Tăng Nhất Hàm, ĐT, 2, 637). Nên ngay trong năm công việc đã dẫn thượng của Phật, đối với cha mẹ, quan trọng đến nỗi có chỗ đã tách ra làm hai và dịch kê ra như sau :
- Chuyển Pháp luân,
- Thuyết pháp cho cha,
- Thuyết pháp cho mẹ,
- Hướng dẫn phàm phu,
- Và, thọ ký cho hàng Bồ tát.
(Tăng Nhất A Hàm, ĐT. 2, 622)
Năm công việc nầy chính do Phật tự kể để trả lời tôn giả Ưu Tỳ Ca Diếp hỏi ngài, khi thấy người xoay người lại, hồi hướng về Ca Tỳ La Vệ, hoài niệm thân phụ, họ hàng, quê hương, và sắp về vấn an, thuyết pháp. Khi về, ngài nghĩ, ân cha rất nặng, tình dưỡng dục rất dày, nên ngài đến gặp mà không để cho Phụ hoàng nghênh đón. Khi sắp giáp mặt, ngài phi lên không trung bảy thước, mà theo ý ngài Tôn Mật, khi sớ giải kinh Vu Lan Bồn, đã giải thích là tránh cái lạy trực tiếp của cha (ĐT, 35, 505 ; TT. 35, 107a). Và lần về thăm nầy, Phật độ cho thân phụ, bà con cũng được không ít, trong số đó có hai em con chú là A Nan Đà và A Na Luật xuất gia (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 622 và 623).
Đời Phật, việc thương tâm nhất là họ bị tàn phá bởi Lưu Ly Vương. Tuy biết nghiệp cũ khó tránh, bắt đầu ngài đã cố cản được, bằng cách đón đường, ngồi dưới một gốc cây khô, và trả lời Lưu Ly Vương về ngụ ý của ngài, rằng sự che chở của thân tộc vẫn hơn người ngoài (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 690 và 691). Phật hiếu hạnh đến nỗi đến lúc niết bàn, ngài vẫn đề cao phụ mẫu lực mà không xử dụng thần túc lực và trí huệ lực (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 749). Và đối với kế mẫu, bà Đại Ái Đạo, lúc nhập diệt, Phật đã từ chối sự làm thay của chư thiên, nói rằng, cha mẹ sanh thành, làm con lợi ích rất nhiều, ân nuôi dưỡng không thể không báo đáp, rồi đích thân khiên một góc linh sàng, ba góc kia khiến ba tôn giả Nan Đà, La Vân và A Nan khiêng, đến tận chỗ hỏa táng, cũng chính Phật đích thân hỏa táng kế mẫu (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 822 và 823). Quan trọng hơn cả là Phật lên Đạo Lợi an cư và thuyết pháp cho mẹ. Việc nầy Tăng Nhất A Hàm (ĐT, 2, 703) và Tạp A Hàm (ĐT, 2, 134) đều ghi. Ngài Pháp Hộ có một dịch phẩm đề rõ là Phật thăng Đạo Lợi Vị Mẫu Thuyết Pháp kinh (ĐT, 2, 134). Còn kinh Địa Tạng thì không những ngụ ý Phật báo hiếu cho mẹ bằng cách nói hạnh nguyện của Địa Tạng Đại Sĩ, mà còn đem chúng sanh tội khổ ký thác cho ngài, ngụ ý báo hiếu cha mẹ nhiều kiếp. Nay, ở đây, bằng kinh Vu Lan Bồn, Phật dạy cách báo hiếu cho muôn đời đệ tử của ngài. Nhưng, tất cả và hết thảy, không quan trọng bằng, khi mới thành đạo, ngay dưới gốc bồ đề đại thọ, Phật đã kết Bồ tát giới, rằng “Hiếu là Giới”, vì “Lục đạo chúng sanh là cha mẹ”. Chính điều nầy chỉ dẫn cho thấy, đối với Phật, “Hiếu hạnh là Luật”.
“Một lúc Phật ở”, nói một lúc là vì Phật ở đâu cũng chỉ một thời gian ngắn, vừa đủ. Chỉ đọc bốn bộ A Hàm không thôi, cũng thấy Phật đi hóa độ luôn luôn và khắp nơi, không bao giờ ở yên một chỗ. Ngay sau mỗi lần an cư, gần ngày giải chế, ngài đã sửa lại y để lên đường, Phật lại ít ngủ. Mỏi lưng thì nằm xuống nghiêng lưng phải, hai chân chồng lên với nhau và nghỉ đến sáng. Có đêm còn kinh hành dưới trời mưa lâm râm (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 362).
Những câu tiếp theo là Phật thuyết kinh Vu Lan Bồn. Cấp Cô Độc là định nghĩa Phạn ngữ Anathapindada (A na tha trần đa, hay A na phân để). Kỳ Đà hay Thệ Đa là dịch âm Phạn ngữ Jeta (dịch nghĩa là Thắng). Nguyên văn kinh nầy nói Kỳ Thọ tức là chỗ khác nói Thệ Đa Lâm đó vậy. Nói vườn Cấp Cô Độc, cây của Kỳ Đà, tức nguyên văn Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên là do sự tích sau đây : Cấp Cô Độc quy y Phật rồi, tìm chỗ kiến thiết tịnh xá, thấy không đâu bằng khu vườn như rừng của Kỳ Đà, cây và suối đủ cả. Hỏi mua, Kỳ Đà không chịu, nói chơi rằng lát vàng khắp đất và dày năm tấc mới bán. Không ngờ Cấp Cô Độc chịu và làm y lời. Kỳ Đà cảm kích và giao đất phần Cấp Cô Độc, còn phần cây mình, chung nhau hiến Phật. Phật dạy tôn giả A Nan hãy để tên hai người đúng chung, và gọi như nguyên văn trên.
Xá Vệ, hay Thất Ra Phạt, là dịch âm Phạn ngữ Sravasti, dịch nghĩa là văn vật, một nước mà nay là Rapetmapet, nam ngạn sông Rahti, thuộc tây bắc Ấn Độ. Đời Phật, Xá Vệ là quốc gia của Ba Tư Nặc, cha của Kỳ Đà thái tử. Khu vườn mà đất là của Cấp Cô Độc còn cây thì của thái tử Kỳ Đà là thuộc thành Xá Vệ. Đó là chỗ Phật thuyết nhiều kinh, trong đó có Vu Lan Bồn.
“Lúc ấy tôn giả Đại Mục Kiền Liên mới thực hiện được sáu thứ thần thông, muốn cứu cha mẹ, đền đáp ân đức sanh thành dưỡng dục, nên dùng thiên nhãn quan sát khắp cả thế giới luân hồi, nhìn thấy mẹ mình sanh trong ngạ quỷ, không được ăn uống, da liền bọc xương, tôn giả thống thiết, lấy bát đụng cơm đem hiến cho mẹ. Bà mẹ nhận được, tức thì tay trái che lấy cái bát, tay phải bốc cơm. Cơm chưa vào miệng, đã thành than lửa, nên ăn không được. Tôn giả kêu gào, khóc lóc bi thảm, chạy về bạch Phật, trình rõ mọi việc.”
Đại Mục Kiền Liên, hay Ma ha (đại) Mục Kiền Liên, Phạn ngữ là Mahamaudragalyana, là tên gọi theo họ mẹ. Gọi theo họ cha thì là Câu Lợi Ca hay Câu Luật Đà.
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên là hai vị thượng túc đệ tử của Phật Thích Ca (Trường A Hàm, ĐT, 1, 3). Xá Lợi Phất là trí huệ đệ nhất, Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất, nhưng có trường hợp không hẳn như vậy (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 709 và 710). Tôn giả Xá Lợi Phất gặp Phật trước, tin cho bạn và tôn giả Mục Kiền Liên cũng quy y Phật luôn. Hai ngài là bạn chí thiết, sống chết với nhau, nên ngài Mục Kiền Liên sắp nhập diệt thì ngài Xá Lợi Phất cũng nhập diệt trước (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 639-641). Và khi hai ngài nhập diệt rồi, đến một ngày bố tát, Phật bảo, ta thấy đại chúng trống không vì hai người nầy đã không còn nữa, mà hai người nầy đem lại tài sản tiền bạc (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 177). Tôn giả Mục Kiền Liên thường thưa với Phật, nếu nói đúng đắn rằng Phật tử là sanh ra từ miệng Phật, hóa ra từ Phật pháp, được gia tài Phật pháp, thì Phật tử ấy chính là con đây ; trong một ngày mà được Phật ba lần đến tận chỗ con ở, đưa con ở vào chỗ ở của vĩ nhân (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 132). Ngài biết rành 64 thứ ngôn ngữ nên đã lnãh sứ mạng vào tận vô gián địa ngục thăm Đề Bà Đạt Đa (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 804-806). Có một sự liên hệ đặc biệt là đại chúng đã ủy thác cho Ngài lên Đao Lợi thỉnh Phật, sau khi Phật đến đó thuyết pháp cho mẹ mà không cho ai hay để họ khát vọng, hết giải đải (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 705 và 706). Việc nầy do thần thông đệ nhất, nhưng ngẫu nhiên mà liên hệ đến hiếu hạnh của Phật và của Ngài.
Sáu thứ thần thông là :
a.- Thần cảnh trí chứng thông (Rddhividhi-Jnana),
b.- Thần nhãn trí chứng thông (Divya-Caksus),
c.- Thiên nhĩ trí chứng thông (Divya-Srotra),
d.- Tha tâm trí chứng thông (Paracitta-Jnana),
e.- Túc mạng trí chứng thông (Purvanivasnusmrti-Jnana),
g.- Lậu tận trí chứng thông (Asravaksaya-Jnana).
Năm thứ đầu ai cũng có thể thực hiện được, thứ sáu chỉ thánh giả đệ tử Phật mới thực hiện được mà thôi.
Nghĩa sơ lược như sau :
*.- Thứ nhất : Biến hóa như ý,
*.- Thứ hai : Thị giác vô ngại,
*.- Thứ ba : Thính giác vô ngại,
*.- Thứ tư : Biết tâm lý người,
*.- Thứ năm : Biết đời kiếp trước,
*.- Thứ sáu : Sạch hết phiền não.
Tuy nói năm thứ đầu ai cũng được, nhưng Phạm Thiên đi nữa, thấy cả ngàn thế giới mà không tự thấy phục sức của mình, vì lẻ không có “Con mắt tuệ giác vô thượng” (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 581). Như thế cũng đủ biết ngũ thông của kẻ khác, chất và lượng đều khác xa chất và lượng ngũ thông của đệ tử Phật.
Theo nguyên văn, đáng lý chỉ dịch “muốn cứu cha mẹ, trả ơn bú mớm”. Nghĩa là chỉ nói cái ơn nuôi dưỡng. Tôi dịch “đền đáp ơn đức sanh thành dưỡng dục” là để cho đủ hai cái ơn sanh và dưỡng. Phật pháp luôn luôn cảnh giác rằng, thân người khó được mà dễ mất. Khó được mà được là một phần nhờ ơn sanh, dễ mất mà còn là một phần nhờ cái ơn dưỡng. Cái lý cha mẹ vì sinh lý mà có con chớ có ơn gì, chỉ nên để cho kẻ khác nói.
Còn những kẻ làm con của Phật thì phải biết :
“Có hai việc làm cho phàm phu được đại công đức, thành đại quả báo, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, đó là phụng sự cha mẹ được đại công đức, thành đại quả báo khi cúng dường vị Bồ tát chỉ một đời nữa là làm Phật. Vì vậy, các thầy Tỳ kheo, hãy luôn luôn nhớ mà hiếu thuận phụng sự cha mẹ.”
“Các thầy Tỳ kheo, có hai người mà các thầy hướng dẫn làm điều thiện đi nữa cũng vẫn chưa trả ơn được, đó là cha mẹ. Nếu có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ đến ngàn vạn năm, cung phụng đủ cả đồ ăn, đồ mặc, đồ nằm và thuốc thang, để cho cha mẹ đại tiện tiểu tiện ngay trên vai của mình đi nữa, cũng chưa trả hết ơn cha mẹ. Các thầy phải hiểu rằng ơn cha mẹ nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng lúc, không lỡ cơ hội, làm cho ta thấy được vầng nhật nguyệt, vì thế mà biết ơn đó rất khó trả. Do đó, các thầy phải phụng dưỡng cha mẹ, luôn luôn hiếu thuận cho đúng lúc, không lỡ mất cơ hội”. (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 601).
Những lời trên đây chính Phật trực tiếp dạy cho người xuất gia. Người xuất gia không thể nại cớ chỉ lo phần hướng dẫn cha mẹ làm lành, hay nại chính cái cớ xuất gia, mà không phụng sự cha mẹ khi cha mẹ cần đến mình. Nếu xuất gia mà khi cha mẹ cần đến mình, mình không thể đáp ứng, thì thà tại gia để suốt đời phụng dưỡng cha mẹ (Trung A Hàm, ĐT, 1, 500). Bởi vì ngài Trí Húc đã dẫn lời dạy : “Có hai vị Phật sống ở trong nhà các ngươi, đó là cha và mẹ” (TT, 35, 154a), bởi vì kinh Bảo Tạng dạy, hiếu thuận cha mẹ là vua trời Đế Thích ở trong nhà các người, thực hành hiếu là chúa trời Đại Phạm ở trong nhà các người, hiếu tận lực thì đức đại giác Thích Ca ở trong nhà các người (TT, 59, 201a), bởi vì ngay trong giới luật Thanh Văn Thừa đi nữa, thí dụ, thấy cha mẹ bị bắt, không cố chuộc ra, là phạm đệ thất tụ (TT, 59, 213a). Nên tôn giả Mục Liên được thần thông là nghĩ ngay đến việc cứu độ cha mẹ, nhưng chắc chắn trước đó, ý nghĩa nầy là động cơ của mọi chí nguyện và nổ lực của ngài, nên kinh tán nói “Vạn cổ hiếu danh xưng” cũng không quá đáng.
Đoạn văn trên đây là sự việc trực tiếp mở đầu kinh và pháp Vu Lan Bồn. “Như pháp khấc thực mà hiến cho cha mẹ thì phước đức rất lớn” (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 22). Nhưng mẹ ngài Mục Kiền Kiên, khi nhận được bát cơm của ngài hiến, tức thì tay che tay bốc, là cái nghiệp tham lẫn hiện hành ra đó : Không ăn được là vì vậy. Vì lâu ngày nên tôi quên mất xuất xứ, nhưng vẫn nhớ, chính Phật khi xưa, khi còn làm một ngục tốt, mục kích cái khổ địa ngục, phát bồ đề tâm, nghĩ muốn chịu thay cho tất cả tội nhân, nhờ vậy mà chết liền, thoát ngay cái kiếp ngục tốt ấy, mở đầu cho sự làm Phật của ngài (Sách của tập chí niết bàn xưa ; năm 1952, qua Nhật, tôi cũng được thấy một minh họa chuyện nầy để dạy nhi đồng của Phật giáo xứ ấy), kể một kẻ bị đọa địa ngục, nhờ nghĩ rằng, hãy để mình chịu mọi cực hình thay cho bao nhiêu tội nhân khác, nên thấy một sợi tơ rất nhỏ như tơ nhện, từ trên cao gióng xuống. Kẻ ấy nắm lấy thì tự nhiên sợi tơ từ rút lên. Thấy vậy, tội nhân tranh nhau đến nắm nhiều quá, kẻ ấy đâm hoảng, đổ lếu, la lên rằng đừng nắm kẻo đứt, tức thì sợi tơ đứt ngay. Do đó, mà biết, giả như khi nhận được bát cơm, mẹ ngài Mục Liên biết rộng rãi, chia cho kẻ khác với, biết thương thân mà thương luôn kẻ cùng cảnh ngộ, thì không những ăn được mà chắc chắn còn thoát được cái kiếp ngạ quỷ ngay : Đó là ý kiến của hầu hết các nhà chú giải kinh Vu Lan Bồn.
“Phật dạy tôn giả Đại Mục Kiền Liên, thân mẫu của ông gốc rẽ tội ác kết đã quá sâu, không phải năng lực của một mình ông có thể giải cứu. Dẫu ông hiếu thuận vang động trời đất, nhưng mà những vị thiên thần địa kỳ, tà ma ngoại dạo, các vị đạo sĩ và bống thiên vương cũng đều không thể làm gì cho được. Phải nhờ thần lực của Thập Phương Tăng, mới được giải thoát. Nay ta dạy ông cách thức cứu vớt, để cho hết thảy những kẻ tai nạn đều thoát thống khổ.”.
Bốn Thiên vương là những tướng của Đế thích. Tu di sơn, nửa lưng có một núi tên Càn Đà Ra. Núi nầy có bốn đầu. Bốn Thiên vương mỗi người ở một đầu, hộ vệ cho bốn châu loài người, nên gọi là bốn vị thiên vương hộ vệ thế gian. Chỗ họ ở gọi là Tứ vương thiên, tầng thứ nhất của sáu tầng trời Dục giới.
Bốn thiên vương :
a.- Đông là Trì quốc thiên (Đa la tra : Dhritarastra),
b.- Nam là Tăng trưởng thiên (Tỳ lưu ly : Virudhaka),
b.- Tây là Quảng mục thiên (Tỳ lưu bát xoa : Virupaksa),
c.- Bắc là Đa văn thiên (Tỳ sa môn : Dhanada hay Vaisramana).
Thập phương Tăng sẽ giải thích ở ngay đoạn sau.
Phật hứa dạy cách cứu độ cha mẹ cho tôn giả Mục Liên, mà nói để cho hết thảy những kẻ tai nạn đều thoát thống khổ, thì không phải chỉ dạy cho một mình tôn giả Mục Liên, không phải chỉ dùng cứu độ một mình mẹ ngài, cũng không phải chỉ cứu độ ngạ quỷ, mà là dạy cho hết thảy Phật tử, cái cách cứu độ tất cả cha mẹ ở nơi thống khổ.
“Đại Mục Kiền Liên, thập phương Tăng chúng lấy rằm tháng bảy làm ngày tự tứ. Các người hãy vì cha mẹ bảy đời, cha mẹ hiện tại, những kẻ đang ở trong vòng tai nạn, mà sắm trái soạn đủ cả mùi vị, các thứ trái cây, bồn chậu để rửa, hương du đèn nến, giường trải đồ nằm ; đem đồ ngon nhất đặt vào trong bồn, hiến cúng Thập phương Đại đức Tăng chúng.”.
Thập Phương Tăng, Thập phương Tăng chúng, hay Thập phương Đại đức Tăng chúng, ba từ ngữ nầy chỉ là một ý.
Tăng hay Tăng già, là dịch âm Phạn ngữ Sanga. Dịch nghĩa là Chúng : Bốn người xuất gia sắp lên, sống hòa hợp với nhau theo nguyên tắc lục hòa thì gọi là Chúng hay Tăng. Tăng chúng hay Chúng tăng là tiếng ghép của Hoa Phạn. Thập Phương Tăng là người xuất gia ở tất cả mọi nơi. Khi những người nầy hiện diện tại một chỗ, trong một thời gian lâu hay mau, hay vĩnh viễn, với số lượng bốn người hay nhiều hơn đến bao nhiêu, đều gọi là Thập Phương Tăng, nghĩa là đại diện cho Thập Phương Tăng. Việc cúng dường Thập Phương Tăng, nhân ở đây đề cập ngày tự tứ mà tôi tạm nói hai trường hợp :
1.- Việc cúng dường Thập Phương Tăng trong ngày tự tứ thì có ý niệm cúng riêng, người thọ không có ý niệm thọ riêng, vật cúng cũng có thể đủ để quân phân.
2.- Việc cúng dường Thập Phương Tăng trong những lúc khác thì y theo giới 27 “Không được thọ thỉnh riêng biệt” và giới 28 “Không được thỉnh Tăng riêng biệt” của giới Bồ tát mà thi hành. Ở đây xin nói về hai việc đó một chút. Thỉnh và thọ thỉnh hay cúng và thọ cúng, không được riêng biệt mà phải tuần tự. Tuần tự là thế nầy : Thập Phương Tăng hiện diện tại một nơi, không kể thời gian lâu hay mau, hãy sắp thứ tự theo giới lạp. Thập phương Tăng thọ thỉnh hay thọ cúng theo thứ tự, là cứ theo thứ tự đã sắp mà đề cử thọ thỉnh hay chỉ định thọ cúng, hết người nầy đến người khác, hết lớp nầy đến lớp khác, giáp vòng thì bắt đầu lại. Người thỉnh hay cúng theo thứ tự, là thỉnh hay cúng theo sự đề cử và chỉ định đó. Như vậy người thỉnh hay cúng được một hay mấy vị đi nữa, một hay mấy vị đó là đại diện cho cả Thập phương Tăng mà thọ thỉnh hay thọ cúng. Người thỉnh hay cúng ấy, như vậy là cũng như thỉnh và cúng tất cả Thập phương Tăng, và cái phước họ được cũng là cái phước thỉnh hay cúng tất cả Thập phương Tăng.
Ngược lại, thỉnh hay cúng, thọ thỉnh hay thọ cúng riêng biệt, thì dầu số lượng có nhiều đến bao nhiêu, cái tính cách đại diện nói trên cũng mất đi, và đó là : “Cái quy chế có tính cách xả bỏ thiên vị mà bình đẳng, quân phân và rộng lớn) nên phạm giới.
Tuy nhiên ở đây nói thỉnh hay cúng và thọ thỉnh hay thọ cúng trong sự cúng dường cầu nguyện, ngoài trường hợp nầy thì không kể, hoặc còn nhiều tinh tiết khác nữa.
Liên quan đến việc thỉnh cúng hay thọ thỉnh cúng được riêng biệt nầy, tôi lược dịch một đoạn văn sau đây của Tăng Nhất A Hàm để thấy rõ hơn :
Phật hỏi tôn giả La Vân :
- Ông ở đâu đến đây ?
Tôn giả thưa :
- Con thọ trưởng giả Sư Tử thỉnh rồi đến đây.
- Vật thực tốt không ?
- Rất tốt và nhiều nữa.
- Tăng chúng thọ thỉnh bao nhiêu, ai là Thượng tọa ?
- Thượng tọa là tôn giả Xá Lợi Phất, Tăng chúng thần đức có đến 500 vị.
- Như vậy ông nghĩ trưởng giả Sư Tử có được phước nhiều không ?
- Rất nhiều.
- La Vân, nếu từ trong Tăng chúng, theo thứ tự mà thỉnh một vị rồi cúng dường (nghĩa là thỉnh một vị do Tăng chúng theo thứ tự mà sai phái, tức là đề cử thọ thỉnh), cái phước cúng dường một vị Tăng chúng sai phái ấy hơn cái phước đức cúng dường 500 vị La hán trăm ngàn vạn lần. Cái phước Tăng Chúng sai phái khó có ai biết được giới hạn. Vì lẻ sự thỉnh và cúng dường riêng chỉ như những dòng sông nhỏ, có thể được phước, có thể không. còn Tăng Chúng thì như bể cả. Trong Tăng Chúng có Tư Đà Hoàn hướng và có Tu Đà Hoàn quả, có Tư Đà Hàm hướng và có Tư Đà Hàm quả, có A Na Hàm hướng và có A Na Hàm quả, có A La Hán hướng và có A La Hán quả, có Duyên Giác, có Phật. Vì vậy mà biết Tăng Chúng sai phái phước đức không có giới hạn (ĐT, 2, 791 và 792).
Phạn ngữ Pravarana (Paly : Paravana) định nghĩa là tự tứ hay tùy ý. Kết hạ an cư đến ngày rằm tháng bảy thì giải chế. Trước khi giải chế, các việc quan trọng phải làm là tự tứ. Sau khi tự tứ, người xuất gia tăng thêm một tuổi xuất gia, nên ngày tự tứ cũng là ngày thọ tuế, ngày nhận tuổi mới mà thông thường gọi là hạ lạp. Tự tứ là sau ba tháng 90 ngày an cư, người xuất gia ai cũng hoan hỷ mà đưa mình ra cho những người xuất gia cùng an cư tùy ý chỉ trích, người được chỉ trích nếu thấy sai thì phân trần, và được cả chúng nhận định. Rồi có lỗi thì tùy lỗi mà y luật sám hối, phục hồi thanh tịnh. Do đó, Trung A Hàm (ĐT, 1, 610) đã dùng một chữ rất hay, đó là chữ “tương thỉnh”, chắc chắn ý nghĩa là xin nhau chỉ lỗi cho nhau.
Cách thức và lời nói tự tứ, ngài Tôn Mật viết :
Kẻ đương cuộc hay mù mờ, nên phải nhờ kẻ bàng quan chỉ cho những chỗ ưu điểm và nhược điểm, như thế dẫu không diệt vô minh chứng thánh quả thì cũng hy vọng diệt tội lỗi sinh phước đước. Nên trần vai áo bên phải (tức mang Pháp phục), quỳ trước Đại chúng mà bạch :
“Đại đức hay Trưởng lão hoặc thấy lỗi của tôi, hoặc nghe tội của tôi, hoặc nghi tôi phạm giới, thì xin tùy ý nêu lên, thương mà nói cho tôi, tôi sẽ sám hối”. Như vậy thân tâm sẽ thanh tịnh như ngọc pha lê, thiền định giải thoát có thể có được (TT, 35, 121b).
Lời trên nầy không chắc chắn bằng lời sau đây, do ngài Trí Húc dẫn :
“Đại đức Chúng tăng, hôm nay là ngày tự tứ, tôi cũng xin tự tứ. Nếu thấy nghe hay nghi tôi có tội gì, thì xin Đại đức hay Trưởng lão vì thương xót mà nói cho tôi. Nếu tôi thấy tội lỗi thì sẽ như pháp sám hối”.
Theo thứ lớp, ai cũng thưa như vậy ba lần (để được chỉ trích và sám hối). Tự tứ rồi mới hoàn tất việc an cư (TT, 35, 156b và 157a).
Nhưng cả hai lời trên đây tôi thấy klhông bằng cách thức và lời nói thọ tuế (tự tứ) trong Tăng Nhất A Hàm (ĐT, 2, 676 và 677) : Lúc ấy, đến ngày rằm tháng bảy, đức Thế Tôn trải tọa cụ ngồi giữa chỗ đất trống. Các vị Tỳ kheo vây quanh ngài. Ngài bảo tôn giả A Nan, hãy đánh kiền chùy lên. Vì hôm nay là ngày rằm tháng bảy, ngày thọ tuế (tự tứ).
Tôn giả thưa :
- Thọ tuế là thế nào ?
Phật dạy :
- Thọ tuế là làm sạch động tác của thân, miệng và ý. Cứ mỗi hai vị Tỳ kheo đối với nhau mà tự trình bày nhược điểm của hành vi. Bằng cách tự xưng pháp danh của mình và nói rằng, hôm nay Tăng Chúng thọ tuế, tôi cũng muốn thanh tịnh nên thọ tuế, xin tha thứ cho lỗi lầm của tôi.
Tôn giả A Nan hỏi :
- Việc nầy là phép của chư Phật hay chỉ mình Thế Tôn có ?
Phật nói :
- Quá khứ vị lai, hằng sa chư Phật đều có, như ta có ngày nay.
Tôn giả A Nan hoan hỷ hết sức, tức thì lên giảng đường đánh kiền chùy mà nói :
- Tôi đánh lên hiệu lệnh của Như Lai, đệ tử của ngài xin tập hợp lại.
Đại chúng tập hợp rồi, Phật nhìn mà nói :
- Hôm nay tôi thọ tuế : Tôi có lỗi với ai không, thân miệng và ý của tôi có phạm lỗi gì không ?
Phật nói ba lần như vậy, rằng hôm nay tôi muốn thọ tuế, nhưng tôi có lỗi gì với Tăng Chúng không ? Tôn giả Xá Lợi Phất đứng dậy, bạch Phật :
- Tăng Chúng quan sát Như Lai không thấy có lỗi gì về thân, miệng và ý. Như Lai cũng không có lỗi với ai cả. Còn phần con, con xin hướng về Như Lai mà tự trình bày : Con có lỗi với Như Lai và Tăng Chúng không ?
Phật dạy :
- Xá Lợi Phất, ông không có hành động gì phi pháp của thân, miệng và ý.
Tôn giả Xá Lợi Phát lại bạch Phật :
- Tất cả đại chúng Tỳ kheo đây cũng muốn thọ tuế. Tất cả đại chúng Tỳ kheo đây có lỗi gì với Phật không ?
Phật dạy :
- Không. (dịch lược Tạp A Hàm, ĐT, 2, 330) cũng có.
Bấy giờ là ngày rằm, ngày thọ tự tứ. Phật trải tọa cụ trước Đại chúng mà ngồi, bảo các vị Tỳ kheo :
- Tôi có thể nhổ cho các ông cái kiếm đã đâm vào các ông, các ông là con, từ miệng tôi mà sanh, từ chánh pháp mà hóa sanh, được tài sản chánh pháp. Các ông hãy nhiếp thọ tôi, đừng để thân, miệng và ý của tôi có những điều đáng hiềm trách.
Tôn giả Xá Lợi Phất đứng dậy, sửa y, lạy mà thưa :
- Chúng con không thấy thân, miệng và ý có gì đáng hiềm trách cả. Còn phần con, con xin Thế Tôn nhiếp thọ con, có thấy, nghe hay nghi con có lỗi, thân, miệng và ý con có điều gì đáng hiềm trách không ?
Phật bảo :
- Tôi không thấy thân, miệng và ý có điều gì đáng hiềm trách mà tôi đã thấy, nghe hay nghi.
Tôn giả Xá Lợi Phất lại thưa :
- Phần con không có, còn Đại Chúng nầy có ai mà Thế Tôn thấy, nghe hay nghi thân, miệng và ý có điều gì đáng hiềm trách không ?
Phật dạy :
- Tôi cũng không thấy không nghe không nghi ai trong đại chúng nầy có điều gì đáng hiềm trách về thân, miệng và ý (lược dịch).
Đoạn kinh nầy cũng là đoạn kinh có chữ “Tương thỉnh thỉnh” của Trường A Hàm đã dẫn thượng.
Như vậy sự tự tứ rất là quan trọng. Chính đức Phật cũng tự tứ để thọ tuế như ta đã thấy. Vì tự tứ quan trọng nên Thập Phương Tăng tự tứ mới đáng cúng dường, và cúng dường mới có phước đức lớn. Nhất là cúng dường Thập phương Tăng trong ngày Tự tứ, sự cúng dường mà kinh nầy đề cập.
Cha mẹ bảy đòi, không phải là bảy thế hệ, tức ông, cố, sơ vân vân, mà cha mẹ bảy đời kiếp đã qua của mình. Nhưng, “Chặt tất cả cây cối trên trái đất làm cái thẻ bằng bốn đốt tay mà tính thì cha mẹ quá khứ vẫn nhiều hơn” (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 241), như vậy tại sao chỉ nói bảy đời ? Trong kinh điển Phật giáo, và chắc chắn các kinh sách xưa của Ấn Độ cũng vậy, không vì lý do hay tập quán gì mà hay lấy con số bảy làm thành số như ta lấy mười làm thành số. Nên nói bảy đời thì cũnh như nói mười phần vẹn mười, không phải là một định số.
“Những kẻ tai nạn” là những kẻ trong số cha mẹ quá khứ hiện tại mà đang bị khổ sở. Hoặc câu nầy cũng có thể có nghĩa gồm có ba : Cha mẹ quá khứ, cha mẹ hiện tại và những người đang bị khổ sở khác. Sự khổ sở ấy chỉ có thể thoát được bởi các phước cúng dường Thập Phương Tăng trong ngày tự tứ.
Cúng dường như thế nào ? Đoạn kinh văn kể tiếp rõ vật cúng và cách cúng. Trước hết, có vài chi tiết nên nói đã. Nguyên văn nói : “Bách vị và tận thế cam mỹ”, chỉ là những thành ngữ diễn tả sự đủ mùi vị và ngon nhất, nên tôi đã dịch như vậy. Còn đoạn kinh văn nầy, năm 1956, lên Lào dự lễ Phật đản ở đó, tôi mới hiểu. Tôi thấy những người Lào sắm giường và chăn, màn, nệm hay chiếu đều mới. Trên giường ấy có để những vật dụng khác, cần thiết cho một vị Tỳ kheo được dùng theo giới luật cho phép. Trong số ấy có một cái mà kinh nầy gọi là Bồn, chứa đụng thực phẩm. Tàu viết Bồn, ta cũng gọi là Bồn mà không biết gọi cách gì cho ổn. Chứ thực ra vật dụng chứa đụng thực phẩm ấy không lớn như cái bồn theo tiếng ta. Vật dụng ấy miệng hình tròn hay hình thuẩn, cao cỡ ba tấc kể cả chân, và lớn vừa chứa thực phẩm cho một người ăn. Vật dụng có cái không chứa thục phẩm mà chứa vật dụng linh tinh cần cho một vị Tỳ kheo. Khi hiến cúng, người cúng hai tay bưng vật dụng nầy, tượng trưng cho giường trải đồ nằm và những vật dụng khác, trao cho vị Tỳ kheo. Vì ngày nay luật tạng Hoa văn cũng cấm người xuất gia tự tay lấy vật dụng mà không qua tay trao của người cúng đúng cách (TT. 35, 124b). Kể lại như vậy thì đoạn văn trên sẽ hiểu rất dễ và rõ ràng.
Tuy nhiên, cái cách và cái lòng hiến cúng hay bố thí mới là điều tối quan trọng. Có của mà cách cho của lếu láo thì không ra gì. Tôi xin trích và lược dịch sau đây, trong Tăng Nhất A Hàm, những lời Phật dạy để thấy cái cách ấy.
Phật dạy :
- Miệng ta không nói cho ta nhiều phước, cho kẻ khác ít phước (ĐT, 2, 827). Cho thì phải bình đẳng, đừng nghĩ cho kẻ nầy, không cho kẻ khác. Hãy nghĩ ai cũng nhờ ăn mới sống mà cho (ĐT, 2, 826). Từ khi mới phát tâm cho đến ngày thành đạo, lòng ta không có sự thêm bớt, không chọn người, không chọn địa phương. Nên cho thì hãy nhớ mãi ý niệm bình đẳng, đừng sanh tâm thị phi (ĐT, 2, 826).
Ba Tư Nặc Vương bạch Phật :
- Từ nay con cấm ngoại đạo vào lãnh thổ con. Con xin luôn luôn cúng dường những thứ cần dùng cho Tăng chúng.
Phật dạy :
Đừng nói như vậy, các súc vật còn được phước, nữa là (ĐT, 2, 781).
Hãy cho đúng lúc, cho sạch sẽ, cho bằng tay mình, cho với lòng cầu nguyện chứ không kiêu căng, cho một cách giải thoát chứ không cầu quả báo, cho mà cầu niết bàn chứ không cầu sanh lên chư thiên, cho bằng cách tìm ruộng phước mà cho chứ không bỏ vào đất hoang, cho rồi đem cái phước ấy cho mọi người mọi loài chứ không vì bản thân (ĐT, 2, 755).
Sư Tử trưởng giả thưa :
- Nghe Phật ca tụng cái phước cúng dường Tăng Chúng (qua vị được sai phái, nghĩa là đề cử theo thọ thỉnh), chứ không ca tụng cái phước thỉnh riêng, nên từ nay về sau con xin luôn luôn cúng dường Tăng Chúng.
Phật dạy :
Ta không nói rằng chỉ nên cúng dường Tăng Chúng mà không nên cho ai, vì cho súc vật còn có phước, huống chi cho mọi người.
Trưởng giả thưa :
Như vậy từ nay về sau con sẽ cúng dường Tăng Chúng và cho mà không lựa chọn ai cả.
Sau đó, lần khác, trưởng giả Sư Tử lại thưa Phật :
- Con đang nhớ lời ngài dạy cái cách thỉnh Tăng Chúng cúng dường thì có thiên nhơn đến bảo con, nên phân biệt vị nầy thế nầy, vị khác thế khác. Con nghĩ lời Phật nên không trái. Không thể có lòng lựa chọn phải trái cao thấp. Con lại nghĩ, con cúng dường và bố thí tất cả, còn ai giữ giới thì phước báo vô cùng, ai phạm giới thì tự chịu tai họa. Con chỉ nghĩ ai cũng phải ăn mới sống mà thôi.
Phật khen :
- Đó là cái nguyện rộng rãi, cái tâm bố thí bình đẳng của Bồ tát. Trưởng giả hãy nhớ sự bố thí bình đẳng thì phước được vô tận.
Bấy giờ trưởng giả Sư Tử chăm chú nhìn Thế Tôn, lòng không xao động, tức thì chưa rời chỗ ngồi mà con mắt chánh pháp đã trong sạch (ĐT, 2, 792). Từ nay sắp đi, con cấm ngoại đạo vào nhà con. Con chỉ mời đệ tử Phật, tại gia cũng như xuất gia. Đó là lời với đức Phật của cư sĩ Ưu Bà Ly. Ngài dạy cư sĩ cứ nên tiếp tục tùy sức cúng dường cho họ. Cư sĩ, ta không nói nên cho ta đừng cho kẻ khác, nên cho đệ tử ta đừng cho đệ tử kẻ khác, cho ta thì phước lớn, cho kẻ khác thì phước nhỏ. Cư sĩ, ta nói như thế nầy, hãy cho tất cả, tùy tâm hoan hỷ. Có khác chăng là cho kẻ tinh tiến thì phước nhiều hơn là cho kẻ biếng nhác, mà thôi (Trung A Hàm, ĐT, 1, 630).
Ty Tứ Vương (Payasi) bố thí nhưng cho đồ xấu, viên đầu bếp của ông là Ưu Đa La (Uttara) tìm cách cải thiện tâm cho ấy, nên khi chết thì sanh lên Tứ thiên vương, còn Ty Tứ Vương chết thì chỉ sanh được trong cung điện trống rỗng của rừng Nhĩ Thọ (Sunna Serisakavimana) thuộc cõi trời ấy. Tôn giả Kiều Kiệm Bát Đế (Gavampati) thấy, hỏi : Ty Tứ Vương xưng tên, tôn giả ngạc nhiên :
- Ông chủ trương không có đời sau và tái sanh, sao lại được lên đây ?
Ty Tứ Vương thưa :
- Con có, nhưng, đã được tôn giả Cưu Ma La Ca Diếp (Kumara Kassapa) làm cho tiêu tan.
Tôn giả trở lại Diêm Phù thì nói cho ai nấy hiểu rằng, khi bố thí làm phước thì phải cho một cách thành tâm, cho tự tay bằng cách mình đưa, cho bằng cách tự mình đến, cho với đức tin sâu xa, cho với sự xác nhận rằng có nghiệp và nghiệp báo. Đừng cho để rồi chịu cái nghiệp báo như Ty Tứ Vương. Ty Tứ Vương là chủ mà chỉ ở được trong cung điện trống rỗng của rừng rú (Trung A Hàm ĐT. 1, 532). Đế Thích, có bảy việc làm mà ta gọi là sự bố thí rộng rãi cho mọi người, mà thực hành thì sanh ngay lên Phạm Thiên :
- Xây dựng Phật pháp,
- Tăng phòng,
- Lập vườn cây ăn quả và có ao hồ cây cối mát mẽ,
- Cung cấp thầy thuốc và được liệu để cứu chữa bệnh nhân,
- Làm thuyền bè chắc chắn cho dân chúng vượt qua sông bể,
- Thiết lập cầu cống, đào giếng bên đường cung cấp nước cho khách qua đường,
- Làm nhà vệ sinh công cọng cho đại tiểu tiện chung.
(Phước Điền kinh, ĐT, 16, 777).
Cúng dường, hiến cúng, bố thí, cho, tất cả đều nghĩa là Cho, chỉ đổi từ ngữ theo trường hợp mà thôi. Cho loài vật, cho mọi người, mà lòng cho, vật cho và cách cho còn phải đinh ninh chỉ dẫn như trên đây, huống chi cho Thập Phương Tăng, nhất là Thánh Tăng, hơn nữa, Thánh Tăng trong ngày Tự tứ.
“Chính trong ngày nầy, hết thảy Thánh Tăng, hoặc đã nhập định ở trong núi non, hoặc đã thực hiện bốn thú đạo quả, hoặc đã kinh hành dưới gốc đại thọ, hoặc là Thanh văn hay là Duyên giác đủ sáu thần thông giáo hóa tự tại, hoặc chính những vị Bồ tát Đại sĩ đã lên thập địa mà lại phương tiện hiện hình Tỳ kheo, tất cả tập hợp ở trong đại chúng, đồng đẳng nhất tâm thọ cơm tự tứ. Vì có đầy đủ giới pháp thanh tịnh, thế nên đạo đức của Thánh chúng ấy thật vô bờ bến.”.
Thiền định trong núi hay kinh hành dưới cây (cũng trong núi) là tu hạnh đầu đà của tôn giả Ca Diếp.
Bốn thứ đạo quả hay Thánh giả :
1.- Dự lưu (Tu đà hoàn : Srotapanna),
2.- Nhất lai (Tư đà hàm : Sakrdagami),
3.- Bất hoàn (A na hàm : Anagami),
4.- Bất sanh (A la hán : Atahat).
Đó là bốn quả vị của Thanh văn.
*.- Thứ nhất là đoạn hết kiến hoặc của tam giới, tu hoặc tam giới còn nguyên nên còn phải bảy lần qua lại giữa nhân gian và sáu tầng trời dục giới mới đoạn hết, chứng A la hán, chứ không còn đọa lạc vào các ác đạo nữa.
*.- Thứ hai đã đoạn sáu phẩm trước trong chín phẩm tu hoặc của dục giới, còn lại ba phẩm nữa nên phải một lần qua lại dục giới nữa mới đoạn hết tu hoặc tam giới, thành A la hán.
*.- Thứ ba đã đoạn ba phẩm tu hoặc còn lại của dục giới nên chỉ sanh sắc giới và không giới, đoạn tu hoặc của hai cõi nầy mà thành A la hán.
*.- Thứ tư thì chỉ đoạn kiến hoặc và tu hoặc của tam giới nên ngay trong đời nầy đã thành A la hán.
Trong bốn quả vị nầy, thứ nhất là kiến đạo, thứ hai, thứ ba là tu đạo, thứ tư là cứu cánh.
Thập địa là mười hai địa vị gần cuối cùng của 52 địa vị Bồ tát, tức là : Cực hỷ, Ly cấu, Phát quang, Diệm tuệ, Nan thắng, Hiện tiền, Viễn hành, Bất động, Thiện tuệ và Pháp vân.
Mười địa nầy, thứ nhất là kiến đạo của Đại thừa, thứ hai đến thứ mười là tu đạo của Đại thừa. Thứ Nhất là hết vô số kiếp thứ nhất, cuối thứ Bảy đầu thứ Tám là hết vô số kiếp thứ hai, thứ Mười là gần hết vô số kiếp thứ ba, nên sau đó chỉ còn Một (Diệu giác) hay Hai (Đẳng giác và Diệu giác) giai đoạn rất ngắn nữa là thành Phật.
Thập địa Bồ tát hiện hình Tỳ kheo là “trong thì cất hạnh Bồ tát mà ngoài thì hiện tướng Thanh văn”.
Nguyên van “Bát hòa la phạn”, Bát Hòa La, Phật học tự điển ghi Phạn ngữ : Prvanarana – Paly : Pavarana. Dịch nghĩa là tự tứ. Khác với tiếng Bát thường gọi. Bát nầy là Bát Đa La, cũng có chỗ dịch âm là Bát Hòa La, nhưng Phạn ngữ Patra, dịch nghĩa là ứng khí. Bát hòa la phạn ấy cũng là dịch âm, mà có thể như vậy lắm, thì Bát Hòa La Phạn chỉ có nghĩa là tự tứ. Các bản chú giải xưa, có vài bản sai hẳn. Phật học tự điển cũng chỉ quyết định được chữ Bát Hòa La là Tự Tứ Thực, nếu chữ thực ấy là chữ Phạn trong kinh văn, thì quyết định Bát Hòa La Phạn là Cơm Tự Tứ. Phần tôi, vì có chữ phạn, hiểu theo ý ngài Huyền Ứng, nên dịch “đồng đẳng nhất tâm thọ cơm tự tứ”. Chứ thật ra theo văn khí mà nói thì dịch “đồng đẳng nhất tâm mà thọ tự tứ” có thể đúng hơn. Vì có thọ tư tứ đã mới có đầy đủ giới pháp thanh tịnh. Còn việc thọ thực, thọ cơm tự tứ, thì nói ở kinh văn sau. Một chứng cớ chắc chắn nhất, cho nhận định trên, là bản dịch khác của kinh nầy (ĐT, 16, 780) chỉ dịch : “giai cọng đồng tâm, thọ bát hòa la” (tất cả đồng tâm mà thọ tự tứ), chứ không có chữ Phạn. Tôi tiếc cứ theo sự quen đọc, nếu không, đã dám dịch như vậy và bỏ chữ Phạn đi.
Đoạn kinh trên đây chỉ kể Thánh Tăng, những vị xuất gia đã có thiền định, đã được đạo quả, “Những vị có đủ giới, định và huệ, lấy tuệ giác vô thượng làm sanh mạng mà sống, và vị thầy giới luật ở luôn với các ngài” (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 210) “Những vị sống đồng nhất, tự độ và độ người bằng tam thừa” (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 554), hay hơn nữa, đã là Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát. Kinh nầy không nói Phàm Tăng. Và điều đó chắc chắn dịch sót. Không thể không có hay có mà ngài A Nan kết tập đã lược bỏ. Bởi vì luật của Tăng chúng là như vậy. Bởi vì “nhà Cồ Đàm rất rộng”, dung được những kẻ hý lộng ngài, những kẻ vị lai cũng có thể được pháp thanh tịnh (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 362).
Phàm Tăng có hai hạng :
*.- Hạng giữ giới luật, và
*.- Hạng chỉ có hình thức Tăng già.
Hạng giữ giới luật biết thanh sắc và đời sống hoa mỹ là hiện thân ma vương. Ma vương rình rập đằng sau, tìm cơ hội mà phá hoại. Ma vương muốn đoạt các giác quan thanh sắc và đời sống hoa mỹ. Biết vậy nên Tỳ kheo không mê hoặc thanh sắc và đời sống ấy. Thì ma vương lo rầu và thoái chí. Tỳ kheo biết thọ của tín thí rất khó tiêu hóa, dễ rơi ác đạo, dễ mất tuệ giác, nên Tỳ kheo chuyên nhất, hy vọng được cái chưa được (Tạp A Hàm, ĐT, 2, 560 và 561).
Hạng chỉ có hình thức Tăng Già thì ngài Trí Húc nói rất phải : Thập Luân kinh để lại lời huấn thị say đây, đừng khinh khi hủy nhục những người xuất gia, vì lẻ đầu cạo y mặc là biểu tướng của Thánh Tăng, dẫu phá giới cho đến không giới, sau khi chết rồi quyết định đọa lạc, cũng vẫn là ruộng phước của cả nhân thiên (TT, 35, 157b).
Dẫu là Thập Phương Tăng thọ cúng trong ngày tự tứ theo kinh Vu Lan, để cha mẹ hiện tại và quá khứ của người cúng được siêu thoát đi nữa, Thập phương Tăng ấy, theo Luật, cũng không phải chỉ Thánh Tăng. Tăng chúng quan trọng ở Giới Luật và biểu tướng xuất thế. Tăng chúng mà có hay tập năm đức sau đây thì dẫu thế nào đi nữa cũng vẫn là Tăng Số.
Phật dạy Đế Thích, Tăng có Năm đức là :
1.- Phát tâm xuất gia vì cảm mến đạo pháp,
2.- Hủy bỏ hình đẹp vì thích ứng pháp lý,
3.- Cắt bỏ ân ái vì không còn thân thích,
4.- Khinh thường tánh mạng vì tôn sùng Phật pháp,
5.- Chí cầu Đại thừa vì hóa độ tất cả.
Vì năm đức nầy mà gọi là ruộng phước, làm cho lúa phước đức ngon, tốt, không chết khô, chết sớm, và cúng dường thì phước khó có gì so sánh được. (Phước Điền kinh, ĐT, 16, 777).
“Ai được hiến cúng liệt vi Thánh Tăng tự tứ như vậy, thì cả cha mẹ cùng với bà con, hết cả thống khổ ở trong tam đồ, tức thì giải thoát, cơm áo tự nhiên : Cha mẹ hiện tại thì hưởng hạnh phúc, sống lâu trăm tuổi, cha mẹ bảy đời thì sanh chư Thiên, tự tại hóa sanh vào trong thiên giới hoa lệ sáng chói.”.
Trong đoạn văn nầy, nguyên kinh văn có một chỗ nói “Hiện tại phụ mẫu lục thân quyến thuộc”, đáng lẻ phải dịch cha mẹ hiện tại, lục thân quyến thuộc, nhưng vì chữ hiện tại ấy trùng lặp ở dưới, còn lục thân thì hoàn toàn của Tàu, ngài Pháp Hộ mượn mà dịch, diễn tả tất cả bà con, nên tôi đã bỏ đi, chỉ dịch “thì cả cha mẹ cùng với bà con”. Như vậy cha mẹ bà con nầy chung cả hiện tại và quá khứ mà ngay đoạn dưới tách bạch nói rõ. Cũng xin nói thêm, lục thân quyến thuộc ba thế hệ là mình và trên, dưới mình, nhưng ý kiến cũng không duy nhất đâu.
Tam đồ :
*.- Hỏa đồ tức Địa ngục : Chỗ lửa dữ nhất,
*.- Huyết đồ tức súc sanh : Loài ăn nhau nhất,
*.- Đao đồ tức Ngạ quỷ : Loài dùng khí giới hại nhau nhất.
Đó là thuyết của cuốn kinh gọi là Tứ Giải Thoát. Đồ ở đây nghĩa là đường, tức là nơi, chỗ, loài. Thật ra tam đồ là chỉ thẳng địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh, không cần phải qua ba danh từ trên. Và dịch giả đã mượn câu “tam đồ nguy hiểm” của Xuân thu mà dịch. Đúng ra nên dịch là ba ác thú hay ba ác đạo, dịch nghĩa của Phạn ngữ Aparagati.
Đoạn văn trên không có gì đáng phụ chú hơn, ngoài câu đầu “Ai được hiến cúng litệ vị Thánh Tăng tự tứ như vậy” làm cho giả thuyết “thọ bát hòa la phạn” chỉ có nghĩa thọ tự tứ được cái thế của văn khí hơn lên.
“Lúc ấy đức Phật huấn thị hết thảy thập phương Tăng Chúng, trước hết hảy vì thí chủ chú nguyện, nguyện cho tất cả cha mẹ bảy đời. Hành thiền định ý, nhiên hậu thọ thực. Trước khi thọ thực, hãy đặt vật thực ở trước Phật Đà, hay trước tượng Phật thờ trong chùa tháp, Tăng Chúng chú nguyện rồi mới tự thọ.”.
Đoạn trước nói cách sắm Vu Lan Bồn là dạy cách cúng dường. Đoạn nầy dạy cách thọ cúng. Tăng Chúng thọ thực, đúng ra, dầu trường hợp nào cũng phải làm theo nghi thức. Chỉ khác là nghi thức đó được tụng tiếng hay niệm thầm mà thôi. Các động tác theo đọan văn trên đây, đại khái có ba phần chính là chú nguyện, cúng Phật và thọ thực. Nhưng đọc lại văn thế, ta lại thấy ba động tác nầy thứ tự cần đổi. Là cúng Phật, chú nguyện, rồi thọ thực.
Cúng Phật là như ngày nay tụng nghi thức cúng dường trên điện Phật hay ngay nơi trai bàn, trước khi thọ trai. Nếu ở nhà tại gia có bàn Phật thì cũng dâng cúng trước. Cúng bằng nghi thức, cố nhiên, chỉ khác ở chỗ nếu trai tăng đàn hoàng thì tụng tiếng, còn thông thường thì niệm thầm.
Cúng Phật rồi chú nguyện. Chú nguyện cho thí chủ, cho cha mẹ bà con trong hiện tại và quá khứ. Hành thiền định ý còn là căn bản phải có trong tất cả động tác và tâm tưởng suốt thời gian thọ thực.
Chú nguyện rồi thọ thực. Nhưng bưng bát cơm lên thì phải quán tưởng năm điều :
1.- Xét công lao nhiều ít và tìm hiểu xuất xứ của thực phẩm.
2.- Xét đức hạnh của mình thiếu hay đủ để hưởng thọ thực phẩm.
3.- Đề phòng tâm lý tránh những điều xấu mà phần chính vẫn là tham sân si.
4.- Mục đích chính là lấy thực phẩm làm được phẩm tốt để trị liệu thân thể gầy yếu.
5.- Vì muốn thành đạo nghiệp mà hưởng thọ thực phẩm ấy.
Và phải nguyện Ba Đại thừa giới :
1.- Nguyện đoạn điều ác.
2.- Nguyện tu điều thiện.
3.- Nguyện độ chúng sanh.
Rồi mới thọ thực. Thọ thực xong thì kết trai. Trong sự kết trai vẫn có sự chú nguyện, không những cho thí chủ, cho cha mẹ và bà con trong hiện tại và quá khứ của họ, mà còn cho hết thảy chúng sanh.
Như đã nói, hành thiền định ý là căn bản suốt thời gian thọ thực, nghĩa là khi ăn thì tập trung tư tưởng của mình vào các động tác, vào nguyện vọng của thí chủ, nhất là vào sự hổ thẹn. Miệng không nói chuyện, thân không mất oai nghi, tâm không ham ngon ghét dở.
“Bấy giờ tôn giả Đại Mục Kiền Liên, liệt vị Đại sĩ, đều rất hoan hỷ. Tiếng khóc bi thảm của ngài tôn giả Đại Mục Kiền Liên tức thì tan biến. Thân mẫu của ngài, ngay trong ngaỳ ấy, thoát được một kiếp ngạ quỷ thống khổ.”.
Đại sĩ tức là Bồ tát Ma ha tát, hay đại Bồ tát. Chính vì sự hiện diện của liệt vị Đại sĩ trong khi Phật thuyết kinh nầy, thêm nữa, kinh nầy nói trong Thánh Tăng có Thập địa Bồ tát hiện thân Tỳ kheo, nên các nhà chú giải xưa đã phán định kinh nầy thuộc Đại thừa. Cũng có ngài cho là của Tiểu thừa, nhưng không mấy ai đồng ý.
Thân mẫu tôn giả Mục Liên được thoát ngạ quỷ ngay là phải. Được thoát ngay là vì lòng hiếu thảo của con, vì oai thần của Phật, vì pháp Vu Lan Bồn ngài dạy, vì ảnh hưởng của pháp ấy đến tận ngày nay cũng còn mãi.
“Liền đó tôn giả Đại Mục Kiền Liên lại bạch hỏi Phật, thân mẫu của con đã được như vậy là nhờ năng lực công đức Tam bảo, trong đó gồm có thần lực Tăng chúng. Trong thời vị lai, hết thảy Phật tử có nên phụng hành pháp Vu Lan Bồn, cứu độ cha mẹ trong đời hiện tại cho đến bảy đời, bằng cách ấy không ?
Phật dạy tôn giả Đại Mục Kiền Liên, câu hỏi của ông rất phải rất hay. Chính ta muốn nói thì ông lại hỏi.”.
“Đối với Tam bảo, nghĩ rằng Tam bảo còn, mình còn, Tam bảo mất thì mình mất (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 821). Đối với Tam bảo, tình lý của Phật tử phải đến như vậy mới phải.
Phật tử, danh từ nầy bao gồm cả bốn chúng tại gia, xuất gia và Đại thừa cùng Tiểu thừa đều định nghĩa là sanh ra từ miệng Phật, từ Pháp hóa sanh, được gia tài Phật pháp.. Chỉ kinh Hoa Nghiêm và kinh Phạm Võng dùng chữ Phật tử đặc biệt trang trọng, và kinh Tăng Nhất A Hàm (ĐT, 2, 783) có câu nói sau đây : “Nếu Ty kheo tự phấn khởi, phấn khởi nỗi thích thú về Chánh pháp, thì những người như vậy chính đích thân ta sanh ra.”.
Kinh nầy nội dung có hai đoạn lớn. Đoạn trước là nguyên nhân và cách thức của pháp Vu Lan Bồn. Đoạn nầy sẽ mang một huấn thị của Phật mà ngài Tôn Mật đã nói là có tính chất Luật (ĐT, 39, 506 – TT, 35,109a).
Đoạn văn trên đây là hỏi đáp, mở đầu lời huấn thị đó.
“Đại Mục Kiền Liên, các vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni, quốc vương thái tử, đại thần tể tướng, tam công bách quan, cùng toàn dân chúng, ai muốn thực hành cái đức từ hiếu, thì trước hãy vì cha mẹ hiện tại, kế đó hãy vì cha mẹ bảy đời trong thời quá khứ, đến rằm tháng bảy, ngày Phật hoan hỷ, ngày Tăng tự tứ, đặt đồ ăn ngon vào Vu Lan Bồn, hiến cúng thập phương tự tứ Tăng Chúng, cầu nguyện cha mẹ trong thời hiện tại sống lâu trăm tuổi, không bệnh không khổ, cha mẹ trong thời quá khứ thoát khổ ngạ quỷ, sanh trong nhân loại hay trên thiên giới, phước lạc vô cùng. Phật tử thực hành cái đức từ hiều, thì mỗi ý thức, luôn luôn tưởng nhớ cha mẹ hiện tại, cho đến cha mẹ bảy đời quá khứ. Hằng năm cứ đến ngày rằm tháng bảy, đem lòng từ hiếu tưởng nhớ song thân, sắm Vu Lan Bồn hiến cúng Phật Đà, hiến cúng Tăng Chúng, để báo ân đức từ ái của cha của mẹ. Là con của Phật, thì ai cũng phải tuân giữ cách ấy.”.
Trước hết, có vài từ ngữ nên giải thích. Cái đức từ hiều nghĩa là : “Từ là Hiếu”. Phật giáo quan niệm hết thảy chúng sanh đều đã là hay sẽ là cha mẹ của ta, nên thực hành đức Từ đối với chúng sanh tức là thực hành hạnh Hiếu. Và “Hiếu là Giới”. Đó là ý niệm căn bản của Bồ tát giới. Ngay đối với cha mẹ hiện tại cũng vậy, rõ ràng con mà có Từ thì tất có Hiếu, hơn nữa, Hiếu ấy mới chắc chắn là Hiếu.
Ngày Phật hoan hỷ là ngày Tăng tự tứ. Phật hoan hỷ là vì Tăng tự tứ, sau ba tháng kết hạ an cư, không những củng cố giới pháp cho bản thân mà còn củng cố Tăng Chúng. Giới luật và Tăng chúng còn là Phật pháp còn, còn một cách có hình thức lẫn nội dung, nên Phật hoan hỷ. Nói riêng trường hợp Vu Lan Bồn, thì nhờ Tăng tự tứ sau khi an cư mà có đủ phước đức cho cha mẹ của thí chủ được nhờ, nên Phật hoan hỷ. Mà ngày Phật hoan hỷ và Tăng tự tứ là ngày rằng tháng bảy, ngày Vu Lan : Như vậy ngày ấy quan trọng biết bao nhiêu.
Trong kinh văn chỉ nói thoát khổ ngạ quỷ là vì nguyên nhân Phật dạy pháp Vu Lan Bồn do mẹ ngài Mục Kiền Liên làm ngạ quỷ, vì sự cúng dường Vu Lan Bồn đối lại với cái khổ đói khát. Chứ thật ra không phải pháp Vu Lan Bồn và đức của Tăng chúng tự tứ chỉ được một hiệu quả ấy.
Như đã nói, đoạn văn nầy mang một huấn thị của Phật có tính chất Luật. Huấn thị ấy là Phật tử thì không kể tại gia hay xuất gia, phải biết ơn cha mẹ, phải có hiếu. Bất hiếu là vô ơn đối với chính cha mẹ. Muốn báo hiếu thì phải phụng hành pháp Vu Lan Bồn, tức cúng dường Thập phương Tăng tự tứ, cúng dường ngay trong ngày tự tứ.
Trong kinh Tang Nhất A Hàm (ĐT, 2, 600), Phật dạy ai biết trả ơn thì người ấy đáng kính. Người ấy ơn nhỏ còn không quên huống chi ơn lớn. Người ấy dầu ở cách ta ngàn dặm mà vẫn không xa ta. Vì lẽ, các thầy Tỳ kheo, ta luôn luôn ca tụng người biết trả ơn. Kẻ nào không biết trả ơn thì ơn lớn cũng quên, huống chi ơn nhỏ. Kẻ ấy không gần ta, ta không gần kẻ ấy. Kẻ ấy dù mặc pháp y và ở ngay bên trái hay bên phải của ta đi nữa, cũng vẫn xa ta.
Có một điều phải nêu rõ lên ở đây. Tại gia có thể sắm Vu Lan Bồn cúng dường Tăng Chúng thì phải rồi, còn xuất gia chỉ thọ cúng, chứ sao lại phải phụng pháp Vu Lan Bồn, nghĩa là cũng phải sắm Vu Lan Bồn mà cúng dường Tăng Chúng ? Như trước tôi đã trích dẫn Tạp A Hàm (ĐT, 2, 22) cho ta thấy Phật đã dạy : “như pháp khất thực mà hiến cúng cho cha mẹ thì phưuớc rất lớn”. Ấy là Phật cho phép khất thực dùng cách để nuôi cha mẹ.
Trước, tôi cũng có nói một người xuất gia không được cho rằng mình lo hướng dẫn cho mẹ làm lành hay mình xuất gia thì như vậy chính là báo hiếu rồi. Dĩ nhiên sự việc có thể là như vậy là hoàn toàn đúng. Vì lẽ Phật đã dạy mà tôi đã trích dẫn ở trước, rằng :
“Các thầy Tỳ kheo, có hai người mà các thầy hướng dẫn làm điều thiện đi nữa cũng vẫn chưa trả ơn được, đó là cha và mẹ . . . Các thầy phải phụng dưỡng cha mẹ, luôn luôn hiếu thuận cho đúng lúc, không lỡ mất cơ hội.” (Tăng Nhất A Hàm, ĐT, 2, 601).
Nên thảo luận cho rõ. Dẫu cha mẹ không nghèo khổ, người xuất gia lo hướng dẫn cha mẹ làm lành, lo tu cho cha mẹ nhờ, nhưng phải vẫn đem sự cúng dường dùng phép của tín đồ mà mình có được, phụng hành pháp Vu Lan Bồn để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tại cũng như quá khứ, nên huấn thị của Phật, không thể chỉ hướng dẫn cha mẹ làm lành hay lo tu rồi thôi.
Trường hợp cha mẹ nghèo khổ thì người xuất gia phải hiểu rằng :
“Cha mẹ là hai vị Phật sống trong nhà” (TT, 35, 154a) mà có hai cách :
*.- Thứ nhất, nên tu tại gia mà tâm niệm xuất gia, để lo mưu sinh phụng dưỡng cha mẹ, đến mãn phần đã.
*.- Thứ hai, nếu xuất gia thì được cúng dường đúng phép, có thể đem phụng dưỡng cha mẹ.
Trường hợp thứ hai tôi đề nghị với sự dè dăạt hết sức, nhưng không phải hoàn toàn vô căn cứ. Ngài Trú Húc đã dẫn Ngũ Phần Luật như sau :
“Cả trăm năm vai phải vác cha, vai trái vác mẹ, cung phụng sức và thực phẩm quý và lạ nhất, cũng khộng trả được một lát cái ơn cha mẹ. Từ nay về sau, Ta (đức Phật) cho phép các vị Tỳ kheo cùng tận tâm tận lực và cùng tận đời sống của mình mà cung phụng cha mẹ. Ai không cung phụng cha mẹ thì bị trọng tội.
Lại dẫn kinh Tỳ Ni Mẫu nói :
“Cha mẹ mà nghèo thì Tỳ kheo hãy thọ tam quy ngũ giới cho rồi hiến cúng.”. (TT, 35, 153ab).
Khi xưa, ngài Đại hỷ đi thi không e thẹn gì mà gánh cái gánh, một đầu để kinh sách tượng tranh, một đầu để mẹ già và cái chổi, gặp tháp Phật là quyét dọn (TT, 35, 107a). Tôi dẫn mẫu chuyện ngắn nầy để cho thấy, miễn là ta có lòng từ hiếu chân thành, biết nhờ ơn cha mẹ và biết lo báo hiếu. Thì sự chân thành ấy sẽ cho ta những sáng kiến thích hợp, chưa từng còn cảm động nữa là khác.
Nhưng trên đây chúng ta bàn quanh trường hợp của cha mẹ nghèo khổ của người xuất gia. Đến như trường hợp sắm Vu Lan Bồn cúng Tăng Chúng tự tứ để cầu nguyện cho cha mẹ hiện tại cũng như quá khứ, thì hiển nhiên lời huấn thị của Phật chỉ dẫn cho thấy tại gia xuất gia đều phải tuân hành. Thí dụ kinh kể, 500 quỷ đói múa hát mà đi, 500 người tốt khóc lóc mà đi. Có người hỏi Phật, Phật dạy :
“Con cháu của quý đói ấy làm phước cho họ, họ sẽ siêu thoát nên ca hát, còn con cháu của những người tốt chỉ biết sát hại, họ sắp bị khổ nên khóc lóc. (TT. 35, 106b).
Sự việc nầy không phải chỉ để cảnh giác người tại gia mà thôi.
Đứng về phương diện chung của Phật giáo mà nói, thì cái gì phù hợp với tình người, nhất là đã thành tục lệ, cái đó rất quý giá. Một trong những cái đó lại là ngày Vu Lan. Phật tử phải nhất tâm phụng hành huấn thị của Phật để làm cho ngaỳ ấy sâu và rộng hơn nữa.
“Bấy giờ tôn giả Đại Mục Kiền Liên, cùng với bốn chúng đệ tử của Phật, hoan hỷ phụng hành.”.
Bốn chúng :
1.- Tỳ kheo, trong đó có Sa di tùy thuộc,
2.- Tỳ kheo ni, trong đó có Thức xoa Ma na và Sa di ni tùy thuộc,
3.- Ưu bà tắc,
4.- Ưu bà di.
Đó là thông thường. Bốn chúng còn là người (bao gồm bốn chúng trên, trời, rồng và quỷ.).
Nghĩa đặc biệt thì bốn chúng là :
1.- Chúng phát khởi,
2.- Chúng đương cơ,
3.- Chúng ảnh hưởng, và,
4.- Chúng kết duyên.
Nghĩa nầy của kinh Pháp Hoa văn cú và ngài Trí Húc dùng để giải thích bổn kinh nầy. (TT, 35, 159a).
Vu Lan Bồn kinh đề cao ngày tự tứ và sự cúng dường Tăng Chúng tự tứ (tức Tăng chúng y theo Giới Luật), lại huấn thị phải báo hiếu bằng sự cúng dường ấy. Như vậy gián tiếp kinh nầy đề cao ý niệm “Hiếu là Giới” của Bồ tát giới. Nên để chấm dứt sự dịch giảng kinh Vu Lan Bồn, tôi xin trích lời ngài Trí Húc đã dẫn kinh Mạ Ý, cho thấy Phật dạy :
“Giữ Giới chính là để hiếu thuận báo ơn cha mẹ.”. (TT, 35, 152b)
Tôi lại dẫn thêm Bồ tát giới nói rằng, quả báo của tội Phá giới nặng nhất là
“Đến nỗi trong Hai hay Ba kiếp không còn nghe được danh từ Cha Mẹ hay Tam Bảo” là những danh từ gợi thiện niệm nhất.
Con người Bất Hiếu (Phá Giới) để rồi những danh từ cuối cùng để gợi thiện niệm cũng không còn được nghe đến, thì quả thật đáng phải suy nghĩ nhiều lắm.
* * * * *
4.- Phần Phổ thơ Song Thất Lục Bát
Phật nói : Kinh Vu Lan Bồn
Ta từng nghe lời tạc như vầy :
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,
Xá Vệ thành Kỳ thọ viên trung,
Mục Liên mới được lục thông,
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả,
Nghĩa sinh thành đạo cả mong đền,
Làm con hiếu hành vi tiên,
Bèn dùng huệ nhã dưới, trên kiếm tìm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ,
Không uống, ăn tiều tụy hình hài,
Mục Liên thấy vậy bi ai,
Biết mẹ đói khát, ai hoài tình thâm.
Lo phẩm vật đem dâng Từ mẫu,
Để đỡ lòng cực khổ bấy lâu,
Thấy cơm mẹ rất lo âu,
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn sẻn tiền căn chưa dứt,
Sợ chúng ma cướp giựt của bà,
Cơm chưa đưa đến miệng đà,
Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu ?
Thấy như vậy âu sầu thê thảm,
Mục Kiền Liên bi thảm xót thương,
Mau mau về đến giảng đường,
Bạch cùng Sư phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn cội,
Rằng : Mẹ ông gốc tội rất sâu,
Dầu ông thần lực nhiệm mầu,
Một mình không thể ai cầu được đâu ?
Lòng hiếu thảo ông dầu to lớn,
Tiếng vang đồn thấu đến cửu thiên,
Cùng là các bậc thần kỳ,
Tà ma ngoại đạo, bốn vì thiên vương.
Cọng ba cõi sáu phương tu tập,
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi,
Muốn cho cứu được mạng người,
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu tế, Ta toan giải nói,
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn,
Bèn kêu Mục Thị đến gần,
Truyền cho diệu pháp, ân cần thiết thi.
Rằm tháng bảy : Là ngày tự tứ,
Mười phương Tăng đều dự lễ nầy,
Phải toan sắm sửa chớ chầy,
Đồ ăn trăm món, trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm, nệm lót,
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu,
Món ăn tinh sạch báu mầu,
Đựng trong bình bát, vọng cầu kính dâng.
Chư Đại Đức mười phương thọ thực,
Trong bảy đời sẽ được siêu thăng,
Lại thêm cha mẹ hiện tiền,
Được nhờ phước lực, tiêu khiên ách nàn.
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ,
Dầu ở đâu cũng tụ hội về,
Như người thiền định sơn khê,
Tránh điều phiền não, lo về thiền na.
Hoặc người được bốn tòa đạo quả,
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh,
Hoặc người thọ hạ kinh hành,
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng.
Hoặc người được lục thông tấn phát,
Và những người Duyên Giác, Thanh Văn,
Hoặc chư Bồ tát mười phương,
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh.
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh,
Đạo đức dày, chánh định chơn tâm,
Tất cả các bậc : Thánh, phàm,
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa.
Người nào có sắm ra vật thực,
Để cúng dường tự tứ Tăng thời,
Hiện tiền phụ mẫu của người,
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi,
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên,
Như còn cha mẹ hiện tiền,
Nhờ đó cũng được bách niên thọ trường.
Như cha mẹ bảy đời quá vãng,
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung,
Người thời tuấn tú hình dung,
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng,
Phải tuân theo thể thức sau nầy :
Trước khi thọ thực đàn chay,
Phải cầu chú nguyện cho người thiền gia.
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ,
Định tâm thần quán đủ đừng quên,
Cho xong định ý hành thiền,
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dâng.
Khi thọ dụng, nên an vật thực,
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung,
Chư Tăng chú nguyện viên dung,
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa.
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt,
Mục Liên cùng Bồ tát, chư Tăng,
Cùng nhau tỏ dạ vui mừng,
Mục Liên cũng hết khóc thương sầu buồn.
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy,
Kiếp khổ về ngạ quỷ đều tan,
Mục Liên bạch với Phật rằng :
Mẹ con nhờ sức thánhTăng khỏi nàn.
Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo,
Bằng chẳng thì nạn khổ khó ra,
Như sau đệ tử xuất gia,
Vu Lan Bồn pháp, dùng mà độ sanh.
Độ cha mẹ còn đương tại thế,
Hoặc bảy đời có thể được không ?
Phật rằng : Lời nói rất thông,
Ta vừa mới nói, ông cùng hỏi theo.
Thiện nam tử, Tỳ kheo nam nữ,
Cùng quốc vương, thái tử, đại thần,
Tam công, tể tướng, bá quan,
Cùng hàng lê thứ, vạn dân cõi trần.
Như chí muốn đền ơn cha mẹ,
Hiện tại cùng thất thế tình thâm,
Đến rằm tháng bảy, mỗi năm,
Sau khi kết hạ, chư Tăng tựu về.
Chính ngày ấy, Phật đà hoan hỷ,
Phải sắm sanh bách vị cơm canh,
Đựng trong bình bát tinh anh,
Chờ ngày tự tứ, chúng Tăng cúng dường.
Để cầu nguyện song đường trường thọ,
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi,
Cùng cầu thất thế đồng thì,
Lìa nơi ngạ quỷ, sanh về nhơn, thiên.
Được hưởng phước nhơn duyên vui đẹp,
Lại xa lìa nạn khổ cực thân,
Môn sanh Phật tử ân cần,
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên.
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo,
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu thăng,
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm,
Vì lòng hiếu thảo ơn thâm phải đền.
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt,
Nguyện cúng dường chư Phật, chư Tăng,
Ấy là báo đáp thù ân,
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu.
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ,
Mới đúng là Thích tử thiền môn,
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn,
Môn sanh, tứ chúng thảy đồng hỷ hoan.
Mục Liên với bốn ban Phật tử,
Nguyện một lòng tín sự phụng hành.
Nam mô Đại hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát. (3 lần)
* * * * *
Phật nói
Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu Trọng Ân
Ta từng nghe lời tạc như vầy :
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ,
Xá Vệ thành Kỳ thọ viên trung,
Chư Tăng câu hội rất đông,
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn.
Lại cũng có các hàng Bồ tát,
Hội tại đây đủ mặt thường thường,
Bây giờ Phật lại lên đường,
Cùng hàng Đại chúng Nam phương tiến hành.
Đáo bán lộ rành rành mắt thấy,
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời,
Thế Tôn liền vội đến nơi,
Lạy liền hai lạy, rồi rơi giọt nồng.
Đức A Nan tủi lòng ái ngại,
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương ?
Vội vàng xin Phật tỏ tường,
Thầy là Từ phụ ba phương, bốn loài.
Ai ai cũng kính thầy dường ấy,
Cớ sao thầy lại lạy xương khô ?
Phật rằng : Trong các môn đồ,
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công.
Bởi chưa biết đục trong cho rõ,
Nên vì người ta tỏ đuôi đầu :
Đống xương dồn dập bấy lâu,
Cho nên trong đó biết bao cốt hài.
Chắc cũng có ông bà, cha mẹ,
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh,
Luân hồi sanh tử, tử sanh,
Lục thân đời trước, thi hài còn đây.
Ta lễ bái kính người tiền bối,
Và ngậm ngùi nhớ tới kiếp xưa,
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa,
Không phân trai gái, bỏ bừa khó coi.
Ngươi chịu khó xét soi cho kỷ,
Phân làm hai bên nữ, bên nam,
Để cho phân biệt cốt phàm,
Không còn lẫn lộn, nữ nam chất chồng.
Đức A Nan trong lòng tha thiết,
Biết làm sao phân biệt khỏi sai,
Ngài bèn xin Phật chỉ bày,
Vì khó chọn lựa gái trai lúc nầy.
Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt,
Cách đứng đi, ăn mặc phân minh,
Chớ chi rã xác, tiêu hình,
Xương ai như nấy khó nhìn, khó phân.
Phật mới bảo : A Nan nên biết,
Xương nữ, nam phân biệt rõ ràng,
Đàn ông xương trắng nặng hoằng,
Đàn bà xương nhẹ, đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra,
Sanh con ba đấu huyết ra,
Tam hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Vì cớ ấy hao mòn thân thể,
Xương đàn bà đen, nhẹ hơn trai.
A Nan nghe vậy bi ai !
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh.
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo,
Phương pháp nào báo đáp song thân ?
Thế Tôn mới bảo lời rằng :
Vì người ta sẽ phân trần khá nghe.
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc,
Sanh con ra thập nguyệt cưu mang,
Tháng đầu thai đậu tợ sương,
Mai chiều gìn giữ, sợ tan bất thường.
Tháng thứ nhì như dường sữa đặc,
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng,
Bốn tháng đã tượng ra hình,
Năm tháng ngũ thể hiện thân rõ ràng.
Tháng thứ sáu lục căn đầy đủ,
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương,
Lại thêm đủ bộ chân lông,
Cộng thêm đến số bốn mươi tám ngàn.
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ,
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình,
Mười tháng thì đến kỳ sanh,
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu,
Nó vẫy vùng, đạp cấu lung tung,
Làm cho cha mẹ hãi hùng,
Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân.
Khi sản xuất muôn phần an lạc,
Cũng ví như được bạc, được vàng,
Thế Tôn lại bảo A Nan :
Ơn cha, nghĩa mẹ muôn vàng phải tin.
Điều thứ nhất giữ gìn thai giáo,
Mười tháng trường chu đáo mọi bề,
Thứ hai sanh đẻ gớm ghê,
Chịu đau, chịu khổ mỏi mê trăm phần.
Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng,
Cực đến đâu bền vững chẳng lay,
Thứ tư ăn đắng, nuốt cay,
Để dành bùi, ngọt đủ đầy cho con.
Điều thứ năm lại còn khi ngủ,
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con,
Thứ sáu sú nước, nhai cơm,
Miễn con no ấm, chẳng nhờm, chẳng ghê.
Điều thứ bảy không chê ô uế,
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền,
Thứ tám chẳng nở chia riêng,
Nếu con đi vắng, cha phiền, mẹ lo.
Điều thứ chín miễn cho sung sướng,
Dù phải mang nghiệp chướng cũng cam,
Tính sao có lợi thì làm,
Chẳng màng tội lỗi, bị giam, bị cầm . . .
Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt,
Dành cho con các cuộc thanh nhàn,
Thương con như ngọc, như vàng,
Ơn cha, nghĩa mẹ sánh bằng Thái sơn.
Phật lại bảo A Nan nên biết :
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người,
Mười phần mê muội cả mười,
Không tường đức trọng, ơn dày song thân.
Chẳng kính mến, quên ơn trái đức,
Không xót thương dưỡng dục, cù lao.
Ấy là bất hiếu mặc giao,
Vì những người ấy, đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng,
Cực khổ dường gánh nặng trên vai,
Uống ăn chẳng đặng vì thai,
Cho nên thân thể hình hài kém suy.
Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết,
Sanh được rồi máu huyết dầm dề,
Ví như thọc huyết trâu, dê,
Nhất sanh, thập tử nhiều bề gian nan.
Con còn nhỏ phải lo săn sóc,
Ăn đắng cay, bùi ngọt phần con,
Phải tắm, phải giặt, rửa trôn,
Biết rằng dơ dáy, mẹ không ngại gì.
Nằm phía ướt, con nằm phía ráo,
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn,
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân,
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ,
Thân gầy mòn nào nệ với con,
Khi con vừa được lớn khôn,
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng.
Cho đi học mở thông trí tuệ,
Dựng vợ chồng có thế làm ăn,
Ước mong con được nên thân,
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.
Con ốm đau tức thì lo chạy,
Dù tốn hao đến mấy cũng đành,
Khi con căn bệnh được lành,
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.
Công dưỡng dục sánh bằng non biển,
Cớ sao con chẳng biết ơn nầy ?
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy,
Chẳng thương thì chớ, lại bày ngỗ ngang.
Hỗn cha mẹ, phùng mang trợn mắt,
Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi,
Bà con chẳng kể ra chi,
Không tuân sư phụ, lễ nghi chẳng tường.
Lời dạy bảo, song đường không kể,
Tiếng khuyên răn, anh chị chẳng màng,
Trái ngang chống báng mọi đường,
Ra vào, lui tới, mắng càng người trên.
Vì lỗ mẵng tánh quen làm bướng,
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn,
Lớn lên theo thói hung hăng,
Đã không nhẫn nhịn, lại càng hành hung.
Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ,
Nết tập quen, làm sự trái ngang,
Nghe lời dụ dỗ quân hoang,
Bỏ cha, bỏ mẹ, trốn sang quê người.
Trước còn học theo thời, theo thế,
Thân lập thân, tìm kế sinh nhai,
Hoặc đi buôn bán kiếm lời,
Hoặc vào quân lính với đời lập công.
Vì ràng buộc : đồng công, mối nợ,
Hoặc trở ngăn : vì vợ, vì con,
Quên cha, quên mẹ tình thâm,
Quên xứ, quên sở lâu năm không về.
Ấy là nói : những người có chí,
Chớ phần nhiều : du hí mà thôi,
Sau khi phá hết của rồi,
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.
Theo trộm cướp hoặc là bài bạc,
Phạm tội hình tù rạc phải vương,
Hoặc khi mang bệnh giữa đường,
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng.
Hay tin dữ bà con cô bác,
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu,
Thương con than khóc âu sầu,
Có khi mang bệnh, đui mù vấn vương.
Hoặc bệnh nặng vì thương quá lẽ,
Phải bỏ mình làm quỷ giữ hồn,
Hoặc nghe con chẳng lo lường,
Trà đình tửu điếm, phố phường ngao du.
Cứ mãi miết với đường bất chính,
Chẳng mấy khi thần tỉnh, mộ khan,
Làm cho cha mẹ than van,
Sanh con bất hiếu, phải mang tiếng đời.
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu,
Không ai nuôi, túng thiếu mọi điều,
Ốm đau, đói rách kêu rêu,
Con không cấp dưỡng, bỏ liều chẳng thương.
Phận con gái còn nương cha mẹ,
Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa,
Cần lao phục dịch trong nhà,
Dễ sai, dễ khiến hơn là nam nhi.
Song đến lúc tùng phu xuất giá,
Lo bên chồng chẳng sá bên mình,
Trước còn lai vãng viếng thăm,
Lần lần nguội lạnh, biệt tăm biệt nhà.
Quên dưỡng dục : song thân ơn trọng,
Không nhớ công : mang nặng, đẻ đau,
Chẳng lo báo bổ cù lao,
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay.
Nếu cha mẹ la rầy, quở mắng,
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiên,
Chớ chi chồng đánh liên miên,
Thì cam lòng chịu chẳng phiền, chẳng than.
Tội bất hiếu lưỡng ban : nam, nữ,
Nói không cùng nghiệp giữ phải mang,
Nghe Phật chỉ rõ mọi đường,
Tất cả đại chúng lòng càng thảm thay.
Gieo xuống đất lấy cây, lấy củi,
Đánh vào mình, vào mũi, vào hông,
Làm cho các lỗ chân lông,
Thảy đều rướm máu, ướt dầm cả thân.
Đến hôn mê, tâm thần bất định,
Một giấy lâu mới tỉnh than rằng :
Bọn ta quả thật tội nhơn,
Xưa nay chẳng rõ, không hơn người mù.
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc,
Ruột gan dường như nát, như tan,
Tội tình khó nỗi than van,
Làm sao trả được muôn ngàn ân sâu ?
Trước Phật tiền ai cầu, trần tố,
Xin Thế Tôn mẫn cố, bi lân,
Làm sao báo đáp thù ân,
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình !
Phật bèn dùng phạm thinh sáu món,
Phân tỏ cùng Đại Chúng lóng nghe,
Ân cha, nghĩa mẹ nặng nề,
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.
Ví có người ân sâu dốc trả,
Cõng mẹ cha tất cả hai vai,
Giáp vòng hòn núi Tu di,
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa đền.
Ví có người gặp cơn đói rét,
Nuôi song thân dâng hết thân nầy,
Xương nghìn, thịt nát, phân thây,
Trải trăm ngàn kiếp, ân đây chưa đồng.
Ví có người vì công sanh dưỡng,
Tự tay mình khoét thủng song ngươi,
Chịu thân mù tối như vầy,
Trải trăm ngàn kiếp ân nầy thấm đâu ?
Ví có người dùng dao thật bén,
Mổ bụng ra rút hết tâm can,
Huyết ra khắp đất chẳng than,
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng !
Ví có người dùng trăm mũi nhọn,
Đâm vào mình bất luận chỗ nào,
Tuy là sự khó biết bao,
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.
Ví có người vì ân dưỡng dục,
Tự treo mình cúng Phật thế đèn,
Cứ treo như vậy trọn năm,
Trải trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.
Ví có người xương nghiền ra mỡ,
Hoặc dùng dao chặt bữa thân mình,
Xương tan, thịt nát chẳng phiền,
Trải trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.
Ví có người vì công dưỡng dục,
Nuốt sắt nóng thấu ruột, thấu gan,
Làm cho thân thể tiêu tan,
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền,
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng,
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn,
Đồng thanh bạch Phật lời rằng :
Làm sao trả được ân thâm song đường ?
Phật mới bảo các hàng Phật tử,
Phải lóng nghe ta chỉ sau đây :
Chúng ngươi muốn đáp ân nầy,
Phải toan biên chép kinh đây lưu truyền.
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng,
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa,
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa,
Cùng là tu phước chẳng chừa món chi.
Rằm tháng bảy đến kỳ Tự tứ,
Thập phương Tăng đều dự lễ nầy,
Sắm sanh lễ vật đủ đầy,
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng.
Để cầu nguyện song đường trường thọ,
Hoặc sanh Về Tịnh độ an nhàn,
Ấy là báo đáp thù ân,
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.
Mình cần phải cần chuyên trì giới,
Pháp quy y, ngũ giới giữ gìn,
Những lời ta dạy đinh ninh,
Khá nên y giáo phụng hành chẳng sai.
Được như vậy mới là khỏi tội,
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa,
Trong năm đại tội kể ra,
Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay.
Sau khi chết bị đày vào ngục,
Ngũ vô gián cũng gọi A tỳ,
Ngục nầy trong núi Thiết vi,
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.
Trong ngục nầy hằng ngày lửa cháy,
Đốt tội nhơn hết thảy thành than,
Có lò nầu sắt cho tan,
Rót vào trong miệng tội nhơn hành hình.
Một vá đủ cho người thọ khổ,
Lột da đau thấu tâm can,
Lại có chó sắt, rắn gang,
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhơn,
Ở trong ngục có giường bằng sắt,
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong,
Rồi cho một ngọn lửa hồng,
Nướng, quay cho chúng da phồng, thịt thau.
Móc bằng sắt, thương, đao, gươm, giáo,
Trên không trung đổ tháo như mưa,
Gặp ai chém nấy chẳng chừa,
Làm cho thân thể nát nhừ như tương.
Những hình phạt vô phương kể hết,
Mỗi ngục đều có cách trị riêng,
Như là xe sắt phanh thây,
Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le.
Nếu cho được chết liền cũng đỡ,
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân,
Ngày đêm sống, chết muôn lần,
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.
Sự hành phạt tại A tỳ ngục,
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân,
Chúng ngươi đều phải ân cần,
Thừa hành các việc ân cần khoảng trên.
Nhất là phải kinh nầy in chép,
Truyền bá ra cho khắp đông, tây,
Như ai chép một quyển nầy,
Ví bằng được thấy một vì Thế Tôn.
Nếu in được muôn vàng quyển ấy,
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên,
Do theo nguyện lực tùy duyên,
Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền.
Cha mẹ được xa miền khốc lãnh,
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung,
Khi lời Phật giảng vừa xong,
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.
Lại phát nguyện dù thân nầy nát,
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài,
Dù cho kéo lưỡi trâu cày,
Đến trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng quyên.
Ví như bị bách thiên đao, kiếm,
Khắp thân nầy đâm chém phân thây,
Hoặc như lưới trói thân nầy,
Trải trăm ngàn kiếp lời Thầy chẳng sai.
Dẫu thân nầy bị cưa, bị chặt,
Phân chia ra muôn đoạn rã rời,
Đến trăm ngàn kiếp như vầy,
Chúng con cũng chẳng trái lời Thầy khuyên.
Đức A Nan kiền thành đảnh lễ,
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh,
Ngày sau truyền bá chúng sanh,
Dễ bề phúng tụng trì chuyên tu hành.
Phật mới bảo A Nan nên biết :
Quyển kinh nầy quả thiệt cao xa,
Đặt tên : “Báo Hiếu Mẹ Cha”,
Cũng là “Ân Trọng” thật là chơn kinh.
Các ngươi phải giữ gìn chu đáo,
Để đời sau y giáo phụng hành,
Sau khi Phật dạy rành rành,
Bốn hàng Phật tử rất mừng rất vui.
Thảy một lòng vâng theo lời Phật,
Và kính thành tin chắc vẹn toàn,
Cùng nhau tựu lại Phật tiền,
Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra.
Nam mô Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân Hội Thượng Phật, Bồ tát. (3 lần)
* * * * *
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm kinh
Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách.
Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc ; sắc tức thị không, không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá Lợi Tử, thị chư pháp Không tướng bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố Không trung vô sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới, vô vô minh diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận, vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhã ba la mật đa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn; tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
Cố tri Bát nhã ba la mật đa thị đại thần chú : thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thế khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã ba la mật đa chú.
Tức thuyết chú viết :
“Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.” (3 lần)
Vãng Sanh Quyết Định Chơn Ngôn
Nam mô a di đà bà dạ, đá tha dà đa dạ, đá địa dạ tha.
A di ri rị đô bà tì,
A di rị đá tất đam bà tì,
A di rị đá tì ca lan đế,
A di rị đá tì ca lan đá,
Dà di nị, dà dà na,
Chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)
Ba Pháp Quy Y
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (Lạy một lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (Lạy một lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (Lạy một lạy)
Nguyện sanh cực lạc cảnh phương tây,
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ,
Hoa nopỏ thấy Phật chứng Vô sanh,
Bồ tát bất thoái là bạn hữu.
Nguyện đêm công đức nầy,
Hướng về khắp tất cả,
Đệ tử và chúng sanh,
Đều trọn thành Phật đạo.
* * * * *
Những ngày Trai trong tháng
Thập trai : Mỗi tháng Mười ngày : Mồng 01, 08, 14, 15, 18, 23, 24, 29 và ngày 30 (Nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 17 cho đủ Mười ngày).
Lục trai : Mỗi tháng Sáu ngày : Mồng 8, 14, 15, 23, 29 và 30 (tháng thiếu thì tính thêm ngày 28).
Tứ trai : Mỗi tháng Bốn ngày : Mồng 1, 14, 15 và 30 (tháng thiếu thì 28 và ngày 29)
Nhị trai : Mỗi tháng Hai ngày : Mồng Một và Rằm.
Tam ngoạt (hay nguyệt) trai : Một năm Ba tháng : tháng Giêng, tháng Bảy và tháng Mười.
Những ngày Trai không nên dùng các món gia vị như : hành, hẹ, tỏi, ném, xa cừ (Một loại gia vị của xứ Ấn Độ) vân vân, người tu hành ăn các món nầy thì tụng kinh trì chú không được linh nghiệm cho mấy, lại bị khêu gợi tình dục và sanh thêm các tánh hung bạo.