Những sử liệu này rất khó chối cãi :
GIÁO HỘI LA MÃ : LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC
- Nguyễn Mạnh Quang - 20 tháng 12, 2008
Chương 61
________________________________________
*.- Ông Ngô Đình Diệm Dưới Mắt Chính Khách Hoa Kỳ
________________________________________
Khi được đưa sang Hoa Kỳ, tất cả mọi việc từ chỗ ở, miếng ăn cho đến việc di chuyển và thu xếp những buổi nói chuyện tại các đại học hay gặp gỡ với các nhân vật cao cấp trong chính quyền Hoa Kỳ đều do bàn tay của Hồng Y Francis Joseph Spellman xếp đặt cả. Cũng nên biết là vị hồng y này vừa là bạn thân của Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) và cũng là bạn của Giám-mục Ngô Đình Thục. Đây là một lợi thế của ông Giám-mục Ngô Đình Thục và ông Ngô Đình Diệm đối với những tín đồ Ca-tô (Thiên Chúa La Mã) trong chính giới Hoa Kỳ lúc bấy giờ, đăc biệt là trong thời chính quyền Eisenhower (20/1/1953-20/1/1961) trong các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp, có nhiều nhân vật có thế giá là tín đồ Thiên Chúa La Mã. Những nhân vật như John Foster Dulles (Ngoại trưởng), Allan W.. Dulles (Giám Đốc CIA), Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd và Thẩm Phán Tối Cao Pháp Viện William Douglas đều là tín đồ Ca-tô (Thiên Chúa La Mã) cả. Thêm nữa, ở ngoài chính quyền, lại còn có những cơ quan truyền thông báo chí do các tín đồ Thiên Chúa quản lý như Christian Century, Christian Science Monitor, the Catholic World và nhiều tờ báo địa phương khác hướng dẫn dư luận để hỗ trợ cho kế hoạch của Hồng Y Spellman vận động giải pháp Ngô Đìinh Diệm.
Một điều nữa cũng cần nên biết là Giáo Hội có chủ trương rèn luyện hay nhồi sọ tín đồ để biến họ thành những người thiên vị, mất hẳn đi tính cách vô tư, nhất là phải cân nhắc hay nhận định một vấn đề gì giống như một việc phân xử giữa một bên là người đồng đạo và một bên là người thuộc một tôn giáo khác thì họ nghiêng hẳn về phía người đồng đạo với họ. Đặc tính này càng rõ rệt hơn trong phạm vi chính trị, vì rằng Giáo Hội đã dạy dỗ giáo dân rằng “Đức Giáo Hoàng ở La Mã (Rome) mới là vị vua tối cao duy nhất của họ, họ chỉ phải tuân phục quyền lực của Tòa Thánh Vatican.”[1]
Vì quyền lợi chính trị, vì muốn chiếm được nhiều phiếu của những người đồng đạo, tín đồ Thiên Chúa La Mã hăm hở nhào ra làm chính trị lại càng tỏ ra nghe theo lời dạy dỗ trên đây thì càng có lợi cho họ (kiếm phiếu của những người đồng đạo). Đặc biệt là tại các nước chậm tiến như Phi Luật Tân và Việt Nam, vì bị ảnh hưởng nặng nề bởi của chính sách giáo dục ngu dân và nhồi sọ của Giao Hội, những đặc tính xấu xa như tham lam, ích kỷ, tự cao, tự đại, huênh hoang, khoác lác, háo thắng, háo sát, khát máu, lố bịch, trịch thượng, v.v... đã được Giáo Hội khơi động và nuôi dưỡng trong lòng tín đồ để chờ cơ hộ thuận tiện sẽ khai thác và lợi dụng. Chính những lúc có bầu cử là những lúc Giáo Hội khai thác những tính xấu xa này ở trong lòng tín đồ mà Giáo Hội đã có công cấy vào đầu óc họ. Vì thói quen “tuyệt đối vâng lời các đấng bề trên” và “quên mình trong vâng phục”, vì bản chất thiên vị, tham lam và ích kỷ muốn vơ vào cho chính minh và cho những người đồng đạo, cho nên tín đồ Ca-tô lại càng tỏ ra hăng say triệt để tuân hành lời dạy trên đây, không bỏ sót một dấu phẩy. Sự kiện này cũng được ông Vũ Ngọc Nhạ khẳng định bằng câu nói ghi trong bộ sách Ông Cố Vấn Tập Hai (Phủ Đầu Rồng) với nguyên văn như sau :
“Người Công Giáo thì phải vận động cho ứng cử viên người Công Giáo, chứ đâu lại đi vận động cho người ngoại đạo.”[2]
Tóm lại, ở Hoa Kỳ lúc bấy giờ, tất cả các chính khách là tín đồ Ca-tô đều triệt để ủng hộ ông Ngô Đình Diệm vì ông Diệm vừa là người đồng đạo của họ, vừa là con bài được Giáo Hoàng Pius XII. Như vậy, ông Diệm được Hoa Kỳ đưa về Việt Nam cầm quyền là do Hồng Y Spellman tích cực chạy chọt mà được với chính quyền Hoa kỳ ủng hộ, chứ không phải do tài năng, uy tín, thành tích chính trị gì của ông. Thực ra, lúc bấy giờ, trong thâm tâm các chính khách Hoa Kỳ (bất kể là tín đồ Ca-tô hay không), và các bậc thức giả đều tỏ ra khinh bỉ anh em ông Ngô Dình Diệm hơn cả người Pháp trước đó khinh bỉ bọn tín đồ Ca-tô Việt Nam làm tay sai cho họ trong thời gian 1858-1954. Đây là những quy luật về tâm lý trong xã hội loài người :
Thứ nhất, Chúng ta biết rằng, những kẻ phải đi xin xỏ, nhờ vả hay chạy chọt với những người có thế lực để xin một việc làm tại một xí nghiệp thì những kẻ đó dù cho có được thâu nhận vào làm thì cũng luôn luôn bị ông chủ hay giám đốc của xí nghiệp và những người làm trong đó khinh rẻ như là một hạng người vừa bất tài, không đủ khả năng, vừa hèn hạ, cho nên mới phải luồn lọt đi cửa sau (hậu môn) thì mới kiếm được việc làm. Hành động như vậy tức là không có "tinh thần tự túc, tự tồn, tự cường”, và cũng không có “khả năng tự lực cánh sinh, đi ngược với truyền thống của dân tộc là “Nên ra tay kiếm tay cờ, chẳng nên thì chớ, chẳng nhờ cậy ai.”
Ngô Đình Diệm phải cậy cục, nhờ vả Giáo Hội La Mã và Hồng Y Spellman chạy chọt, năn nỉ với các chính khách Hoa Kỳ làm áp lực với Pháp và Quốc Truờng Bảo Đại để được đưa về Việt Nam cầm quyền. Tình trạng này của ông Diệm không khác gì tình trạng của những người đi xin việc nói trên. Sự kiện này cho thấy rằng ông Diệm vừa bị coi là một hạng người bất tài, hèn hạ, hèn hạ đến nõi phải luồn lọt chui qua “hậu môn” của người Hoa Kỳ để len lỏi vào cửa quyền và leo lên bước thang danh vọng, vừa bi xem như là hạng người “rước voi về giày mả tổ.”. Hành động này của ông Diệm còn đê tiện và hèn hạ hơn hành động của Lê Chiêu Thống vào cuối năm 1788 chạy sang Trung Hoa lạy lục Tuần Phủ Tôn Vĩnh Thanh để nhờ tên quan này năn nỉ với triều đình nhà Thanh đem quân sang Việt Nam hầu khôi phục vương quyền cho chính bản thân. (Lê Chiêu Thống chỉ lạy lục của một triều đình nhà Thanh, còn Ngô Đình Diệm phải năn nỉ tới bốn thế lực Vatican, Hoa Kỳ, Pháp và ông Bảo Đại). Đê tiện và hèn hạ như vậy, thì làm sao ông Diệm thoát khỏi cái nhìn khinh bỉ của các chính khách Hoa Kỳ ?
Thứ hai, ông Ngô Đinh Diệm không những bất tài và hèn hạ, mà còn là một người mang căn bệnh cuồng tín về tôn giáo. Vì mang căn bệnh cuồng tín về tôn giáo, cho nên ông ta trở thành hạng người vừa ngu vùa dốt. Vì vừa ngu vùa dốt cho nên ông ta không có khả năng thông minh trong việc ứng xử và đối đáp với các chính khách Hoa Kỳ khi bị dọ hỏi về một giải pháp chính trị cho Việt Nam. Sự kiện ngu dốt này đã biểu lộ ra qua lời tuyên bố rằng “chỉ cần chấm dứt chính sách thực dân Pháp và chỉ cần Việt Nam có một chính phủ do người quốc gia lãnh đạo là có thể đánh bại được Cộng Sản”, rằng ông ta "tin tưởng vào quyền lực của Vatican.” và tin rằng ông ta “đã được an bài để cai trị đất nước”. Thử hỏi rằng, nếu có một em học sinh lớp 9 cấp trung học có mặt ở đó chứng kiến cái cảnh này thì liệu em đó có phải bịt mũi để khỏi phải ngửi thấy cái mùi thum thủm của mấy “lời tuyên bố quai đản cực kỳ ngu xuẩn” này không ?
Thứ ba, các chính khách Hoa Kỳ đều biết rằng Vatican là một đế quốc thực dân xâm lược và chuyên nghề sử dụng bọn tín đồ cuồng tín mất gốc, vong bản, phản dân tộc làm tay sai để đánh chiếm đất đai để thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô, rồi dùng bạo lực của nhà nước tiến hành kế họach Ki-tô hóa nhân đân bằng bạo lực, và sau đó sẽ phóng tay cướp đọat tài nguyên, bóc lột nhân dân, vơi vét của cải, tích lũy tài sản cho đầy túi tham bằng cách khống chế và kiểm soát tất cả mọi phạm vi sinh họat trong nhân dân.
Martin Malachi
“Ngay từ lúc đầu, người Kitô giáo khăng khăng cho rằng tôn giáo của họ là chân lý, rằng tôn giáo của họ nói về thực tế. Họ đưa ra lập luận rằng tôn giáo của họ là một chân lý toàn cầu, rằng chỉ có Kitô giáo mới là tôn giáo đích thực. Vì thế cho nên mọi hệ thống triết lý khác và mọi hệ thống kiến thức khác - bất kỳ ngành họat động nào của con người có liên hệ với chân lý – đều phải hài hòa với tôn giáo đích thực là Kitô giáo. Trái lại, đó chỉ là một hệ thống triết lý giả, một kiến thức giả. Tất nhiên là mọi tính cách đạo đức đều từ Kitô giáo mà ra.. Kitô giáo thấm nhập vào tất cả mọi lãnh vực trong đời sống thế tục từ kinh tế, chính trị, tài chánh, nghệ thuật, giáo dục cho đến các cơ cấu khác trong xã hội. Tôn giáo và chính trị, tôn giáo và tài sản, tôn giáo và chính quyền, tôn giáo và nghệ thuật, tôn giáo và sự học hỏi – giữa những liên hệ cơ cấu này, không có sự chống đối nào mà không hòa giải được. Những cơ cấu này không thể tách rời được và cũng không thể giữ nó ở trong tình trạng tách rời nhau.. Các vấn đề như quân sự chính trị, tài sản, nghệ thuật và chính quyền, tất cả đều phải bị tôn giáo thống trị tuốt luốt.” Nguyên văn : “From their beginnings, Christians insisted that their religion was true, that it did speak about reality. They drew the logical conclusion from that: that it was universally true. That there could be only one true religion. Theirs. Hence all philosophy and all knowledge - any branch of human activity that dealt with the truth – had to be, would be reconcilable with the true religion, Christianity. Otherwise, it was a false philosophy, a false knowledge. Automatically, an all embracing morality from this Christianity. It permeated al aspects of temporal life: economics, politics, finance, the arts, education, social structures. Religion and politics, religion and wealth, religion and government, religion and art, religion and learning – between these there was no irrececoncilable opposition. They were not separate or to be kept separate. Military matters, matters of politics, wealth, art, government – all all became dominated by religion.”[3]
Tất cả bọn tín đồ Ca-tô vong bản phản dân tộc đều bị dân bản địa khinh bỉ, ghê tởm, thù ghét đến cùng độ của thù ghét và gọi là những quân “phản quốc”. Ông Diệm ở vào tình trạng này, tất nhiên là không thể thoát khỏi cái nhìn khinh bỉ và ghê tởm của các chính khách Hoa Kỳ. Tâm lý của các nhà chính khác và các bậc thức giả trên thế giới đều kính trọng các nhà lãnh đạo quốc gia được nhân dân dưới quyền kính thương và khinh rẻ những người cầm quyền bị nhân dân khinh rẻ và thù ghét. Đây là quy luật về tâm lý và xa hội. Quy luật này không chừa một ai cả. Cũng vì thế mà ông Diệm không thể nào thóat khỏi cái nhìn khinh bỉ của nhân dân thế giới, ngọai trừ những tín đồ Ca-tô cuồng tín và những người siêu ngu dốt.
Thư tư, từ ngàn xưa, những người trong các chính quyền đế quốc xâm lược bao giờ cũng khinh rẻ những người dân bản địa làm tay sai cho họ. Người Mãn Châu khinh rẻ tên Hán gian Ngô Tam Quế, người Nhật khinh rẻ tên Hán gian Uông Tinh Vệ, người Đức khinh rẻ tên Pháp gian Pétain, người Pháp khinh rẻ bọn Việt gian Ngô Đình Khả, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Bá Tòng, Lê Hoan, Trần Bá Lộc, Trần Lục, Phạm Ngọc Chi, Lê Hữu Từ, Hoàng Quỳnh, khinh rẻ bọn tín đồ Ca-tô bản địa và tất cả những người Việt khác bán nước làm tay sai cho họ, thì tất nhiên là người Hoa Kỳ cũng khinh rẻ bọn tín đồ Ca-tô Việt Nam đã từng bán nước cho Vatican, cho Pháp, rồi lại làm tay sai và Hoa Kỳ. Là một trong bọn người Việt gian này, dĩ nhiên là ông Diệm làm sao thoát khỏi được cái nhìn khình bỉ của người Hoa Kỳ ?
Những quy luật trên đây đều có thể kiểm nghiệm được. Dưới đây là những bằng chứng đã được kiểm nghiệm qua những nhận xét hay lời tuyên bố của các chính khách người ngoại quốc hay các sử gia với những trường hợp như sau:
Trường hợp 1 là những lời tuyên bố của các chính khách người Hoa Kỳ và những lời nhận xét của các nhà viết sử về con người và cung cách hành xử của ông Ngô Đình Diệm. Lời nhận xét ngắn và gọn về ông Diệm của Tổng Thống Eisenhower bằng cách dùng một thành ngữ “Trong đám thằng mù, thằng chột làm vua” cho ta thấy ông ta bị nhà lãnh đạo này của Hoa Kỳ khinh bỉ đến mức nào rồi.
Trường hợp thứ 2 là chính Đại Tá Edward Lansdale, vị cố vấn đặc biệt bên cạnh ông Diệm, người đã coi ông Diệm như một đứa con mới tập tễnh bước vào đời và phải dạy dỗ từng lời ăn tiếng nói cùng cách cư xử với mọi người chung quanh, y hệt như Lữ Bát Vi lo cho Tần Hoàng Chánh khi vừa lên nối ngôi An Quốc Quân làm vua nước Tần, và đôi khi cũng phải bực mình không chịu nổi với cái mức độ ngu xuẩn của đứa con nuôi mà chính quyền Hoa Kỳ đã giao phó cho ông dạy dỗ. Chương 62 sẽ nói rõ vấn đề này.
Trường hợp 3 là trong công điện ngày 5-9-1963 gửi về thủ đô Hoa Thịnh Đốn, ông Đại Sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge cũng đưa ra lời nhận xét đầy khinh bỉ về con người Ngô Đình Diệm. Lời nhận xét này cho chúng ta thấy rõ cái đặc tính học đòi làm sang, sặc mùi phong kiến với bản chất cuồng tín, ngu dốt và tàn ác của bọn người này :
“Chủ yếu chúng nó là chế độ chuyên chính Á Châu thời Trung Cổ của loại gia đình cổ điển, không hiểu gì cả hay hiểu rất ít về các ngành nghề của chính quyền vì dân. Chúng không thể ăn nói với dân chúng, không thể gây cảm tình với báo chí, chúng không thể ủy thác quyền hành hay tạo ra niềm tin, chúng không thể hiểu được tư tưởng chính phủ là công bộc của dân. Chúng nó chỉ quan tâm đến an ninh vật chất và sự sống còn của chúng, chống lại bất cứ mối đe dọa nào cộng sản hay không cộng sản.”[4]
Trường hợp thứ 4 là trong chuyến viếng thăm Sàigòn vào năm 1961, Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đã cường điệu so sánh ông Ngô Đình Diệm với ông Churchill của nước Anh. Sau đó lên trên phi cơ trở về Hoa Kỳ, ký giả Stanley Karnow hỏi ông rằng, “Phải chăng ông thực sự so sánh Diệm với ông Churchill như vậy sao ?” Phó Tổng Thống Lyndon Johnson đã trả lời liền rằng “Cái cục cứt ! Diệm là thằng bé duy nhất chúng ta có ở đây !” Nguyên văn : “Carried away by oratorical hyperbole during a visit to Saigon in 1961, Lyndon Johnson, then vice-president, had compared Diem to Churchill. “Did you really mean it ?” I asked him aboard his airplane later. “Shit,” he drwaled, “Diem’s the only boy we got there.”[5]
Trường hợp thứ 5 được ông Bùi Văn Hồng Sơn ghi lại với nguyên văn như sau :
“Khi phong trào đấu tranh của Phật Giáo đòi tự do tín ngưởng và bình đẳng như Công Giáo mới bùng nổ, linh mục Jean Renou trên 37 năm kinh nghiệm truyền giáo ở Viễn Đông đã phải lo ngại thốt lên : “Thằng cha nầy (Diệm) điên rồi ! Hắn đang hủy hoại tất cả những gì chúng ta hoàn thành được suốt một trăm năm mươi năm qua."[6]
Nói tóm lại, tất cả mọi việc vận động, chạy chọt, chuẩn bị và xếp đặt cho ông Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền là đều do bàn tay của Giáo Hội La Mã cả. Giáo Hội La Mã đã mất bao nhiêu công lao và tiền bạc trong việc lo lót cho ông Ngô Đình Diệm để đưa ông ta về nắm quyền cai trị ở Việt Nam. Mục đích duy nhất của Giáo Hội là biến Ngô Đình Diệm thành một thứ bạo chúa Constantine tại Việt Nam với chủ trương dùng bạo lực cưỡng bách nhân dân Việt Nam phải chấp nhận đạo Ki Tô La Mã là quốc giáo.
Như vậy là ông Ngô Đình Diệm hoàn toàn nhờ vào thế lực của ngoại bang mà chủ chốt là Giáo Hội La Mã đưa lên cầm quyền. Ông chẳng phải là một Hoàng Thái tử hưởng quyền thừa kế vua cha mà nghiễm nhiên được đưa lên ngai vàng trị vì để lo phúc lợi cho dân cho nước. Ông cũng chẳng phải là người từ trong nhân dân dấy lên đem quân khử bạo, trừ gian, diệt trừ quốc tặc để đem lại công bằng và no ấm cho muôn dân. Ông cũng chẳng phải là người anh hùng từ chốn bưng biền kéo quân về đánh đuổi quân cướp ngoại thù để đòi lại núi sông cho dân tộc. Ông cũng chẳng phải là người ra tranh cử trong một cuộc bầu cử dân chủ tự do để được nhân dân tuyển chọn đưa lên làm nhà lãnh đạo quốc dân trong một thời gian hiến định. Ông chẳng có một thứ chính nghĩa nào theo bất kỳ một hoàn cảnh nào của đất nước hay thể chế chính trị nào trên đây cả. Ông chẳng là cái gì hết. Thực sự, ông chỉ là người được Giáo Hoàng Pius XII (1939-1958) của Giáo Hội La Mã đỡ đầu và được Tổng Thống Hoa Kỳ Dwight Davis Eisenhower cùng Ngoại Trưởng Foster Dulles bảo trợ, và được hai người đàn bà sắc nước hương trời là Nam Phương Hoàng Hậu và Trần Lệ Xuân (bà Ngô Đình Nhu) tiếp tay bằng những lời ton hót nỉ non với Quốc Trưởng Bảo Đại để cho ông về Việt Nam cầm quyền.
Kết Luận :
Phần trìn bày trên đây cho chúng ta thấy rõ toàn thể nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân thế giới đều nhận thấy rằng ông Ngô Đình Diệm là một tín đồ Da-tô cuồng tín được Đế Quốc Vatican và Hoa Kỳ đưa về Việt Nam làm việc cho họ. Nhân dân Việt Nam, ai cũng đều biết rõ gia đình ông có công lao với Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican ngay từ giữa thế kỷ 19 trong việc đàn áp và tiêu diệt các phong trào tranh đấu đòi lại quyền tự do cho quê hương và dân tộc. Bản thân ông Ngô Đình Diệm chỉ là một tên Việt gian làm tay sai nòng cốt cho Đế Quốc Vatican, cho Pháp, chạy theo Nhật, rồi đến Hoa Kỳ. Ông được người của Đế Quốc Vatican dẫn sang Hoa Kỳ để lo lót chạy chọt với chính quyền Hoa Kỳ cùng với Giáo Hội La Mã làm áp lực với chính quyền Pháp và Quốc Trưởng Bảo Đại cho ông về Việt Nam làm thủ tướng chính phủ. Khi ông về Việt Nam cầm quyền, người Việt Nam đang cầm súng chiến đấu dù là ở trong hàng ngũ Việt Minh Kháng Chiến hay ở trong hàng ngũ Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp-Vatican (có chính quyền tay sai do ông Bảo Đại làm quốc trưởng) hầu như không ai biết đến tên ông. Tại sao lại như vậy ? Nhân dân Việt Nam ở thế hệ đang chiến đấu lúc bấy giờ không biết đến ông bởi vì suốt thời gian từ khi toàn dân vùng lên đi đòi lại núi sông cho dân tộc thì ông lại lẩn trốn ẩn náu trong các nhà thờ của Giáo Hội La Mã, những trung tâm thâu thập tin tức tình báo chiến lược chống lại của tổ quốc. Đối với nhân dân miền Nam, khi ông về tới Saigon, hầu như toàn dân nếu không thù ghét và coi ông như một kẻ tử thù thì cũng lạnh lùng, thờ ơ lãnh đạm đối với ông. Điển hình là các nhân sĩ miền Nam như các ông Hồ Hữu Tường, Trần Văn Ân, Trần Văn Văn, Trần Văn Hữu, Nguyễn Phan Long, v.v... đều khinh rẻ và không ủng hộ ông.
Chú Thích :
[1] Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam –1858-1897 (Saint Raphael, Pháp, TXN, 1995), tr. 17.
[2] Hữu Mai, Ông Cố Vấn - Hồ Sơ Điệp Viên - Tập 2 [Phủ Đầu Rồng] (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 1989), tr. 171.
[3] Malachi Martin, Rich Church Poor Church (New York: G. P. Putnam’s Sons, 1984) p. 90.
[4] Hoàng Ngọc Thành & Thân Thị Nhân Đức, Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thồng Ngô Đình Diệm (San Jose, California: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, 1996), tr.280.
[5] Stanley Karnow, Vietnam A History (New York The Viking. 1983), P. 210.
[6] Bùi Văn Hồng Sơn, “Ý kiến về bài viết Nói chuyện ngàn năm...” (Kết) danchimviet.com Ngày 26/7/2006.
- Ngô Đình Diệm: Con người và tội ác :
http://www.sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1a.php
- Ba điều căn bản nhà Ngô để lại cho lịch sử :
http://sachhiem.net/LICHSU/TR/TQD27_3dieu.php
- Có một khúc quanh đen tối và thê lương :
http://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5002
- Vô vàn sự tàn tác thời Diệm Nhu :
http://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5235
- “Ôi Nhân Vị và Duy Linh” :
http://duonglichsu.files.wordpress.com/2012/09/c3b4i-nhc3a2n-ve1bb8b-vc3a0-duy-linh.pdf
- Nhà Ngô mật lịnh hủy diệt tàu chở tù nhân đày đi hải đảo.
http://kienthuc.net.vn/giai-ma/vi-sao-diem-cho-nem-bom-tau-cho-tu-ra-con-dao-243598.html
- “Vì Chúa, vì Giáo hội” nên đã gây ra bao đau thương :
http://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5735
- Nhà Ngô ra lịnh tấn công chùa Xá Lợi đêm 20.8.1963 :
http://www.sachhiem.net/index.php?content=showrecipe&id=5751
Ngô Đình Diệm ký sắc lịnh không ân xá cho Ba Cụ Lê Quang Vinh :
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ba_C%E1%BB%A5t
- Không thể chạy được tội cho nhà Ngô :
http://giaodiemonline.com/2013/06/tranquangdieu.htm
- Chín hầm, địa ngục trần gian thời Ngô Đình Diệm :
http://sachhiem.net/LICHSU/N/NgoDiep.php
_____________________________________________
Trung Tướng Trần Văn Đôn, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dưới thời ông Diệm, qua hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”, Xuân Thu, USA, 1989, từ trang 171 đến 179, ông viết trong lúc mà hầu như mọi Tướng Lãnh quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đều còn sống và phần đông là có mặt tại Hoa Kỳ :
“Đại Tướng Lê Văn Tỵ (Tổng Tham Mưu trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa – tqd) đi Mỹ chữa bệnh. Đến ngày 19 tháng 8 năm 1963, ông Diệm chỉ định tôi chức quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, rồi ông Nhu ra lịnh tấn công chùa để cho tôi và quân đội chịu trách nhiệm. Dĩ nhiên sự việc đó làm cho dư luận trong và ngoài nước kết án quân đội mà người đứng mũi chịu sào là tôi”.
Chiều ngày 20 tháng 8, ông Ngô Đình Nhu mời tôi, quyền Tổng Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm, Tham Mưu Trưởng, Thiếu Tướng Tôn Thất Đính, Quân trấn Sài gòn, và Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng giám đốc Công an Cảnh sát, đến dinh Độc Lập ra lịnh: “Tối nay sẽ bắt các sư sãi cộng sản.”
Đêm 20 tháng 8, lợi dụng lịnh giới nghiêm, dinh Độc Lập ra lịnh riêng cho Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt cùng Cảnh Sát Đặc Biệt của Dương Văn Hiếu, Mật vụ và Cảnh sát chiến đấu của ông Trần Văn Tư, Giám đốc Cảnh sát Đô thành bao vây tấn công các chùa trong đô thành để bắt các Thượng tọa, Đại đức, Tăng ni và Phật tử.
Lực Lượng Đặc Biệt là một tổ chức của quân đội, được thành lập từ năm 1956 gồm gần 10 Đại Đội (mỗi đại đội 120 người), võ trang súng ống tối tân nhất, được huấn luyện kỹ như Nhảy Dù, bơi lội, đột kích sau lưng địch . . . Một số ít chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt này đã từng nhảy dù ra Bắc để hoạt động, vì vậy nên được lựa chọn rất kỹ, đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn. Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy lực lượng này.
Nghe lịnh tấn công chùa như vậy, chúng tôi biết là việc này sẽ làm suy sụp thêm cho chế độ nhưng không thể can gián được. Đêm đó, tôi và Trần Thiện Khiêm theo dõi tại bộ Tổng Tham Mưu trên máy riêng Motorola của Cảnh sát nên chúng tôi biết cuộc tấn công này do Đại Tá Lê Quang Tung chỉ huy tổng quát.
Tôi và ông Khiêm lấy xe đến chùa Xá Lợi vào khoảng 1 giờ khuya. Đến nơi tôi thấy đèn còn bật sáng, cảnh sát còn đi qua lại. Bước vào chính điện, tôi giở mũ, ông Khiêm cũng giở theo. Lính cảnh sát thấy vậy cũng giở mũ và đứng im. Tôi hỏi:
- Quý Thầy đâu hết rồi ?
Họ nói dẫn qua Phú Nhuận, còn Hòa thượng Thích Tịnh Khiết thì được đưa về cơ quan tình báo của Đại Tá Nguyễn Văn Y.
Tôi ra lịnh họ tắt đèn đóng cửa lại, đừng làm mất trang nghiêm nơi thờ phượng. Dặn xong chúng tôi ra về, đến cơ quan của Đại Tá Y. Ông Y cho biết Hòa thượng rất mệt, mai sáng phải cho vô bịnh viện quân sự Cộng Hòa. Chúng tôi trở ra đi thẳng đến dinh Gia Long. Lúc đó khoảng 3 giờ sáng. Gặp ông Nhu, ông ta bảo ra lịnh thiết quân luật. Lịnh này ban ra là có ý đổ trách nhiệm tấn công chùa cho quân đội, tôi hiểu ý của ông Nhu nhưng im lặng thi hành.
Lúc 5 giờ sáng, ông Diệm tập hợp Nội Các chánh phủ để trình bày sự việc. Ngay trong phiên họp đó, Ngoại Trưởng Vũ Văn Mẫu từ chức để phản đối sự đàn áp Phật giáo của anh em ông Diệm. Sự từ chức nầy của ông Mẫu làm thế giới xôn xao, Phật tử xúc động, dân chúng cảm phục một người đã thẳng thắn từ bỏ chức vụ để phản đối hành động bất công và tàn bạo.
Lúc đó ông Trần Văn Chương đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, bà Chương là Quan sát viên cho Việt Nam Cộng Hòa tại Liên Hiệp Quốc, nhận thấy anh em Ngô Đình Diệm đàn áp Phật giáo, con gái mình tiếp tay phát ngôn hỗn xược mà mình không thể can ngăn được nên cả hai ông bà đều từ chức.
Sự từ chức của ông Mẫu và ông bà Trần Văn Chương là những ngọn đòn đau đớn cho anh em nhà họ Ngô.
Giới nghiêm là hạn chế sự lưu thông về đêm, còn Thiết quân luật là phải đem quân đội ra đường canh gác. Mỗi thứ phù hợp với một tình trạng mà Thiết quân luật chỉ áp dụng khi thật sự nguy hiểm cho nước nhà. Bởi vậy nghe lịnh Thiết quân luật, các tướng ngơ ngác.
Ngày 21 tháng 8, đài VOA loan tin quân đội nghe theo lịnh Tổng Thống đi tấn công chùa. Tôi không biết làm sao cải chính tin đó với đài VOA nên tôi cho Đại Úy Lê Văn Khấn, sĩ quan tùy viên của tôi đi mời ông Conein, sĩ quan CIA quen tôi từ năm 1946 ở Hà Nội hiện đang ở góc đường Công Lý và Nguyễn Đình Chiểu đến Bộ Tổng Tham Mưu gặp tôi đêm đó. Ông Conein sợ tôi gài bẫy nên mang theo súng tùy thân.
Chín giờ tối, ông Conein lại, chúng tôi cho biết quân đội không tham gia trong việc tấn công các chùa như đài VOA đã loan tin để ông Conein về trình lại đại sứ Mỹ. Ông Conein hỏi : “Các tướng lãnh Việt Nam có ý định đảo chánh không ?” Tôi trả lời : “Chuyện này rất quan trọng sẽ nói sau.” Rồi ông Conein ra về.
Hai hôm sau đài VOA cải chính, nói rõ là quân đội Việt Nam không tấn công chùa. Ông Nhu nghe tin cải chính nầy rất tức giận, buộc mấy ông tướng phải họp lại (cái này thì quả nhiên là độc tài gia đình trị chứ còn gì nữa ? – tqd), tuyên bố đứng sau lưng Tổng Thống và tôi phải ra nhật lịnh nói rằng quân đội có tham gia việc đó. Tôi phải tuân lời. Tuân lời ra nhật lịnh kêu gọi quân đội xiết chặt hàng ngũ sau lưng Ngô Tổng Thống thì được, nhưng nói làm sao cho anh em quân nhân và đồng bào hiểu mình đang tìm cách hạ một chính quyền đang bị dân oán hận! Tôi ra lịnh cho Đại Úy Phạm Văn Túy, tín đồ Thiên Chúa giáo đang làm việc ở văn phòng tôi thảo nhật lịnh. Cùng tâm trạng như tôi và hiểu ý tôi nên Đại Úy Túy viết đoạn chót mà tôi rất hài long :
- Cuộc chiến đấu rất nhiều gian khổ, thử thách lòng hy sinh của chúng ta cho chính nghĩa và Tổ quốc. Chúng ta phải cương quyết giữ vững ý chí, chủ động trên khắp các lãnh vực đấu tranh. Tôi (“Tôi” ở đây là Trung Tướng quyền Tổng Tham Mưu Trưởng Trần Văn Đôn – tqd) luôn luôn ở bên cạnh các anh em. Hãy tuyệt đối tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng.
Báo chí lúc ấy bất bình hành động của ông Ngô Đình Diệm và vợ chồng Ngô Đình Nhu có mấy tờ in đậm câu chót trong nhật lịnh nên nhiều người đọc tinh ý sẽ hiểu câu: “Hãy tuyệt đối tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng.”
(. . .)
Việc một nữ sinh (Quách Thị Trang – tqd) bị bắn chết (sáng ngày 25.8.1963 trước chợ Bến Thành, Sài gòn – tqd) làm cho chúng tôi thấy hổ thẹn với quần chúng khi khoác áo quân nhân ra đường. Việc Phật tử bị giam cầm làm cho tôi có mặc cảm tội lỗi. Nói làm sao cho dân chúng hiểu được rằng chúng tôi không làm việc đàn áp đó, chúng tôi không chủ trương giết người biểu tình bất bạo động, chúng tôi không đồng ý bắt giam người như vậy ? Nhưng chúng tôi cúi đầu nhẫn nhục chờ ngày không xa chúng tôi sẽ trả lời với mọi người bằng hành động.”
Ngày 22 tháng 8, tôi đến thăm Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Với giọng nói mệt nhọc, ngài hỏi :
- Tại sao lại đánh chúng tôi ?
Nghe hỏi tôi xót xa quá, nhưng không biết trả lời sao !
Vì thiết quân luật, chúng tôi ở trong trại không về nhà, nhiều anh em cũng như tôi nhận những cú điện thoại trách móc của vợ, không những chỉ các gia đình theo đạo Phật mà người phụ nữ thuộc các tôn giáo khác cũng có người trách chồng sao lại tham gia vào việc đàn áp Phật giáo… Đại Tá Trần Ngọc Huyến, một tín đồ Thiên Chúa giáo, người ủng hộ ông Diệm hết tình cũng chống vấn đề đàn áp Phật giáo đó của anh em ông Diệm.
Những gì chúng tôi nung nấu từ đầu năm 1960 đến nay đã đến lúc phải bộc phát. Những độc tài, bất công, đàn áp của chính quyền mà suốt mấy năm trời chúng tôi bất bình đến nay phải bùng nổ. Những chuẩn bị từ lâu nay đến lúc phải thi hành.” (bằng vào 1 giờ 30 chiều ngày 1.11. 1963 – tqd).
____________________________________________________
“Ông Nhu đã tỏ vẻ coi thường khi nhận được báo cáo đầu tiên về những đoàn quân tiến về dinh Tổng Thống. Ông tin rằng việc tấn công nầy nằm trong chiến lược của ông nhằm phát giác và tiêu diệt những người đối nghịch của ông.
Theo kế hoạch của ông Nhu thì vài đơn vị trung thành của ông sẽ chiếm vài nơi trọng yếu tại thủ đô. Lúc đó ông và ông Diệm sẽ bay ra Vũng Tàu. Chỉ vài ngày sau, tình trạng lộn xộn và không luật lệ đó sẽ mở ngõ cho kẻ thù của chính quyền vào. Các đơn vị trung thành với chế độ đánh chiếm lại. Lúc đó quân phản loạn của Mỹ sẽ bị sập bẫy chết trong đô thị nầy (Sài Gòn – tqd).
Một việc không may cho anh em nhà Ngô là ông Nhu đã nhờ Tướng Tôn Thất Đính thực hiện kế hoạch nầy. Trước đó (cũng trong chiều ngày 1.11.1963 - tqd) ông Nhu có điện thoại cho ông Đính nhưng không gặp. Sau đó ông ta có liên lạc với vài tướng lãnh mà ông nghĩ trung thành với chế độ, nhưng cũng không gặp ai cả. Lúc đó, ông mới biết là đảo chánh có thật” - (Trần Văn Đôn, Sđd, tr 270).
Đến 3 giờ 30 chiều ngày 1 tháng 11, Tổng Thống Ngô Đình Diệm điện thoại cho tôi lần đầu tiên và hỏi :
- Các anh làm gì đó ?
- Thưa cụ, quân đội đứng lên đáp lại lòng mong mỏi của dân. Chúng tôi yêu cầu Cụ từ chức vô điều kiện. Chúng tôi sẽ lo cho Cụ và gia đình đi ngoại quốc.
Ông Ngô Đình Diệm hỏi tiếp :
- Tại sao các anh làm như vậy ?
- Vì chúng tôi yêu cầu đã nhiều lần mà Cụ không chịu thay đổi gì hết. Xin Cụ cải tổ chính phủ, chấm dứt đàn áp Phật giáo và ngày hôm qua tôi có gặp Cụ thì Cụ cũng cương quyết không thay đổi.
- Nói vậy chứ tôi định ngày nay tuyên bố cải tổ chính phủ. - (Y như con nít ? – tqd).
- Thưa Cụ muộn quá rồi. Đây có Trung Tướng Dương Văn Minh xác nhận lời nói của tôi.
Tôi chuyển điện thoại cho Trung Tướng Dương Văn Minh.
Khi điện đàm, các tướng tá đang đứng ngồi xung quanh nên chúng tôi nghe Trung Tướng Minh nói :
Chúng tôi chịu đựng từ mấy năm nay rồi.
Rồi ông nói tiếp :
Anh em chúng tôi có mặt ở đây là . . . Trung Tướng Dương Văn Minh.
Nói đến đây, ông Minh đưa cho từng người hiện diện xưng cấp bực và tên họ của mình, rồi lần lượt các vị như :
- Trung Tướng Nguyễn Ngọc Lễ,
- Thiếu Tướng Lê Văn Kim,
- Thiếu Tướng Trần Thiện Khiêm,
- Thiếu Tướng Lê Văn Nghiêm,
- Thiếu Tướng Nguyễn Văn Là,
- Thiếu Tướng Phạm Xuân Chiểu,
- Thiếu Tướng Trần Tử Oai,
- Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân,
- Thiếu Tướng Nguyễn Giác Ngộ,
- Đại Tá Nguyễn Đức Thắng,
- Đại Tá Đặng Văn Quang,
- Đại Tá Nguyễn Văn Chuân,
- Đại Tá Nguyễn Khương,
- Trung Tá Nguyễn Văn Thiện,
- Trung Tá Lê Nguyên Khang.
Sau đó, ông Ngô Đình Nhu xin nói chuyện với tôi :
- Tại sao các anh lại phải đánh, có việc gì không bằng lòng thì nói với nhau (Ở đó mà “nói với nhau”! Nếu “có gì không bằng lòng thì nói với nhau” thì ông Nhu đã không thể đe dọa “những Tướng nào mà âm mưu đảo chánh thì sẽ treo cổ nó trên đường Công Lý” và; không thể có chuyện như bắt cóc thủ tiêu man rợ bằng hình thức dìm hai ông Nguyễn Bảo Toàn và Phạm Xuân Gia xuống lòng sông Nhà Bè ? - tqd). Sao mà thiếu tình như vậy ? (Tình ? đối với Đảng Cần Lao, những Mật vụ, hành xử người dân qua cái gọi là “phong trào tố Cộng”, việc triệt tiêu đối đối lập, thanh trừng các chính khách v.v… là những điều mỉa mai, cay đắng nhất suốt khung thời gian mà nhà Ngô cầm quyền! – tqd).
Tôi trả lời:
- Chúng tôi hành động như vậy chỉ vì ý dân. Hôm qua, chính ông Cố Vấn đã nói với tôi rằng ông Cụ không chịu thay đổi gì hết, và sau đó ông Cụ đã xác nhận với tôi là tình hình tốt đẹp (“tốt đẹp” trong việc đi đêm với Bắc Việt, dùng gián điệp Việt Cộng vào dinh Tổng thống, vào chức vụ Tỉnh trưởng, dùng nhà ông Tàu Mã Tuyên liên lạc với MTGPMNVN, đàn áp khốc liệt Phật giáo, Cao Đài, Hòa Hảo v.v…nhưng “tố Cộng” giết người thì cứ làm, cứ ra tay ? – tqd) không cần thay đổi gì hết…
- Thôi được ! Mời mấy anh lên đây (dinh Gia Long – tqd) thương thuyết với chúng tôi. Tôi sẽ bảo đảm an ninh cho các anh.
Tôi chuyển lời mời lên thương thuyết của ông Nhu với các anh em hiện diện để biết ý kiến, đa số các anh em lắc đầu không đồng ý vì nhớ lại cuộc đảo chánh năm 1960, ông Diệm ông Nhu nói thương thuyết, thỏa thuận nhưng đó chỉ là cớ kéo dài để chờ quân tiếp cứu (đích thực là thế chứ không thể có chuyện “Tổng thống không cho quân đội đánh nhau với quân đội” bao giờ, và, việc xỉ gạt đó - 1960, na ná cái họa vua U Vương bên Tàu vào hồi nhà Chu đốt Lộc Đài ở Trung nguyên báo động giả cho chư hầu kéo quân về triều ca cứu giá để cho Bao Tỷ và Muội Hỷ cười! – tqd).
Tôi trả lời với ông Nhu :
- Các Tướng Tá ở đây không một ai đồng ý lên thương thuyết, vì biết đây là một cớ hoãn binh, một cái bẫy mà thôi.
“Cũng trong lúc 4 giờ chiều, các sĩ quan cao cấp vào thêm Bộ Tổng Tham Mưu như Đại Tá Dương Ngọc Lắm, Đại Tá Đặng Thanh Liêm, Đại Tá Bùi Hữu Nhơn…
Để yểm trợ cho đoàn quân tấn công thành Cộng Hòa, tôi cho hai khu trục phát xuất từ căn cứ Không quân Tân Sơn Nhất bay lên bắn yểm trợ cho Bộ Binh.
Các Tư Lệnh Vùng I và Vùng II gọi về báo cáo tình hình và tôi cũng cho biết tình hình thủ đô.
Đến 6 giờ chiều ngày 1 tháng 11, Thiếu Tướng Đính đang chỉ huy tấn công các công sở cho tôi biết ông đã giải thoát nam nữ sinh viên, học sinh bị giam giữ vì tham gia biểu tình phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo. Tôi yêu cầu cho chở tất cả anh em vào bộ Tổng Tham Mưu gặp chúng tôi.
Đến 7 giờ 30, các anh em sinh viên học sinh được giải thoát vào thẳng bộ Tổng Tham Mưu. Nghe tin, chúng tôi xuống tiếp họ.
Vừa xuống cầu thang, chúng tôi nghe tiếng một anh sinh viên (Về sau chúng tôi biết là anh Nguyễn Hữu Đống, sinh viên Kiến trúc) hô to :
- Anh chị em! Quỳ xuống lạy các tướng lãnh đã cứu mạng chúng ta !
Thấy họ sắp quỳ, chúng tôi vội la to :
- Thôi ! Thôi ! Đừng . . .
Chúng tôi không nói thêm được gì vì trước cảnh nầy ai cũng quá cảm động, chảy nước mắt.
Nguyễn Hữu Đống đại diện anh em bày tỏ lòng biết ơn và niền hân hoan vui sướng vì quân đội lật đổ được chế độ độc tài tàn ác của gia đình họ Ngô. Giọng anh phát biểu có lúc hét lên như trút uất hận, có lúc hùng hồn đanh thép, lúc lại run run vì cảm động”.
Về sau chúng tôi nghe một vài nhân chứng đi sát với ông Diệm và ông Nhu như Đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên, Đại úy An, sĩ quan cận vệ cho biết :
- sau khi nói chuyện với đại sứ Mỹ Cabot Lodge vào lúc 3 giờ chiều ngày 1.11.1963,
- sau khi nói chuyện với tôi (Trần Văn Đôn) và ông Minh,
- sau khi biết hầu hết các cấp chỉ huy cao cấp trung thành không còn trrung thành với nhà Ngô nữa. . . .
- . . . . . . .