TIỂU SỬ SƯ BÀ
THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
1. Bước Chân Trần Thế :
Thế danh : Hồ Thị Hạnh,
Pháp danh : Trừng Hảo, (*)
Pháp tự : Thích Nữ Diệu Không ,
Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42
Sanh ngày 24 tháng 12 năm 1905 (theo Âm lịch tức là ngày Đinh Dậu 28 tháng 11 năm Ất Tỵ).
Chánh quán làng An Truyền, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
Thân phụ là Đại thần Hồ Đắc Trung,Thân mẫu là cụ bà Châu Thị Ngọc Lương, người làng An Lai. Sư bà là em ruột của sư bà Diệu Huệ.
Thiếu thời theo Nho học. Lớn lên theo Tây học. Bẩm chất thông minh. Tính tình hiếu hòa, hiếu đạo. Mẫu người của bà vừa đạo đức, vừa văn nghệ. Thích hoạt động nhất là về mặt từ thiện xã hội. Bà được thọ sanh trong một gia đình danh giá vọng tộc, khoa bảng, nhưng uyên thâm về Phật học. Một gia đình đại phúc đại quý, nên cụ Đại thần Hồ Đắc Trung đã tự vịnh gia đình của cụ qua bài thơ sau:
Chồng vợ nay đã đặng tám mươi,
Mười con : bốn gái sáu con trai,
Trai đầu khoa bảng quan nhị phẩm,
Gái thứ cung phi đệ nhất giai.
Ba gái gả nơi sang quý cả,
Năm trai đều đậu đại khoa rồi.
Một nhà hiếu đạo đều đầy đủ,
Trung phần đây biết đố nhà ai ?
Năm 1929, bà vâng lời song thân kết duyên cùng với cụ Tham tá Cơ mật viện Cao Xuân Xang (lúc nầy cụ Cao Xuân Xang vừa góa vợ ba năm, để lại sáu con nhỏ).
Năm 1930, bà sinh hạ được một con trai là Cao Xuân Chuân. Cùng trong thời gian nầy, chồng bà lại thất lộc. Tình nghĩa của bà chỉ vỏn vẹn có 11 tháng, thì sống cảnh đơn chiếc.
Bà có một tư tưởng đặc biệt, khác hẳn với giới nữ lưu thường tình lúc bấy giờ là : Một quận chúa trẻ, đẹp, học thức, có tự do, thế mà bà thuận lấy một người chồng góa vợ với sáu đứa con dại, lại mang bệnh lao phổi.
Mới 24 tuổi mà chấp nhận sống cuộc đời góa bụa với bảy đứa con (đứa con đầu lòng của bà vợ trước 11 tuổi, đứa con nhỏ 3 tuổi cọng thêm đứa con mà bà mới sanh). Bà thủ tiết thờ chồng nuôi con. Bà chịu đựng mọi thử thách, nhất là về mặt tinh thần và tình cảm.
Những người bạn quen thân với bà Việt cũng như Pháp đều rất ngạc nhiên. Họ cho là điều vô lý, khó hiểu. Cũng có một vài bà quá quen thân thường đến tâm sự cùng bà thì được bà trả lời :
- Tinh thần phụ nữ Á đông là như vậy. Người phụ nữ Việt Nam, trước một lời đã hứa thì không bao giờ thay đổi.
Bà đã hứa với gia đình chồng là :
- Một đàn con bảy đứa, không mẹ, không cha. Chúng đã gọi mình bằng mẹ, thì không thể nào không làm tròn trọng trách; vả lại, những gương nữ lưu Việt Nam đã để lại cho chúng ta soi là : “Tiết Hạnh Khả Phong”, thì chắc chắn chúng tôi phải học theo cho bằng được.
Dù là phụ nữ, bà vẫn vừa giáo dục con cái vừa nghiêm nghị, vừa thương yêu. Bà tỏ ra rất bình đẳng, không có sự phân biệt giữa con riêng, con chung. Vì thế, tất cả bảy người con rất kính phục. Mọi người đều ca tụng bà, thì bà trả lời :
- Tôi gắng làm được như vậy là nhờ tinh thần vô ngã vị tha của Phật giáo.
Tuy nữ giới, tinh thần vẫn tỏ ra như một nam nhi. Tinh thần dân tộc, đầu óc canh tân xứ sở rất cao. Bà đã từng lập cửa hàng Nam Hóa ở cửa Thượng Tứ - Huế để kêu gọi quần chúng bản tỉnh nên dùng đồ nội hóa. Bà đã lập hội đấu xảo tiểu công nghệ cho giới phụ nữ ở số 2, đường Lê Lợi - Huế. Hội nầy gây ảnh hưởng rất sâu rộng trong quần chúng địa phương một thời. Hội do bà Đàm Phương phụ trách. Bà cũng tặng cho hội một bài thơ như sau :
Nữ công sang lập tại Thừa Thiên,
Kinh tế nâng cao bậc nữ quyền,
Gánh vác giang san thân gái Việt,
Duy trì nòi giống đất rồng tiên.
Công dung tinh tấn không lười biếng,
Ngôn hạnh đoan trang ấy chính chuyên.
Tất cả chị em nên gắng bước,
Noi gương Trưng, Triệu mãi lưu truyền.
Hằng ngày, bà thường hoạt động cho mặt xã hội từ thiện, công việc gia đình với đàn con thơ dại ; nhưng, bà vẫn thường lên chùa bái sám, học giáo lý Phật đà.
Khi đàn con khôn lớn, bà từ từ thoát ly cuộc sống hẹp hòi của gia đình để hướng nẻo giải thoát. Bà giao phó công việc gia đình cho cô con gái thứ năm và bước vào cửa thiền rất dõng mãnh. Nữ sĩ Đàm Phương có tặng một bài thơ để ca tụng cuộc đời son sắc, đẹp đẽ của bà như sau :
Khoác áo nhu hòa thân khoẻ không ?
Hiếu, Tình hai chữ trả đền xong,
Thở than, nuôi trẻ hai triêng (*) nặng,
Mến đạo, thương đời một điểm trong.
Công quả đã tròn nơi Diệu Đức,
Phẩm tài chi kém bạn Phương Dung.
Nêu cao đuốc tuệ gương bồ liễu,
Như mảnh trăng tròn giữa biển đông.
(*) Triêng tức là gánh, theo thổ ngữ địa phương của các tỉnh Bình Trị Thiên. Đòn Triêng tức đòn Gánh. Một Triêng tức là một Gánh.
2. Bước Vào Thiền Môn :
Mùa Xuân năm Nhâm Thân (1932), sau khi trao gia thế lại cho đàn con và lên cầu pháp với tổ Giác Tiên ở tổ đình Trúc Lâm. Lúc đầu ngài Phước Huệ chỉ dạy có mấy vị : Mật Khế, Đôn Hậu, Vĩnh Thừa (tức Ôn Châu Lâm), Mật Hiển, Mật Nguyện và Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám. Bà có phước báo là được tham dự vào lớp học nầy.
Cuối năm 1932, bà lên chùa Khải Ân, làng Châu Ê, xã Thủy Bằng, quận Nam Hòa (Chùa nầy do bà Hồ Thị Chỉ, chánh thất của vua Khải Định và cũng là chị ruột của sư bà lập nên năm 1924), để cọng trú với sư bà Thể Yến, Hướng Đạo (tức sư bà Diệu Viên). Tuy ở xa, bà vẫn theo lớp học ở Trúc Lâm.
Năm 1933, bà thành lập Ni viện ở Tổ đình Từ Đàm.
Năm 1934, khởi công xây dựng Ni viện Diệu Đức, cơ sở nầy hoàn thành năm 1936.
Mặc dầu đã thọ Sa di thập giới, nhưng tổ Giác Tiên vẫn chưa cho thế phát. Vì tổ muốn bà thực hành hạnh Bồ Tát. Bà giữ chức Tổng thư ký hội Lạc Thiện. Hội nầy rất uy tín với Nam triều cũng như đối với chính phủ Pháp.
Bà rất tích cực trong công cuộc chấn hưng Phật giáo. Là cánh tay phải ngoại hộ cho hội An Nam Phật Học. Bà đã từng đi khắp từ Bắc chí Nam để vận động tài chánh. Ngoài đức hạnh, bà còn được thêm uy tín nhờ ảnh hưởng của gia đình Hồ Đắc, nên một khi đi đến đâu bà nói chuyện hay vận động từ quan lại đến thứ dân ai ai cũng đều hưởng ứng.
Hết lớp học ở Trúc Lâm, bà vẫn theo học lớp ngoại trú ở Tây Thiên, cho dù công việc từ thiện xã hội vô cùng bề bộn … Chính bà đã vâng lời Hòa thượng Phước Huệ để tìm cho bằng được cuốn kinh Kim Cang dệt bằng tơ lụa từ thời Tây Sơn. Đại đế Quang Trung đã viết lời bạt trong cuốn kinh nầy. Hiện bảo pháp nầy được tôn thờ tại Tổ đình Trúc Lâm.
Năm 1938, bà vào chùa Giác Linh, tỉnh Sa Đéc để lập trường đào tạo Ni giới. Đâu đó, bà cung thỉnh Hòa thượng Mật Hiển vào giảng dạy một thời gian dài.
Năm 1944, bà chính thức được thế phát, thọ Tỳ kheo ni và Bồ tát giới tại giới đàn Thuyền Tôn, Hòa thượng Giác Nhiên làm Đàn đầu Hòa thượng (thọ giới cùng một lần với Thiền sư Mật Thể).
Năm 1949, bà khai sáng Hồng Ân Ni tự, thuộc thôn Thuận Hòa, đồi Dương Xuân Thượng, xã Thủy Xuân, huyện Hương Thủy, cách tổ đình Trúc Lâm 800 mét.
Đồng trú với bà gồm có :
Sư cô Diệu Quang, sau nầy là Trú trì chùa Khải Ân, Nam Hòa.
Sư cô Diệu Minh, đồng sư và là bào muội của sư cô Diệu Quang. Cô Diệu Minh là vị Ni giới đầu tiên được chính phủ Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa cấp học bổng đi du học tại Pháp. Thủ tục hồ sơ vừa xong, cô thọ bệnh và viên tịch.
Sư cô Từ Nhơn, sư cô Diệu Vị và sư cô Diệu Hoa.
Năm 1952, khởi xướng lập chùa Bảo Quang, chùa Bảo Thắng ở Đà Nẵng, Quảng Nam.
Năm 1953, xây dựng chùa Tịnh Nghiêm ở Quảng Ngãi.
Năm 1960, xây dựng Ni viện Diệu Quang ở Nha trang để đào tạo Ni giới cho cả hai chương trình nội và ngoại điển.
Năm 1961, vào Gò Vấp lập chùa Dược Sư. Cũng trong năm nầy lập thêm chùa Từ Nghiêm ở Chợ Lớn.
Năm 1963, tham gia phong trào tranh đấu Phật giáo để chống lại chính sách bất bình đẳng tôn giáo của nhà Ngô. Trong cuộc họp để vạch một chương trình cụ thể cho cuộc tranh đấu, bảo vệ chánh pháp, bà vào Sài Gòn cùng với Thượng tọa Thiện Minh để kết hợp với Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo. Vừa đến Sài Gòn, bà liền tham gia cuộc tuyệt thực ở chùa Ấn Quang. Sau khi Ủy ban Liên phái quyết định có thể phải hy sinh thân mạng, bà xin tự thiêu trước. Trong lúc đang tịnh tâm bái sám để chuẩn bị thiêu thân, Hòa thượng Quảng Đức đề nghị bà để cho Tăng phái lãnh trách nhiệm trước. Vì ngài cũng tự nguyện thiêu thân. Ngài dạy bà như sau :
- “. . . Bảo vệ Chánh pháp là bổn phận và trách nhiệm chung của hàng đệ tử Phật, dù xuất gia hay tại gia. Tuy nhiên, bà phải y theo Bát kỉnh pháp trước. Ni chúng phải y theo Tăng chúng. Hãy đặt Đạo pháp lên trên tình cảm cá nhân. Tôi biết bà rất lo cho Đạo, cho Dân tộc. Tâm bà rất tốt. Trong Ni chúng khó tìm ra được một Diệu Không thứ hai. Bà còn phải ở lại cõi Ta Bà nầy mà hành Như Lai sự, hành Bồ tát hạnh cũng không phải là nhỏ. Đạo pháp còn nhiều cam go. Giáo hội còn phải cần nhiều cán bộ trung kiên như bà, . . .”
Mặc dầu lúc mới nghe qua sự cản trở không cho bà được toại nguyện thiêu thân thể cầu nguyện cho Đạo pháp được trường tồn, hưng thịnh thì bà cảm thấy buồn trong dạ ; sau lời dẫn giải của Hòa thượng Quảng Đức, bà cũng nhận thấy chí lý và tiếp tục tranh đấu theo đường lối Giáo hội hướng dẫn.
Ngọn lửa Quảng Đức bùng cháy sáng trong vòng 15 phút thì bà ngất xỉu, liền đưa bà về tĩnh dưỡng tại Ấn Quang.
Trước ngọn lửa oai hùng đó, bà vô cùng xúc động và cảm phục. Thành tâm đãnh lễ và đề thơ cúng dường :
Thầy ơi ! Con biết nói sao đây !
Lễ kỉnh lòng đau trước Thánh thây,
Lửa cháy lưng trời thân chẳng động,
Dầu loan khắp đất ý không lay.
Tiêu diêu Tịnh độ, Thầy theo Phật,
Lận đận trần lao, con nhớ Thầy.
Tất cả Việt Nam đoàn cảm tử,
Mấy ai tinh tấn đặng như Thầy ?
Năm 1964, bà dựng chùa Diệu Giác ở Thủ Đức. Cũng trong năm nầy, Giáo hội xây dựng Đại học đường Vạn Hạnh, bà cũng tích cực trong công tác nầy.
Năm 1965-1966, lại một lần nữa bà dấn thân cho cuộc tranh đấu đòi dân chủ dân quyền. Pháp nạn 1966 của chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1967, tạo lập Tịnh xá Kiều Đàm ở đường Công Lý - Sài Gòn. Công tác vừa yên, bà vội vã về Huế để lo phần ngoại hộ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Thừa Thiên - Huế mở lớp chuyên khoa Phật học nội trú Liễu Quán bốn năm.
Năm 1968, vâng lời Giáo hội Thừa Thiên, đứng ra lo công tác xây cất Cô nhi viện Bảo Anh ở Tây Lộc - Huế và Cô nhi viện Diệu Định ở Đà Nẵng, để có nơi nuôi dưỡng con em mồ côi do cuộc chiến gây ra.
Năm 1970, bà biến trụ sở nhà in Liên Hoa cũ thành Tịnh xá Kiều Đàm để cho Ni chúng học hành, vì Ni chúng ngày một đông đúc.
Vừa tạm yên công tác Cô nhi tử sĩ, cô ký nhi viện, bà liền lập chương trình đào tạo cán bộ y tế cấp tốc để tiếp tay chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Những trạm y tế Hồng Ân, Diệu Đế, Hòa Lương, . . . đã giải quyết trực tiếp cho đồng bào địa phương và cũng đã cũng đã gặt hái nhiều kết quả đáng kể.
Mặc dầu tuổi già sức yếu, bà không bao giờ chịu yên nghỉ. Tâm niệm của bà là lấy đau khổ của chúng sanh làm phương châm tu niệm. Bà thường bảo với Ni chúng :
- “Ngày nào tôi thấy dân chúng quê mình được an cư lạc nghiệp, có trình độ học vấn cao thì tôi ngủ mới yên giấc, ăn mới ngon miệng.”.
Năm 1975, cùng chung số phận với quê hương, bà phải đi đó đây để an ủi dân chúng. Không một Ni viện nào mà bà không phụ trách giảng dạy và lo lắng về kinh tế.
Tuổi đời đã trên 80 mà tinh thần vẫn minh mẫn. Công việc hành hoạt của bà chỉ có chư Bồ tát mới biết được.
Năm 1986, tuy tuổi già sức yếu, bà vẫn đứng ra vận động và trực tiếp trùng tu chùa Đông Thuyền. Chùa nầy được tạo lập dưới thời chúa Nguyễn.Gia Long năm thứ hai, được trùng tu một lần cho đến nay. Ngài Tế Vĩ là vị sư đầu tiên làm Trú trì. Hiện tháp và bia của ngài còn ở trong khuôn viên của chùa.
Cuộc đời của bà lợi tha hơn tự lợi. Vốn được thọ sanh trong gia đình quyền quý, vọng tộc, khoa bảng danh giá ; thế nhưng, bà vẫn giữ đức khiêm cung với chư tôn thiền đức. Bà gìn giữ Bát Kỉnh Pháp đúng mức. Không những thế bà còn kính trọng chư Tăng cho dù là các chú Sa di. Đức tánh mà bà thể hiện, chỉ có một không hai và rất khó có ở các vị Tỳ kheo ni khác. Thật đúng với đạo hiệu Diệu Không mà tổ Giác Tiên đã đặt cho bà. Quả thật xứng đáng là bậc mẫu từ của Ni phái miền Trung và Việt Nam.
3. Phần Văn Hóa :
Bà chỉ là một nhà thơ hơn là nhà văn. Bà đã để lại những áng thơ hay Đạo cũng như Đời.
Những đóng góp dịch thuật gồm :
- Kinh Lăng Già Tâm Ấn,
- Đại Trí Độ Luận,
- Thành Duy Thức Luận,
- Kinh Duy Ma Cật,
- Và một số lớn bài thơ đủ thể loại, ...
Những loạt bài bà viết trong báo Phật giáo phần nhiều đều khuyến khích giới phụ nữ Việt Nam sống đúng Công Dung Ngôn Hạnh và giáo lý Phật đà để gia đình được hạnh phúc. Hai tờ Viên Âm và Liên Hoa bà đều làm Quản lý từ đầu cho đến ngày đình bản.
Công việc thì đa đoan, nhưng dung nghi lúc nào cũng thoát tục. Những ai đã được gặp bà một lần thì không thể nào mà không kính mến, bái phục.
Để kết thúc một phần cuộc đời của sư bà Diệu Không, chúng ta hãy đọc bài thơ sau đây để hiểu một phần nào trong sự liễu đạo của sư bà :
Ta bà, Tịnh độ ở đâu xa ?
Chỉ tại lòng ta niệm chánh tà,
Chánh niệm trang nghiêm thành Tịnh độ,
Tà tâm vận chuyển ấy Ta bà.
Vô Tâm, chánh Trí là Tâm Phật,
Hữu Ý, mê Tình, ấy Tánh Ma.
Tà, Chánh đều vong, vô lậu giới,
Ta bà, Tịnh độ ở Tâm ta.
Đức Phật thường dạy : Hữu hình hữu hoại. Cái thân giả huyễn rồi cũng phải ly tan. Chỉ có pháp thân mới là cứu cánh. Trên 90 năm trụ thế, Sư bà đã dấn thân cho Đạo cũng như Đời. Chỗ nào có phiền não, có khổ đau là có sự hiện diện của Sư bà để an ủi, vỗ về và giúp đỡ cả hai mặt tinh thần lẫn vật chất.
Tấm thân của Sư bà như một cây khô đã đến lúc phải mục nát. Sư bà cũng theo quy luật nầy. Trước ngày Sư bà viên tịch một ngày, bút giả có gọi điện thoại về vấn an. qua điện thoại, tôi và Thượng tọa Thích Tánh Thiệt (tọa chủ chùa Thiện Minh ở thành phố Lyon, Pháp quốc qua thăm viếng Từ Đàm Hải Ngoại) cùng hỏi han sức khoẻ Sư bà.
Chúng tôi thưa :
-. Hai chúng con Tín Nghĩa và Tánh Thiệt gọi điện thoại về vấn an Sư bà đây .
Sư bà ừ. Chúng tôi thưa hỏi tiếp :
-. Sư bà khoẻ không ?
Sư bà đáp :
-. Khoẻ.
Chúng tôi cùng thưa :
-. Năm nay Sư bà bao nhiêu tuổi rồi ?
Sư bà đáp :
-. Chín mươi ba.
Chúng tôi cùng cười to và Sư bà cùng cười qua điện thoại trở lại rất vui vẻ. Chúng tôi không thấy hơi thở và cũng không cảm nhận là Sư bà yếu đuối gì cả. Thế nhưng, hai hôm sau, chúng tôi cùng gọi về và Ni chúng Hồng Ân cho hay Sư bà đã viên tịch vào ngày 23 tháng Tám năm Đinh Sửu (nhằm ngày 22 tháng 08 năm 1997). Hưởng thọ 93 tuổi, 65 năm ở chùa và được 53 hạ lạp. Tang lễ của Sư bà được tổ chức trọng thể và trang nghiêm.
Tỉnh Giáo hội Thừa Thiên đứng ra lo tang lễ. Chư Tăng Ni và Tín đồ khắp nơi về dự đám tang và tiễn đưa nhục thân của Sư bà nhập bảo tháp rất đông đúc Tháp của Sư bà được xây cất trên một đồi thông đẹp đối diện với Ni tự Hồng Ân, cách cánh đồng nhỏ. Ngọn đồi này là đất đai của thân tộc Hồ Đắc.
Khi người viết đang ở hải ngoại, Sư bà lên thượng thọ bát tuần, chúng tôi có đặt tặng Sư bà câu đối nhờ quý Ni sư Minh Đức, Minh Tú, Minh Nhựt, Minh Hằng ở chùa Đức Sơn và Hòa Lương nhờ người viết lại và đọc Sư bà nghe khi Đại chúng Ni giới chúc thọ Sư bà như sau :
*.- Diệu hữu chơn không vi thường diệu,
*.- Không đàm bí điển tổng giai Không.
Chú thích : (*) Khi Sư bà chưa Xuất gia, quy y với ngài Lương Duyên ở Từ Hiếu, nên Sư bà có chữ Trừng đồng hàng với tổ Giác Tiên. Khi phát tâm xuất gia là học trò của Tổ.
* * * * * * * *
Ni Trưởng Thích Nữ Diệu Không
Trong Phong Trào Đấu Tranh Phật Giáo Ở Miền Nam Năm 1963
ThS. Dương Hoàng Lộc
Trường Đại học KHXH&NV-ĐHQG TP.HCM
“Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp
Con xin lăn lóc cõi ta-bà”
(Thơ của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không)
Phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam năm 1963 là một sự kiện có ý nghĩa của lịch sử Việt Nam hiện đại. Lực lượng nòng cốt của phong trào này là các vị Tăng Ni, Phật tử với quyết tâm bảo vệ Phật pháp trước sự đàn áp và kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Một điều đặc biệt, phương pháp chủ đạo của phong trào là dùng bất bạo động để chống lại bạo tàn, được nhiều tầng lớp khác nhau của xã hội hưởng ứng và quốc tế ủng hộ. Trong phong trào này, Phật giáo miền Nam đã xuất hiện nhiều vị Tăng Ni, Phật tử không ngại hi sinh thân mình để bảo tồn đạo pháp như: Hòa thượng Thích Quảng Đức (Sài Gòn), Sư Thích Thanh Tuệ (Huế), Ni sư Diệu Quang (Khánh Hòa), Sư Thích Tiêu Diêu (Huế), Phật tử Mai Tuyết An (Sài Gòn), . . . Họ được xem là những ngọn lửa từ bi có khả năng thiêu đốt bạo lực và làm cho kẻ thù phải chùn bước, rúng động lòng người. Tiếp nối điều này, bài viết giới thiệu một nhân vật quan trọng trong phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam năm 1963 : Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không bậc chân tu nổi tiếng của thiền môn xứ Huế.
1. “Một Thời Hương Đạo Trong Thiên Môn”
Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không (1905-1997), tên thật là Hồ Thị Hạnh, sinh trưởng trong một gia đình quyền quí thời bấy giờ ở kinh đô Huế. Thân phụ của Ni trưởng là Khánh Mỹ công Hồ Đắc Trung (1861-1941) - một vị quan đại thần sống giản dị, thanh liêm, có tinh thần yêu nước. Các anh, chị, em trong gia đình được hấp thụ hai nền giáo dục cả Đông và Tây, một số người trở thành những tên tuổi lớn đóng góp cho cách mạng Việt Nam như : Hồ Đắc Di, Hồ Đắc Điềm, Hồ Đắc Liên . . . Bản thân Bà giỏi chữ Hán lẫn thông thạo tiếng Pháp. Ở Huế, khi chưa xuất gia, do có mối quan hệ rộng với nhiều giới chức chính quyền, nên Bà là thành viên tích cực của nhiều hoạt động yêu nước và từ thiện xã hội như ủng hộ cụ Phan Bội Châu khi bị Pháp giam lỏng ở Huế, tham gia thành lập Hội Nữ công để cải thiện đời sống cho phụ nữ và khuyến khích dùng hàng nội, khởi xướng ra đời Hội Lạc thiện giúp đỡ dân nghèo và gia đình các nạn nhân trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Năm 1929, vừa muốn trả hiếu vừa thương xót bầy trẻ thơ bơ vơ mất mẹ, Bà đồng ý lập gia đình với ông Cao Xuân Xang - con trai thứ của quan đại thần Cao Xuân Dục, nhưng chỉ trong vòng một năm sau (1930) thì ông mất. Rũ bỏ nghiệp duyên sớm, Bà tinh tấn học Phật.
Năm 1932, sau khi thu xếp ổn thỏa chuyện gia đình, Bà bước vào cửa thiền, xuất gia tại chùa Trúc Lâm (Huế) do Hòa thượng Giác Tiên (1879-1936) - một cao tăng của đất Thần kinh truyền thập giới làm Sa-di-ni với pháp tự Diệu Không, húy Trừng Hảo, đạo hiệu Nhất Điểm Thanh. Sư bà là một nhân vật có nhiều đóng góp cho Phật giáo Việt Nam khoảng nửa cuối thế kỷ XX. Ở Huế, Sài Gòn nói riêng và miền Nam nói chung, Sư bà Diệu Không còn nổi tiếng là vị Ni trưởng thông tuệ, tính cách mạnh mẽ, nhiệt tâm vì đạo pháp, lối sống giản dị, có đức độ và đạo hạnh thanh cao, nhất là luôn tôn trọng Bát kỉnh pháp, tận tình giúp đỡ người nghèo khó nên rất được nhiều người kính mến. Ngay sau khi xuất gia, Sư bà cùng Hòa thượng Giác Tiên lập An Nam Phật học Hội để chấn hưng, truyền bá Phật giáo. Ni trưởng còn có công xây dựng nhiều Ni viện : Diệu Đức (Huế), Hồng Ân (Huế), Kiều Đàm (Huế), Liên Trì (Huế), Bảo Thắng (Hội An), Bảo Quang (Đà Nẵng), Tĩnh Nghiêm (Quảng Ngãi), Diệu Quang (Nha Trang), Diệu Giác (Thành phố Sài Gòn) . . . và các Ni trường để đào tạo cho ni chúng như : Từ Nghiêm, Dược Sư, Diệu Tràng ở Thành phố Sài Gòn, Diệu Pháp ở Long Thành (Đồng Nai), . . . Ngoài ra, Trường Đại học Vạn Hạnh, Học viện Phật giáo tại Huế còn lưu lại nhiều đóng góp của Sư bà Diệu Không. Tuy bận bịu nhiều công việc Phật sự, với tấm lòng từ bi trước tình cảnh nhiều trẻ mồ côi giữa thời loạn lạc chiến tranh, Sư bà đã đứng ra thành lập nhiều cô nhi viện trên khắp các tỉnh miền Trung. Ngoài việc chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, ni trưởng còn dành thời gian phiên dịch nhiều bộ kinh từ tiếng Pali sang tiếng Việt rất có giá trị: Thành duy thức luận, Du già sư địa luận, Lăng già tâm ấn, Đại trí độ luận, . . . Sư bà còn để lại nhiều bài thơ có giá trị trong việc đề cao vai trò người phụ nữ, nhấn mạnh đạo lý Á Đông, cổ vũ tinh thần dân tộc cũng như sự vi diệu của Phật pháp. Đặc biệt, sau ngày giải phóng đất nước, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không đã có những đóng góp tích cực trong việc xây dựng Giáo hội Phật giáo Việt Nam, được tín nhiệm bầu làm ủy viên Hội đồng Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ủy viên Thường trực Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên - Huế.
Ngày 22 tháng 8 năm Đinh Sửu (1997), tại chùa Hồng Ân (Huế), Sư bà Diệu Không viên tịch trong sự thương tiếc của môn đồ pháp quyến cũng như Tăng Ni, Phật tử cả nước. Bảo tháp của Ni trưởng tọa lạc trên ngọn đồi thông mát rượi trong khuôn viên chùa này.
Hiện tại, ở thành phố Huế có con đường mang tên Thích Nữ Diệu Không như là sự ghi nhớ của thế hệ sau về những đóng góp cho đạo pháp và dân tộc của người nữ tu làm rạng danh miền sông Hương núi Ngự [1].
2. “Con Xin Lăn Lóc Cõi Ta Bà”
Lấy lý do không đồng tình với việc treo cờ nhân ngày Phật đản năm 1963 của Tăng Ni, Phật tử Huế, chính quyền Ngô Đình Diệm đã tiến hành triệt hạ cờ Phật giáo. Việc làm này gây bất bình cho phần lớn người dân ở Huế khi ấy. Ngày 7-5-1963, phái đoàn Phật giáo do hai vị cao tăng Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và Thích Giác Nhiên dẫn đầu đến tư dinh tỉnh trưởng để phản đối đã làm xúc động đồng bào Phật tử nơi đây. Tối ngày 8-5-1963, tại Đài Phát thanh Huế, binh lính dùng súng và lựu đạn tấn công đoàn người đến đòi giải trình việc không phát chương trình phát thanh của Phật giáo. Máu đã đổ và phong trào đấu tranh Phật giáo bắt đầu diễn ra và lan rộng cả miền Nam sau đó với nhiều hình thức như biểu tình, tuyệt thực, tự thiêu,….làm đau đầu chính quyền Ngô Đình Diệm. Đỉnh điểm của phong trào là sự kiện Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn vào ngày 11-6-1963 làm chấn động quốc tế. Lúc này, giới Phật giáo miền Nam tiếp tục đấu tranh, trí thức, sinh viên biểu tình phản đối liên tục, còn dư luận quốc tế thì lên án mạnh mẽ. Thế nhưng, vào ngày 20-8-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm tấn công một số chùa chiền quan trọng và bắt giữ các vị Tăng Ni lãnh đạo phong trào, Phật tử cùng một số sinh viên ở Huế và Sài Gòn. Không lâu sau đó, ngày 1-11-1963, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị tướng tá dưới quyền đảo chánh và cả hai bị bắn chết. Người bị giam được thả ra và phong trào kết thúc. Trong suốt giai đoạn pháp nạn này, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, với hạnh nguyện “Nguyện Phật chứng minh muôn vạn kiếp, con xin lăn lóc cõi ta-bà” không hề lay chuyển, đã gắn bó mật thiết với phong trào ở cả Huế và Sài Gòn tại những thời khắc lịch sử. Súng đạn, xe tăng, nhà tù và mưu mô của thế lực bạo tàn đã không ngăn nổi lòng quyết tâm của bậc chân tu vốn thấm nhuần tinh thần “vị pháp vong thân” trong lúc đạo pháp gặp hiểm nghèo, chông chênh và đồng bào đang rên siết dưới tội ác của chúng. Một số hoạt động tiêu biểu cũng như phong thái nổi bật của Sư bà Diệu Không được thể hiện như sau :
- Thứ nhất, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không là người đầu tiên xin tự thiêu để chống lại sự kì thị Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Trong quyển hồi kí của mình, Sư bà đã thuật lại như sau :
“Một hôm, tôi được mời về Từ Đàm họp. Thượng tọa Trí Quang nói :
- Miền Nam im lìm vậy, làm sao có đông Tăng Ni hưởng ứng ?
Thượng tọa Thiện Minh :
- Phải có người hi sinh mới xong.
Tôi nói :
- Hi sinh đây là chết phải không ?
Thượng tọa Trí Quang đáp là :
- Phải,
- Vậy tôi xin đứng đầu đội cảm tử cho.
Hòa thượng Thiền Tôn hỏi :
- Hòa thượng Mật Hiển đại diện cho Trúc Lâm có cho phép không ?
Hòa thượng Mật Hiển :
- Vị pháp hi sinh ai lại dám cản.
Thế là một bức thư viết cho miền Nam và một tờ phát nguyện được kí tên vào.” [2]
Sau sự kiện này, Sư bà Diệu Không cùng người chị ruột của mình - Sư bà Diệu Huệ bay vào Sài Gòn để chuẩn bị tự thiêu. Tại Sài Gòn, Tăng Ni, Phật tử đều tán thán, cảm phục hành động của hai vị nữ tu này. Khi đang nghỉ ngơi tại chùa Từ Nghiêm, Sư bà được mời về chùa Ấn Quang và Hòa thượng Thích Thiện Hoa - Phó Chủ tịch Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo báo tin Hòa thượng Thích Quảng Đức sẽ thay Sư bà Diệu Không tự thiêu. Nhưng Ni trưởng vẫn quyết tâm thực hiện mong muốn của mình [3]. Ngày 11-6/1963, tại ngã tư đường Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng Tháng 8), Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu. Nghe tin này, Bà không khỏi cảm động và viết một bài thơ Khóc Ngài Quảng Đức để bày tỏ tấm lòng của mình [4]. Qua việc xin tự thiêu cũng như quyết tâm của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không đã cho thấy niềm tin vững mạnh vào Phật pháp, đặc biệt là tinh thần vô ngã, chẳng màng đến thân thể. Phật giáo gọi đây là hạnh bố thí ba-la-mật của Bồ-tát. Trong 10 hạnh bố thí này có hạnh “Nhờ bố thí máu thịt, Bồ-tát được đầy đủ tất cả thân mạng bền vững, bảo hộ, nuôi dưỡng thiện căn chân thật cho tất cả chúng sinh” [5]. Còn theo Nhập Bồ tát hạnh của Đại sư Tịch Thiên (Shantideva), để gìn giữ tâm bồ-đề của một vị Bồ-tát thì cần phải: “Con đã đem thân này hoan hỷ bố thí cho chúng sinh, nên để họ tha hồ đánh chửi giết hại. Dù họ có đem thân con ra làm trò cười, xúc phạm, chê bai, con cũng coi như không. Đã thí xả thân này thì đâu còn gì để quí tiếc ?. Tất cả những việc làm vô hại mà lợi ích cho hữu tình, con đều sai khiến thân này làm hết. Nguyện cho ai trông thấy con đều được nhiều lợi lạc” [6]. Vì vậy, giữa lúc Phật giáo bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp, để bảo vệ Chánh pháp và trưởng dưỡng tín tâm của Tăng Ni, Phật tử thì cần có người phát đại nguyện của Bồ-tát hi sinh thân mình trong tinh thần từ bi, ôn hòa. Sư bà Diệu Không nói riêng và các vị Tăng Ni, Phật tử nói chung tình nguyện hoặc tham gia tự thiêu đã thể hiện rõ lí tưởng Bồ-tát đạo, nhập thế một cách tối đa chỉ vì đạo pháp, vì dân tộc như những dòng hồi kí mà Ni trưởng đã ghi: “Vì sống dưới chế độ bất công, thiên vị nên chúng tôi muốn cúng dường thân này để kêu gọi lẽ phải của loài người trở lại với lương tri, đừng dùng thế lực mạnh mà đàn áp kẻ yếu” [7]. Do đó, những sự kiện này là một biểu hiện rõ nét về tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam. Ngoài ra, đây là thể hiện được cái dũng của người học Phật, trong đó có Ni trưởng, trên con đường tiến tu giải thoát.
- Thứ hai, tham gia vào phong trào đấu tranh Phật giáo miền Nam năm 1963, cùng với nhiều vị Tăng Ni khác, Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không còn đứng bên cạnh và ủng hộ cho các hoạt động đấu tranh của Đoàn Sinh viên Phật tử của Đại học Huế. Theo Nguyễn Đắc Xuân, vào ngày 17/3/1963, tổ chức này được thành lập tại chùa Từ Đàm với 34 thành viên. Những người lãnh đạo gồm: Hoàng Văn Giàu, Võ Văn Thơ, Thái Thị Kim Lan, Phan Đình Bích. Vì thế, trong suốt năm 1963, phong trào đấu tranh của Phật giáo tại Huế, bên cạnh các vị Tăng Ni uyên thâm, đạo hạnh, còn có một lực lượng trẻ có học, nhiệt huyết, năng nổ tham gia tích cực [8]. Gắn bó với Đoàn Sinh viên Phật tử của Đại học Huế là các Hòa thượng : Thích Thiện Siêu, Thích Đôn Hậu, Thích Mật Hiển, . . . Các vị này đã định hướng các hoạt động của sinh viên theo phương pháp bất bạo động, tránh sự cố đáng tiếc xảy ra. Như một người mẹ, người chị, Sư bà Diệu Không gắn bó thường xuyên với họ để ủng hộ, tiếp tế, trợ lực về tinh thần trong lúc biểu tình, tuyệt thực gặp khó khăn và trở ngại. Thái Kim Lan nhớ lại : “Một lần trong thời pháp nạn, chúng tôi ngồi tuyệt thực giữa sân chùa trong cơn nóng rát lưng tháng 5 ở Huế. Nóng, khát làm tê dại châu thân. Lại thêm mặt trời buổi trưa chói lói đến phải nhắm nghiền mắt, hào hển thở, gục mặt trong nón lá, cơ hồ ngất lịm. Bỗng có ai sờ lưng với cái vuốt êm mát của một bàn tay thật dịu dàng, tôi nhìn lên, thấy một cái nón rộng vành hầu như che hết cả thân mình, sau dải nón màu lam, có một nét cười mỉm, rất hiền, một tay đưa cho tôi bát nước trong. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp, sau này mới biết vị sư ấy là Sư bà Diệu Không. Trước đó tôi chưa lên chùa thường xuyên nên chẳng biết rõ ai là ai. Chỉ biết từ lúc cái nhìn ngước lên, có hiện hữu “một người”, mà “một người ấy” xuất hiện vô cùng nhẹ nhàng, như một cái bóng phất phơ” [9]. Với tinh thần dũng cảm của mình, Ni trưởng đã trực tiếp ủng hộ, tiếp tục lăn xả với phong trào đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử tại Huế mà không chút do dự, sợ hãi trước xe tăng, súng ống, dùi cui, . . . Sư bà xuất hiện như nguồn động viên to lớn, an ủi họ bước tiếp và sẵn sàng chia sẻ khó khăn. Đó là hạnh từ bi của một bậc chân tu.
- Thứ ba, xuyên suốt phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm 1963, Sư bà Diệu Không lúc nào cũng thể hiện thái độ quyết liệt, mạnh mẽ với chính quyền Ngô Đình Diệm. Tiêu biểu nhất là việc Ni trưởng cùng Sư bà Diệu Huệ tổ chức họp báo từ bỏ Nguyễn Phúc Bửu Hội - con trai của Sư bà Diệu Huệ, đồng thời là người ủng hộ việc đàn áp Phật giáo của Ngô Đình Diệm. Ông Bửu Hội là nhà khoa học có uy tín quốc tế, từng tốt nghiệp tiến sĩ ở Pháp, được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Liên Hiệp Quốc thời đó. Trong lần tiếp xúc phái đoàn của Liên Hiệp Quốc tại chùa Từ Đàm Huế, Ni trưởng trả lời thẳng thắn :
“Hỏi :
- Nếu ông Bửu Hội đứng về phe ông Diệm. Các bà nghĩ sao ?
Đáp :
- Thì chúng tôi sẽ từ nó, không nhận nó là con, là cháu trong gia đình chúng tôi nữa vì gia đình chúng tôi là Phật tử cả”. [10]
Vốn có tính cách mạnh mẽ, nên Sư bà Diệu Không đã nói là làm. Theo lời kể lại của nhà sư Thích Thiện Châu thì : “Trong những ngày pháp nạn, Bà đã cải trang giấu mình lại làm bà Cao Xuân Xang cùng Sư bà Diệu Huệ vào Sài Gòn để mở cuộc họp báo “từ” ông Bửu Hội vì ông Bửu Hội theo ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu chống lại Phật giáo. Khi trở về Huế, Sư bà bị bắt. Tôi đánh giá chuyện Sư bà vào Sài Gòn họp báo trong những ngày tranh đấu của Phật giáo, và họp báo để “từ bỏ” giáo sư Bửu Hội là con của mình là một việc làm rất có ý nghĩa, lay động đến trái tim của bà mẹ Việt Nam lúc bấy giờ. Cho nên sự việc đó thấm sâu vào lòng các bà mệnh phụ phu nhân. Các bà vợ tướng tá lúc đó đều có cảm tình với Sư bà. Đó là một chuyện rất lớn làm đau đầu chính quyền bấy giờ, cũng như chuyện Ngài Thích Quảng Đức tự thiêu với quả tim bất diệt làm rung động trái tim thế giới” [11]. Cũng sự kiện này, về sau, Nguyễn Đắc Xuân được Sư bà Diệu Không kể lại một điều bí mật mà ở thời điểm đó ít ai được biết : “Về sau này, tôi hỏi Sư bà Diệu Không chuyện tháng 7 năm 1963 sinh viên không được biết là chuyện gì ? Sư bà bảo : “Đó là chuyện Bửu Hội lợi dụng vai trò đại sứ của chính quyền ông Diệm đã bí mật giúp đem ra thế giới hàng chục kí-lô hồ sơ của Phật giáo. Nhờ thế mà Liên Hiệp Quốc, Tích Lan, Hoa Kì biết rõ cuộc đàn áp Phật giáo của chính phủ ông Diệm”. Thật lòng, sau khi Sư bà cho biết như vậy tôi hơi ân hận. Vì đã có nhiều lần chúng tôi lên án Giáo sư Bửu Hội rất dữ dội” [12]. Một lần nữa, Sư bà Diệu Không đã thể hiện cái dũng của người tu với thế lực cầm quyền, nhưng đặc biệt ở lần này chính là người thân của mình.
- Thứ tư, trong phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm 1963, trước những tình thế hiểm nghèo, trực tiếp đối diện với thế lực của chính quyền Ngô Đình Diệm, Sư bà Diệu Không vẫn giữ được phong thái tự tại, bình thản nhưng rất linh hoạt và khôn khéo làm cho đối phương phải nể phục. Ngày 20-8-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bắt đầu cho cảnh sát tấn công các chùa chiền và bắt giữ Tăng Ni, Phật tử tại các chùa ở Huế (Từ Đàm, Diệu Đế, Linh Quang, . . .) và Sài Gòn (Xá Lợi, Ấn Quang, . . .), trong đó có những vị lãnh đạo phong trào. Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không kể lại tình hình của mình khi ấy :
“Tôi vẫn còn nhớ khi các cấp lãnh đạo ở chùa Từ Đàm Huế bị bắt, các vị ở chùa Xá Lợi bị đem giam, Thượng tọa Trí Quang được Đại sứ Mỹ cho tá túc. Tinh thần Phật tử sa sút. Chỉ còn mình tôi bị sót ở ngoài vì hôm ấy tôi bị đau không ra Từ Đàm được. Mấy ngày sau đó tụi lính đi lùng, tôi ngồi trì chú Đại bi ở trước bàn thờ Phật của chùa Hồng Ân. Một số trong bọn chúng biết mặt tôi, thấy tôi ngồi nhắm mắt chúng nói với nhau : “Chính bà ấy đó”, nhưng có người khác lại nói: “Anh ngu lắm, bà ấy đâu dám ngồi đó, phải đi tìm khắp các hang các hố, chắc bà ta trốn đó!”. Lúc bấy giờ, tôi chỉ còn cách nhờ Phật che chở bằng lối trì chú Mật tôn, mà thật đã năm ngày như vậy nó vẫn chưa bắt được tôi. Sau bọn chúng dọa các cô trong chùa bảo tìm cho ra bà ấy, nếu không thì giam các cô hết. Tôi phải nói với chúng hãy về chùa Diệu Đức vào ngày mai lúc chín giờ sáng sẽ gặp. Hôm sau, khi một chiếc xe Jeep và hai tên lính đến chùa, tôi bảo : “Anh hãy đọc bản án bắt tôi vì tội gì, tôi mới đi, nếu không hai anh đem súng dẫn tôi đi với một người nữa”. Chúng nó về trình lại. Ông Ngô Đình Cẩn nói :”Bà ấy lôi thôi, chắc lại muốn lấy bằng cớ gửi qua Liên hiệp quốc chứ gì”. Và cho người hẹn tôi vào chùa Thuyền Tôn gặp. Ông sẽ ghé đó nói chuyện. Nhân có Hòa thượng Thuyền Tôn, tôi nói : “Hành động của hai ông bà Ngô Đình Nhu làm cho dân bất phục quá rồi !”. Ông Cẩn hứa xin thả hết Tăng Ni, còn cấp lãnh đạo đã đem vào Sài Gòn hết rồi, trừ thầy Đôn Hậu còn nằm tại nhà thương” [13].
Lần này, không chỉ đối đầu với cảnh sát mà Sư bà còn trực tiếp tranh luận với Ngô Đình Cẩn - một nhân vật khét tiếng, ai cũng phải sợ ở miền Trung bấy giờ. Trong tình cảnh nguy hiểm như vậy, Ni trưởng vẫn giữ được bình tĩnh để đối mặt với tất cả và chúng đã không dám làm hại, thậm chí còn e dè kiêng nể. Có được như vậy chính là từ định lực của bậc chân tu, nhờ tín tâm vào sự hộ trì của Tam bảo. Theo Từ điển Phật học Huệ Quang, định là : “Tâm chuyên chú vào một đối tượng, đạt đến tác dụng tinh thần không tán loạn hoặc chỉ cho trạng trái vắng lặng của tâm thức. . . .” [14]. Trong lục độ - sáu bước tiến tu giải thoát của người học Phật, thiền định là bước thứ năm và ai đạt điều này sẽ tiếp tục đi đến bước cuối cùng là trí huệ. Sư bà Diệu Không, tâm vốn an nhiên tự tại, đã chọn nơi nguy hiểm nhất, dễ tìm ra nhất trở thành nơi an toàn nhất cho mình. Đó là trí tuệ của người ngộ đạo. Trong kinh Pháp Cú, đức Phật nói rõ : “Người nào thành tựu các giới hạnh, hằng ngày chẳng buông lung, an trụ trong chính trí và giải thoát, thì ác ma không thể dòm ngó được” [15]. Một lần nữa, trong cuộc đấu tranh của Tăng Ni, Phật tử Huế vào năm 1966, Sư bà Diệu Không đã thể hiện sự thông minh, bản lĩnh hiếm có để bảo vệ Sư cô Thích Nữ Trí Hải - một đệ tử xuất sắc của mình. Khi Nguyễn Ngọc Loan - Tổng Giám đốc Cảnh sát quốc gia của chính quyền Sài Gòn tuyên bố ra Huế y sẽ bắt hiếp Sư cô Trí Hải - người phiên dịch tiếng Anh của nhà sư Thích Trí Quang, trước mặt cho mọi người biết tay. Biết thế nên Sư bà Diệu Không đã gửi Sư cô Trí Hải vào nhà một người Phật tử bà con của Nguyễn Ngọc Loan, nên khi Nguyễn Ngọc Loan ra Huế không tìm được Sư cô Trí Hải để gây tội ác [16]. Cũng vì thế, nhà sử học Chương Thâu đã có nhận định sâu sắc về phong cách của Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không như sau: “Cái hay nhất trong cách sống của Diệu Không là bình dị, chất phác, chân thành mà thu được kết quả. Kẻ địch tàn bạo, Diệu Không không làm gì cả, chỉ xử sự một cách bình thường, vậy mà Ni sư vẫn thu được thắng lợi vẻ vang, vẫn hoàn thành được việc “cứu nhân độ thế”” [17].
3. “Hương Xưa Nay Vẫn Hãy Còn”
Trong quyển Hồi kí Đường thiền sen nở, Sư bà Diệu Không hồi tưởng lại phong trào đấu tranh của Phật giáo miền Nam năm 1963 : “Nhớ lại cuộc đấu tranh mà rùng mình, nào là lưỡi lê, dùi cui đập lên đầu người. Các vị Tăng, Ni bị ngã gục, nhịn đói, tù tội vẫn hi sinh không nao núng tiến bước đi lên” [18]. Trong cơn cuồng phong bão táp của chính quyền Ngô Đình Diệm gây ra khi ấy, Ni trưởng vẫn hiên ngang, không hề nao núng như thạch trụ tùng lâm vững chắc bảo vệ Phật pháp, sát cánh cùng Tăng Ni, Phật tử và đồng bào vượt qua nhiều chông gai, nguy hiểm. Làm được như vậy, phải chăng là nhờ Sư bà Diệu Không có được tài sản bi, trí, dũng của người học Phật ?
Như cánh chim nhạn bay giữa lưng trời chẳng mong để lại dấu vết, càng nói nhiều, càng ca ngợi về Sư bà Diệu Không là càng không hiểu và ngược lại với phẩm chất thanh cao, giản dị của một vị Ni trưởng vốn khiêm cung, giản dị. Nhưng, trong kinh Pháp Cú, đức Phật đã dạy rằng : “Hương của các loài hoa chiên đàn, đa già la hay mạt lị đều không thể bay ngược gió, chỉ có mùi hương đức hạnh của người chân chính, tuy ngược gió vẫn bay khắp muôn phương” [19].
* * * * * * * * * * *
Tài Liệu Tham Khảo :
1. Nguyễn Đắc Xuân, Từ Phú Xuân đến Huế (tự truyện-tập 2), Thành phố Sài Gòn, NXB.Trẻ, 2012.
2. Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), NXB. Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009.
3. Tịch Thiên (Shantideva), Nhập Bồ-tát hạnh (Thích Nữ Trí Hải dịch), Thành phố Sài Gòn, NXB.Tổng hợp Thành phố Sài Gòn, 1999.
4. Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên - Huế, Kỷ yếu tang lễ Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, NXB. Tôn giáo, Hà Nội, 1997.
5. Thích Minh Cảnh (chủ biên), Từ điển Phật học Huệ Quang (tập 1I), Thành phố Sài Gòn, NXB.Tổng hợp Thành phố Sài Gòn, 2003.
6. Thích Thiện Siêu (dịch), Lời Phật dạy (Kinh Pháp cú - Dhammapada), Hà Nội, NXB. Tôn giáo, 2000.
7. Các trang web : http://gactholoc.net//, http://www.lieuquanhue.vn/
___________________________________
[1]. Phần viết này được tổng hợp từ các tài liệu sau :
1.- Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), NXB. Lao động-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009.
2.- Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên-Huế, Kỷ yếu tang lễ Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, NXB. Tôn giáo, Hà Nội, 1997.
3.- Nguyễn Khắc Phê, Từ Quận chúa Hồ Thị Hạnh đến Sư bà Diệu Không, Báo Công An Nhân Dân, 25-10-2009.
[2]. Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), NXB. Lao động-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 97-98.
[3]. Trong quyển hồi kí của mình, Sư bà Diệu Không thuật lại như sau : “Không ngờ khi chư Tăng về đến Ấn Quang thì Hòa thượng Thiện Hoa cho gọi tôi và dạy rang : “- Bà không được chết, đã có ngài Quảng Đức đảm nhiệm”. Tôi bạch: “- Hiện ngài ở đâu ?” Khi lên phòng trên, tôi thấy ngài đắp y đang đi xuống. Tôi theo hầu phía sau và cho con xin được như nguyện. Ngài dạy: “- Chư Tăng đã định rồi, không cãi lại được”.Tôi thưa lần nữa, Ngài quở và dạy : “- Ni phải y Tăng, sao con lại cãi lại lời?”- Và dạy tiếp: “- Để Thầy thực hiện trước, khỏi nhục thể cho Tăng-già, chư Tăng đã định con phải sống để phụng sự Đạo. Con nên rõ năm phút tự thiêu tuy khó mà dễ, còn duy trì Phật giáo tương lai, ngàn năm mới khó làm. Con nên ráng sống cho Đạo, còn Thầy năm nay đã 72 tuổi rồi, hi sinh là phải hơn”. Nói xong thấy tôi khóc, Thầy bảo vào lạy Phật và cho con xuống để Thầy còn tụng kinh. Tôi lạy Phật xong, cúi lạy Thầy ba lạy và đi về”. Nguồn : Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi kí), NXB. Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 99.
[4]. Bài thơ như sau :
“Thầy ơi ! Con biết tính sau đây
Lễ kính lòng đau trước thánh thây
Lửa dậy lưng trời, thân chẳng động
Dầu loang khắp đất, ý không lay
Tiêu diêu cõi Tịnh, Thầy theo Phật
Lận đận trần lao con nhớ Thầy
Phật tử Việt Nam còn nhớ mãi
Nét son lịch sử vẫn không phai”.
Nguồn : Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), NXB. Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 105.
[5]. Thích Nguyên Chơn (chủ biên), Thiện ác nghiệp báo chư kinh yếu tập (tập 1), ý, NXB Phương Đông, 2009, trang 668.
[6]. Tịch Thiên (Shantideva), Nhập Bồ tát hạnh (Thích Nữ Trí Hải dịch), Thành phố Sài Gòn, NXB.Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, trang 41.
[7]. Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), NXB. Lao động-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 103.
[8]. Nguyễn Đắc Xuân, Từ Phú Xuân đến Huế (tự truyện-tập 2), Thành phố Sài Gòn, NXB.Trẻ, 2012, trang 17-18.
[9]. Thái Kim Lan, Xem bốn bức tranh Quán Thế Âm nhớ Sư bà Diệu Không.
[10]. Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), Nxb. Lao động-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 103.
[11]. Thích Thiện Châu, Sư Bà Diệu Không - niềm tin của Phật tử Huế. In trong: Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên-Huế, Kỷ yếu tang lễ Ni trưởng Thích Nữ Diệu Không, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 1997
[12]. Nguyễn Đắc Xuân, Sư bà Diệu Không - một kì nữ của cố đô Huế thế kỉ XX.
[13]. Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), NXB. Lao động-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 106-107.
[14]. Thích Minh Cảnh (chủ biên), Từ điển Phật học Huệ Quang (tập 1I), Thành phố Sài Gòn, NXB Thành phố Sài Gòn, 2003, trang 1522.
[15]. Thích Thiện Siêu (dịch), Lời Phật dạy (Kinh Pháp cú-Dhammapada), Hà Nội, NXB. Tôn giáo, 2000, trang 27.
[16]. Nguyễn Đắc Xuân, Từ Phú Xuân đến Huế (tự truyện-tập 2), TP.HCM, NXB.Trẻ, 2012, trang 292.
[17]. Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), NXB. Lao động-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 7.
[18]. Sư bà Thích Nữ Diệu Không, Đường thiền sen nở (hồi ký), NXB. Lao động-Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009, trang 105-106.
[19]. Thích Thiện Siêu (dịch), Lời Phật dạy (Kinh Pháp cú-Dhammapada), Hà Nội, NXB. Tôn giáo, 2000, trang 27.