Vu Lan Thắng Hội tại Từ Đàm

01 giờ30 chiều Chủ nhật, ngày 18 tháng 08 - 2024,

Xem tiếp...
<November 2024>
SunMonTueWedThuFriSat
272829303112
3456789
10111213141516
17181920212223
24252627282930
1234567
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Điểm Báo : Trùm Mật Vụ Dương Văn Hiếu Lên Tiếng của LÊ XUÂN NHUẬN . . .
Tác giả: Lê Xuân Nhuận

Điểm Báo :  Trùm Mật Vụ Dương Văn Hiếu Lên Tiếng của LÊ XUÂN NHUẬN

Về Ông DƯƠNG VĂN HIẾU

          Ông Lâm Lễ Trinh có phổ-biến bài tường-thuật buổi nói chuyện của ông ấy với Ông Dương Văn Hiếu, nguyên cựu “Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung dưới thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa” với nhan đề (ở VietNamExodus là) Dương Văn Hiếu Lên Tiếng, hoặc (ở groups.google là) “Trùm Mật Vụ Dương Văn Hiếu Lên Tiếng” hoặc (ở Bảo Vệ Cờ Vàng là) “Cuối cùng, Dương Văn Hiếu Lên Tiếng”.

          Nguồn : https://groups.google.com/forum/#!topic/70ab/CoVmu7Emz54

          Đọc qua bài ấy, ngoài nhiều chi-tiết lịch-sử quan-trọng, tôi thấy có một số điểm (theo thứ-tự trong bài-viết liên-hệ) cần được làm sáng-tỏ thêm :

          I.- Về Bằng Diplôme của Ông Dương Văn Hiếu

          I.1/ Nguyên-Văn :

          “Vừa lấy xong bằng diplôme d’Etudes primaires supérieures vào năm 1944-1945 thì Nhựt đảo chính Pháp.”

          I.2/  Ý-Kiến :

          Lấy xong bằng ấy vào năm 1944-1945, tức là (Ông Dương Văn Hiếu) đã học hết niên-khóa 1944-1945.  Mà một niên-khóa thì thường kết-thúc (cũng như kì thi tốt-nghiệp thì thường diễn ra) vào khoảng tháng 6 dương-lịch (trước khi nghỉ hè).

          Vừa lấy xong bằng… thì Nhật đảo chánh, nghĩa là (Ông Hiếu) thi đậu (và được lãnh bằng) trước ngày Nhật đảo chánh 9-3-1945.

          Nhưng :

          I.21) Hà-Nội có Trường Bưởi (tức Trường Chu Văn An) ; năm 1945, trường được đổi tên thành “Quốc lập Trung học hiệu Chu Văn An” dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim (tham-chiếu).

          I.22) Mà thủ-tướng chính-phủ Trần Trọng Kim của Đế Quốc Việt Nam dưới quyền Hoàng-Đế Bảo Đại thì được thành-lập vào ngày 17-4-1945 (tham-chiếu), trong đó Ông Phan Kế Toại là Khâm sai Bắc Bộ (tham-chiếu).  Nghĩa là Bắc-Bộ thuộc quyền chính-phủ Trần Trọng Kim, qua ông Khâm-Sai Phan Kế Toại, và do đó, Ông Phan Kế Toại thi-hành chính-sách chung là tổ-chức các cuộc thi tốt-nghiệp các cấp các trường khắp nơi cùng một ngày với nhau.

          I.23) Nhà-văn Hoàng Long Hải, trong bài “Thầy Cũ : ông Ngân” in trong cuốn sách hồi-kí “Xóm cũ” đã viết :  “Thời Chính phủ Trần Trọng Kim, giáo sư Hoàng Xuân Hãn làm bộ trưởng giáo dục, áp dụng chương trình mới, dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ. Vì vậy, năm đó [1945], Tú Tài 1 và Tú Tài 2 được thi chung một khóa” (tham-chiếu).

          I.24) Nhà biên-khảo Phạm Đình Lân, trong bài “Giáo dục qua các thời đại” đã viết :  “Ngày 9-3-1945 quân Nhật lật đổ chánh quyền thuộc địa của Pháp ở Đông Dương. Những học sinh từ 1930-1933 đậu tiểu học sau ngày nầy được xem là đậu bằng tiểu học của Nhật. Khi người Pháp tái chiếm Nam Kỳ (9-1945) bằng nầy bị chánh quyền thuộc địa Pháp phủ nhận. Những người đậu bằng tiểu học ‘Nhật’ phải thi lại bằng tiểu học” (tham-chiếu).  Thi lấy bằng gì (tiểu học hay trung học) cũng là sau ngày đảo chánh Nhật.

          Như thế :

          Việc thi lấy bằng (và được phát bằng) diplôme d’Etudes primaires supérieures của Ô. Dương Văn Hiếu, nếu là vào năm 1945 (cuối niên-khóa 1944-1945) thì phải xảy ra (nhiều ngày) sau ngày thành-lập chính-phủ Trần Trọng Kim 17-4-1945.

          Đằng này Ô. Hiếu nói là trước ngày đảo chánh Nhật 9-3-1945.  Nói như thế là có đúng Sự Thật hay không ?

          II.- Về các Chức-Vụ tại Tổng Nha Cảnh-Sát Công-An

          II.1/ Nguyên-Văn :

          “Sau vụ đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Quang Đán ngày 11.11.1960, tôi (Ông Hiếu) làm Phụ tá cho Tổng Giám đốc Công an Nguyễn Văn Y, còn ông Nguyễn Văn Hay thì giữ chức Phó Tổng giám đốc Công an”.

          II.2/ Ý-Kiến :

          II.21) Ai cũng biết là Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc thì nhỏ, ở dưới cấp Phó Tổng-Giám-Đốc.  Nhưng Sự Thật là Ông Nguyễn Văn Hay chỉ là Chánh Văn-Phòng (Tổng-Nha Caa3nh Sát Công An thời đó không có Phó Tổng-Giám-Đốc).  Ông Hiếu nâng Ông Hay lên hàng Phó Tổng-Giám-Đốc, còn mình thì chỉ là Phụ-Tá cho Tổng Giám-Đốc (mà không nói là phụ-tá về phần-hành gì), ý nói như thế là để tự hạ/giảm tầm quan-trọng/trách-nhiệm của mình trước công-luận, đồng-thời đổ bớt tội/lỗi phần lớn qua cho Ông Hay, vì Ông Hay lớn chức hơn nên lỗi/tội nhiều hơn?

          II.22) Chánh Văn-Phòng Nguyễn Văn Hay có thể có một số quyền-hạn đối với các Khối về mặt hành-chánh nội-bộ cơ-quan, nhất là ở phía nổi, chứ ở phía chìm thì Ông Hay không có quyền quyết-định về mặt chuyên-môn. Về mặt chuyên-môn ở phía chìm thì người đứng đầu là Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc Cảnh Sát Công An đặc-trách Cảnh-Sát Đặc-Biệt, tức Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt.  Trưởng Khối Cảnh Sát Đặc Biệt, về mặt chuyên-môn, thì bên trong trực-tiếp làm việc với Tổng-Giám-Đốc (không qua Chánh Văn-Phòng), có khi đi thẳng lên Tổng-Thống (chính Ông Hiếu đã có nhiều lần vào Dinh báo-cáo tình-hình lên Tổng Thống Diệm), đồng-thời trực-tiếp lãnh-đạo và chỉ-huy các cấp Cảnh Sát Đặc Biệt từ Vùng, Thủ-Đô, xuống các Tỉnh, Thị, Quận khắp nước Việt-Nam Cộng-Hòa, đúng ra là một cánh tay đắc-lực của chính-quyền, một bộ mặt phản-ánh của chính-sách nội-trị, một biểu-hiệu sự tồn/vong của chế-độ; bên ngoài thì lãnh/chịu trách-nhiệm trước công-luận (góc nhìn tiêu-cực) về các vụ đàn-áp, bắt-bớ, giam-cầm, ngược-đãi, tù-đày, thủ-tiêu, v.v…

          Mà kể từ sau cuộc đảo-chánh hụt 11-11-1960 cho đến Ngày Cách-Mạng 1-11-1963 thì chính Ông Dương Văn Hiếu nầy là vị Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc Cảnh Sát Công An đặc-trách Cảnh-Sát Đặc-Biệt ấy vậy.

          III.- Về vụ Tảo Thanh các Chùa Phật ở Sàigòn

          III.1/ Nguyên-Văn :

          “Trong vụ tảo thanh các chùa Phật ở Sàigòn, chính Cảnh Sát Đô thành của Giám đốc Trần Văn Tư đã bắt các sư sãi. Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đâu có nhân viên để làm chuyện đó.”

          III.2/ Ý-Kiến :

          III.21) Câu này có ngụ nghĩa :

(a) tảo-thanh các chùa Phật ở Sài-Gòn mà thôi,

(b) Cảnh-Sát Đô-Thành (chứ không phải Lực-Lượng Đặc-Biệt),

(c) Giám-Đốc Trần Văn Tư trực-tiếp chỉ-huy và chịu trách-nhiệm, và

(d) Ông Dương Văn Hiếu, với tư-cách Trưởng Đoàn Công-Tác Đặc-Biệt Miền Trung, không dính-dáng đến vụ này.

          III.22a) Theo Wikipedia thì ngày 20-8-1963, chính phủ huy động cảnh sát và lực lượng đặc biệt đồng loạt tấn công các chùa trung tâm Sài Gòn và Huế là các chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Từ Đàm, Diệu Đế, Linh Quang cùng các chùa lớn làm căn cứ cho cuộc tranh đấu của Phật giáo trên cả nước, bắn nát mặt tượng Phật, bắt giam 1,400 nhà sư cùng các lãnh đạo Tổng hội Phật giáo Việt Nam và Ủy ban Liên phái, dùng dây thép gai vây quanh các chùa không cho Phật tử ra vào (tham-chiếu).  Tức là tấn-công các chùa lớn khắp nước chứ không phải chỉ ở Sài-Gòn.

          III.22b) Cảnh-Sát Đô-Thành mà tham-gia vụ này là Cảnh-Sát Chiến-Đấu (hồi đó chưa có Cảnh-Sát Dã-Chiến), nhưng mà Cảnh Sát Chiến Đấu chỉ là bộ-phận dân-sự bán-vũ-trang, trong lúc Lực-Lượng Đặc-Biệt là đơn-vị tác-chiến có vai trò của một Binh chủng cơ-động tinh nhuệ, gồm 2 Liên-Đoàn Biệt-Kích 77 và 31, có quy mô tương-đương cấp Lữ-Đoàn, là lực-lượng bảo-vệ Phủ Tổng-Thống chống lại các cuộc đảo-chính, do Đại-Tá Lê Quang Tung chỉ-huy, trên thực-tế thuộc quyền điều-động của Tổng-Thống Ngô Đình Diệm (và Cố-Vấn Ngô Đình Nhu), qua Phòng Liên-Lạc tại Phủ Tổng-Thống―mà Sở Liên-Lạc là Bộ Chỉ-Huy của Lực Lượng Đặc Biệt― (tham-chiếu), vả lại tấn-công các chùa trong đêm Tổng Thống Diệm đã ban-hành lệnh thiết-quân-luật thì Cảnh-Sát không thể một mình hành-động được.  Tức là Lực-Lượng Đặc-Biệt phải được kể, và kể trước tiên, (sau nửa thế-kỉ) ai nấy đều biết, không lẽ Ông Dương Văn Hiếu không biết nên không đề-cập đến ?

          III.22c) Như đã nói trên, Lực-Lượng Đặc-Biệt được xem là một đơn-vị tinh-nhuệ và tuyệt-đối trung-thành với Tổng-Thống Ngô Đình Diệm, nên trong Biến-Cố Phật-Giáo 1963, Lực Lượng Đặc Biệt được Cố-Vấn Ngô Đình Nhu sử-dụng như Lực-Lượng Xung-Kích tấn-công các chùa, đặc-biệt là chùa Xá-Lợi. Theo The Pentagon Papers (hồ-sơ Bộ Quốc-Phòng Hoa-Kì), Volume 3, Chapter 4 “The Overthrow of Ngo Dinh Diem, May-November, 1963”, pp. 201-, thì: “Trong khi các tướng lãnh không hề biết gì hết, [Ngô Đình] Nhu đã có LLĐB của Đại-Tá Lê Quang Tung và Cảnh-Sát [Chiến-Đấu] trực sẵn. Ngay khi có lệnh thiết quân-luật, Nhu ra lệnh xuất trận . . .”  Vậy mà Ông Dương Văn Hiếu, người đã có đọc “một số sử liệu sau 1975” mà lại không biết (?) về vai trò của Lực Lượng Đặc Biệt, nhất là của Cố-Vấn Ngô Đình Nhu trong vụ này, nên chỉ đổ tội/lỗi cho Ông Trần Văn Tư, giám-đốc Cảnh-Sát Đô-Thành.

          III.22d) Và điều quan-trọng nhất là Ông Hiếu đã ngây-thơ trả lời Ông Lâm Lễ Trinh rằng “Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đâu có nhân viên để làm chuyện đó”. Câu trả lời ấy thật là tuyệt-vời, vì nó đúng là sự thật, và nó khiến người phỏng-vấn cụt hứng, không khai-thác thêm, vì bị nó đánh lạc hướng.  Ông Dương Văn Hiếu đã rời khỏi Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung từ tháng 10 năm 1960, mà vụ tấn-công các chùa Phật-Giáo thì xảy ra vào đêm 20-8-1963, thì làm sao mà quy trách cho Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của . . . người khác được?  Huống nữa, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung, từ sau 1960 đã do người khác chỉ-huy, thì đã lùi vào bóng tối.  Mà tầm quan-trọng hàng đầu trước mắt là chuyện nội-tình Phật-Giáo “tranh-đấu”, ngõ-ngách bên trong các chùa, làm sao lén nhét tài-liệu Việt Cộng và cả vũ-khí vào chùa, giờ nào thì các nhà-sư cầm đầu phong-trào đối-kháng tập-trung đông-đủ, để “ta” xông vào tóm gọn―mới là cần-thiết cho cuộc tảo-thanh.  Và dù báo-cáo của Nha Cảnh-Sát Đô-Thành có tốt gấp mấy, cũng cần có Khối Cảnh-Sát Đặc-Biệt ở cấp Trung-Ương phối-kiểm, bổ-túc, xong mới dám trình lên Tổng-Thống Diệm và Cố-Vấn Nhu.  Và người mà Tổng Thống Diệm thường đích-thân gọi vào hỏi tình-hình, và làm việc gần Cố-Vấn Nhu hơn các giới-chức khác, tất-nhiên không thể không dính-dáng gì đến chiến-dịch tổng-tấn-công các chùa trong đêm 20-8-1963.  Nhân-vật ấy là đương-kim Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc Cảnh Sát Công An đặc-trách Cảnh-Sát Đặc-Biệt:  Dương Văn Hiếu. Song Ông Lâm Lễ Trinh không hỏi đương-nhân với tư-cách này, mà lại hỏi về Đoàn Công-Tác Đặc-Biệt Miền Trung mà đương-nhân không còn phụ-trách.  Cho nên Ông Hiếu trả lời rất hay, rất đúng, là Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đâu có nhân-viên để làm chuyện đó !

          IV.- Về Dinh Độc-Lập

          IV.1/ Nguyên-Văn :

          “Lâm Lễ Trinh : Khi xảy ra những biến động Phật giáo tại Huế năm 1963 thì ông ở đâu ? Có trách vụ gì ? . . .

          “Dương Văn Hiếu : Lúc đó tôi công tác ở Sàigòn . . . Tôi nhớ :  Một hôm tôi vào trình việc trong Dinh (Độc Lập), Tổng thống than phiền rằng . . .”

          IV.2/ Ý-Kiến :

          IV.21) Dinh Độc-Lập đã bị Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc ném bom gây hư-hại vào ngày 27-2-1962, Tổng-Thống Ngô Đình Diệm phải dời đến Dinh Gia-Long (cho đến ngày 31-10-1966 Dinh Độc-Lập mới mới được khánh-thành).  Thế thì trong năm 1963 đâu có Dinh Độc-Lập mà Ông Dương Văn Hiếu vào trình việc trong đó?

          Đây là một chi-tiết lịch-sử, mà Ông Hiếu không nhớ.

          IV.22) Ngoài Ông Hiếu, đã có Ông Lê Châu Lộc, cựu tùy-viên của Tổng Thống Diệm sau này cho biết, chính ông là người đến nhận cành đào tại trụ sở Ủy Hội Quốc Tế (vào đầu năm 1963) để về trưng bày tại Dinh Độc Lập (tham-chiếu)”.

          V.- Về các Nhà Chức-Trách An-Ninh sau 1963

          V.1/ Nguyên-Văn :

          “Lâm Lễ Trinh : Trong trường hợp nào ông và các nhân vật chế độ cũ được tự do ?

          “Dương Văn Hiếu : Không nhớ rõ ngày tháng nào năm 1964, một buổi sáng, Chính phủ cho ba chiếc máy baay Dakota DC3 ra Côn Sơn chở tất cả tội nhân (lối 30, 40 người) về Sàigòn và chúng tôi được phóng thích. Một thời gian ngắn sau, tôi được giấy đòi của Công an, trung tá Nguyễn Mậu dẫn tôi đến trình diện với Tổng giám đốc Nguyễn Văn Hai. Tướng Hai đưa tôi bằng xe jeep đến Bộ Nội vụ trình diện với tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Khiêm tiếp tôi nhã nhặn . . .” .

          V.2/ Ý-Kiến :

          V.2a) Đoạn trả lời trên cho thấy: một thời-gian ngắn sau ngày Ông Hiếu được thả trong năm 1964, thì các giới-chức an-ninh phản-gián của Đệ-Nhị Việt-Nam Cộng-Hòa gồm có: Trưởng Khối Cảnh-Sát Đặc-Biệt là Trung-Tá Nguyễn Mậu, Tổng-Giám-Đốc Cảnh-Sát Quốc-Gia là Tướng Nguyễn Văn Hai, và Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ là Tướng Trần Thiện Khiêm.

          V.2b) Đọc đến ngang đây thì tôi phải tự véo vào đùi mình xem có đau không.  Thấy đau tức là tôi đã đọc đúng những gì TS. Lâm Lễ Trinh viết lại các câu trả lời của Ông Dương Văn Hiếu.

          V.2ba- Tôi mở Wikipedia thì đọc thấy :

          “Sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963, Dương Văn Hiếu bị bắt, điều tra, và bị kết án khổ sai chung thân đày ra Côn đảo. Đến năm 1964, một năm sau, thì Dương Văn Hiếu được phóng thích . . . (tham-chiếu)”.  Tức là cả hai nguồn tin (cuộc phỏng-vấn và bách-khoa toàn-thư mở) đều phù-hợp nhau.

          Thế nhưng :

          V.2bb- Không có viên-chức nào cầm đầu Công-An (Cảnh-Sát Đặc-Biệt) tại Tổng-Nha Cảnh Sát Quốc Gia mà tên là Nguyễn Mậu, và là trung-tá (hoặc cao hơn hay thấp hơn), từ sau chính-biến 1-11-1963 đến 30-4-1975.

          V.2bc- Không có Tổng-Giám-Đốc Cảnh Sát Công An nào là tướng Nguyễn Văn Hai trong thời-gian trên.

          V.2bd- Nếu Ông Dương Văn Hiếu nhớ lầm tên người, thì trong thực-tế, có thể đó là Trung-Tá Nguyễn Mâu, Phụ-Tá Tổng-Giám-Đốc Cảnh-Sát Quốc-Gia đặc-trách Cảnh-Sát Đặc-Biệt, và Chuẩn-Tướng Trần Văn Hai, Tổng-Giám-Đốc Cảnh-Sát Quốc-Gia.  Tuy nhiên, Trung-Tá Nguyễn Mâu thì đảm-nhiệm chức-vụ ấy trong thời-gian 1968-1972; và Đại-Tá Trần Văn Hai cũng qua Cảnh-Sát trong thời-gian 1968-1972, mà thăng Chuẩn-Tướng vào tháng 7-1970.  Ông Hiếu nói rằng “Bộ-Trưởng Bộ Nội-Vụ là Tướng Trần Thiện Khiêm”, mà Đại-Tướng Khiêm thì làm Tổng-Trưởng Bộ Nội-Vụ từ tháng 5 cho đến cuối năm 1968 thì lên làm Phó Thủ-Tướng.  Đối-chiếu thời-điểm mà cả ba vị kể trên đều cùng tại-chức trong lần tiếp đón Ông Dương Văn Hiếu với nhau thì thấy phần nào có thể là năm 1968 (mặc dù năm này Tổng-Giám-Đốc Cảnh Sát Quốc Gia Trần Văn Hai chưa lên cấp tướng―Cứ tạm cho đi là Ông Hiếu nhớ lầm cấp-bậc của Ông Hai ? !)

          V.2be- Sơ-kết mục này: hoặc là Ông Dương Văn Hiếu được tha vào năm 1968 (chứ không phải là năm 1964) ; hoặc là Ông Hiếu đã dùng cả cuộc phỏng-vấn của Ông Lâm Lễ Trinh lẫn từ-điển bách-khoa mở Wikipedia để đánh lừa mọi người ―do nguyên-nhân nào ? ―với mục-đích gì ?

          V.2bf- Chưa hết !  Tôi mở “Hai Mươi Năm Qua” Việc từng ngày (1945-1964) của Đoàn Thêm (Xuân Thu xuất-bản), thì thấy ở trang 395 :

          “23-6-1964. ―Tòa án Cách-mạng tại Saigon, xử Dương Văn Hiếu, nguyên Phụ-tá Tổng-giám-đốc Cảnh-sát, cùng các cộng-sự Nguyễn-thiện-Dzai, Nguyễn-tư-Thái, Phan-Khanh . . .

          “25-6-1964. ―Trong vụ Dương-văn-Hiếu, Tòa án Cách-Mạng tuyên 1 án khổ-sai hữu-hạn và 3 án khổ-sai chung-thân (được hoán giảm thành khổ-sai 5 năm do một Sắc-lịnh ngày 31-10-1966).”

          Giá-trị lịch-sử của tác-phẩm Hai Mươi Năm Qua của Đoàn Thêm thì khó ai phản-bác.

          Thế này là thế nào ? !

          VI.- Về vụ Họ Ngô Liên-Lạc với Họ Hồ

          VI.1/ Nguyên-Văn :

          “Lâm Lễ Trinh : Ông nghĩ sao về tin ông Nhu . . . gặp Xứ ủy Miền Nam, Ủy viên Bộ chính tri Bắc Việt Phạm Hùng . . .

          “Dương Văn Hiếu : Cá nhân tôi nghĩ chỉ đó là tin đồn. Một người quốc gia quyết liệt như Tổng thống Diệm không thể bắt tay với Cộng sản bất luận dưới hình thức nào vì Hiến pháp Việt Nam công khai phủ nhận Xã hội Chủ nghĩa . . .” .

          VI.2/ Ý-Kiến :

          VI.2a) Trong bài-viết “Chính Đề Việt Nam”, Ông Tôn Thất Thiện đã viết như sau :

          “Nay, chỉ còn tôi (Tôn Thất Thiện) là người nhân chứng duy nhứt . . . Tôi làm nhân chứng những điều sau đây do chính ông Nhu đã tiết lộ trong một cuộc họp báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9, năm 1963. Tôi là thông dịch viên trong buổi họp báo đó, và tôi đã nghe và thông dịch hai điều sau đây : ông (Ngô Đình Nhu) đã tiếp Trần Độ ngay ‘trong phòng này’, văn phòng của ông (Nhu), nơi mà ông đang tiếp các ký giả (ngoại quốc), Trần Độ có hỏi ông (Ngô Đình Nhu), vân vân . . . (tham-chiếu)” .

          Nguồn :

https://hon-Viet.co.uk/TonThatThien_MotVienNgocQuyTrongKhoTang%20TuTuong.htm

          VI.2b) Trong cuộc phỏng-vấn có ghi-âm và ghi-hình của Ông Lâm Lễ Trinh với Ông Cao Xuân Vỹ, Ông Cao Xuân Vỹ đã xác-nhận là Cố-Vấn Ngô Đình Nhu đã đi tiếp-xúc bí-mật với đại-diện Cộng-Sản tại rừng Tánh Linh.  Mời xem youtube dưới nhan đề “Mạn Đàm Lịch Sử với Cụ Cao Xuân Vỹ” :

          https://www.youtube.com/watch?v=ccx8Z_Ee794

          Ông Dương Văn Hiếu có thể cãi lại lời chứng của ít nhất là hai nhân-vật cận-thần của Nhà Ngô là Tôn Thất Thiện và Cao Xuân Vỹ nêu trên ?

          VII.- Về Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa

          VII.1/ Nguyên-Văn :

          “Vợ ông Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và bà Thiếu tướng Nguyễn Văn Là (tiền nhiệm ông [Nguyễn Văn] Y tại Công An) đều không thích bà [Trần Kim] Tuyến vì tranh dành địa vị bên cạnh bà [Ngô Đình] Nhu nên ảnh hưởng đến các ông chồng . . .

          (Nha sĩ dỏm và Play boy) Phan Ngọc Các, đại diện Cần Lao cho ông N Đ Cẩn tại Miền Nam . . . Cố vấn Nhu ra lệnh cho Lê Quang Tung bắt vì Các làm tiền thương gia Hoa kiều Chợ Lớn, Các tuyển nạp đảng viên Cần Lao lung tung . . .

          “Tôi biết Phạm Ngọc Thảo được Đức cha [Ngô Đình] Thục giới thiệu vào Bảo an và Thảo có liên hệ chính trị với bác sĩ [Trần Kim] Tuyến trong những năm tháng chót trước cuộc binh biến 1.11.1963 . . . Tôi có dịp thưa với Tổng thống nên lưu ý đến Thảo vì Thảo có bà con làm việc cho Bắc Việt trong chức vụ hệ trọng, Tổng thống có vẻ suy tư và nói: tại sao không khai thác kinh nghiệm của Thảo trong lãnh vực ấp chiến lược và khu trù mật ? . . .

          “Tổng giám mục Ngô Đình Thục hành động nóng nảy, Cố vấn [Ngô Đình] Cẩn bị bó tay . . .

          “âm Lễ Trinh : Một số nhân vật đối kháng như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp và Vũ Tam Anh bị Đệ nhứt Cộng hòa thủ tiêu. Ông có thể cho biết cơ quan nào chịu trách nhiệm ? Do lệnh của ai ?  Dương Văn Hiếu : Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung không liên hệ . . . Sau 1975, một số sử liệu cho biết chính thẩm sát viên Khưu Văn Hai và đồng bọn trong Ban Cảnh sát Đặc biệt thuộc Tổng Nha Công An của đại tá [Nguyễn Văn] Y đã giết Nguyễn Bảo Toàn và Trương Công Diệp. Về Vũ Tam Anh, có thể là do tổ chức của Lê Quang Tung . . .

          “Tôi nhớ có lần tôi phúc trình với Tổng thống tin đồn về Huê kiều Chợ Lớn mua licenses tại Bộ Kinh tế, Cụ nghe, trầm ngâm, không nói gì. Qua ông [Nguyễn Đình] Thuần, CIA nắm hết tin tức nội tình Chính phủ . . .

          “Lâm Lễ Trinh : Nhìn lui lại, ông nghĩ rằng thời Đệ nhứt Cộng hòa, đảng Cần Lao có thực lực trong quần chúng hay không ? Việc đem tổ chức Cần Lao vào Quân đội có lợi hay hại ? Ông Nhu và ông Cẩn có hoàn toàn đồng ý với nhau về cách tổ chức và lãnh đạo đảng Cần Lao hay không ? 

Dương Văn Hiếu : Về mặt lý thuyết, Cần Lao dựa vào chủ nghĩa Nhân vị được ông cố vấn Ngô Đình Nhu nghiên cứu kỹ. Đảng Cần Lao, tiếc thay, thiếu một chính sách tuyển lựa, huấn luyện và xử dụng cán bộ hữu hiệu. Ngoài ra, còn vấn đề kỷ luật. Đa số đảng viên được chọn trong thành phần công chức có quyền và địa vị. Đảng không đi sâu vào đại chúng ở thành thị, đặc biệt ở nông thôn. Các khóa tu nghiệp về chủ thuyết Nhân vị do Đức cha Ngô Đình Thục tổ chức tại Vĩnh Long không đào sâu và giải quyết vấn đề . . . Trong nội bộ Cần Lao cũng có nhiều nhóm: nhóm Bắc, nhóm Trung (của ông Cẩn), nhóm Trần Quốc Bủu (Tổng Liên Đoàn Lao Động), nhóm Tinh Thần (Nguyễn Tăng Nguyên), nhóm Nam bộ (Huỳnh Văn Lang), nhóm Hà Đức Minh–Trần Văn Trai. Không thống nhứt . . . Cần Lao không có Ban Chấp hành Trung ương. Chỉ có Văn phòng Tổng Bí Thư (ông Nhu) . . . Tôi không nghĩ đem Cần Lao vào Quân đội hoàn toàn có lợi . . .

          “Trong giai đoạn chót, Tổng thống, Đức Cha và hai ông Nhu, Cẩn không đồng nhứt tư tưởng, đặc biệt trong vụ khủng hoảng Phật giáo. Tổng Giám mục Thục xen vào việc treo cờ càng làm tình hình thêm rối ren . . . (tham-chiếu)”.

          VII.2/ Ý-Kiến :

          VII.2a) Trong việc xử tội, đã có án-lệ là ai “thành-khẩn khai-báo” thì mức hình phạt đều được giảm-khinh.

          Theo tôi thì với rất nhiều thành-quả chống-Cộng xuất-sắc của Ông Dương Văn Hiếu (cùng với thái-độ, nhận-xét thẳng-thắn của ông về Đệ-Nhất Việt-Nam Cộng-Hòa), Ông Hiếu xứng-đáng được trả tự-do sớm (như đã kể trên, ông chỉ phải ở Côn-Sơn trong khoảng một năm).

          VII.2b) Vừa rồi, nhà-văn/kí-giả Douglas Valentine của Mĩ trong cuộc phỏng-vấn Lê Xuân Nhuận, về Ngành Đặc-Biệt Việt Nam Cộng Hòa (đăng trên “Washington Babylon” và “Dissident Voice”), có hỏi về Ông Dương Văn Hiếu, và Ô. Nhuận đã trả lời : “Hiếu was a very good Special Police Officer” (tham-chiếu).

          Lê Xuân Nhuận 

* * * * *

Cuối cùng ông Dương Văn Hiếu lên tiếng

Lâm Lễ Trinh

          Sự tịnh khẩu từ 1963 cho đến nay của ông Dương Văn Hiếu, nguyên Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung thời Đệ nhứt Cộng hòa Việt Nam, là một cuộc hành trình xuyên sa mạc dài trên bốn thập niên. Tác giả bài này đã liên lạc lại được với ông Hiếu hiện định cư tại San Jose, Californie. “Con người biết quá nhiều, L’homme qui en savait trop” và từng bị gán biệt danh “Hùm Xám của Chế độ” đã chấp nhận trả lời nhiều câu hỏi của chúng tôi liên hệ đến một giai đoạn chính trị cực kỳ sôi động trong cuộc chiến tranh tình báo chống Bắc Việt từ 1954 cho đến tháng 11.1963. Sau vụ đảo chính lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông Hiếu bị Hội đồng Quân Dân Cách mạng điều tra, đưa ra Côn đảo với một số nhân vật khác  của Chính phủ củ và được trả tự do năm 1964.

          Đêm 28.4.1975, ông rời Việt Nam với đứa con trai đầu lòng trên một chiếc tàu Hải quân Việt Nam cùng với Trung tướng Nguyễn Văn Là, cựu Tổng Giám đốc Công An. Năm 1989, gia đình gồm có vợ và tám người con sau qua đoàn tụ với ông tại Hoa kỳ.

          Ông Dương Văn Hiếu nay 81 tuổi, sức khoẻ không dồi dào như trước nhưng trí nhớ còn sắc bén khi nhắc đến ký ức xa xưa. Ông giới hạn hoàn toàn sự giao thiệp bên ngoài về mặt chính trị và đã từ chối mọi đề nghị phỏng vấn của báo chí. Sau đây là những điểm chính có thể tiết lộ trong cuộc nói chuyên có ghi âm giữa ông Dương Văn Hiếu (DVH) và tác giả (LLT) :

          Lâm Lễ Trinh : Xin ông vui lòng cho biết sơ lược, nếu được, những năm niên thiếu của ông và trường hợp nào ông tham gia ngành công an và được bổ nhiệm vào chức vụ Trưởng đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐMT). Chức vụ chót của ông trước cuộc đảo chính 1.11.1963 là gì ?

          Dương Văn Hiếu : Tôi sanh ra tại Hà Nam, Bắc Việt, trong một gia đình trung lưu làm ăn thành công. Tôi học tại trường trung học Louis Pasteur và Thăng Long, Hà Nội. Vừa lấy xong bằng diplôme d’Etudes primaires supérieures  vào năm 1944-1945 thì Nhựt đảo chính Pháp. Tôi lập gia đình năm 1948, bố vợ tôi là bác sĩ Nguyễn Văn Tam từng phục vụ trong Liên khu 5 và cộng tác với Đức cha Lê Hữu Từ ở Phát Diệm. Sau Hiệp định Genève năm 1954, tôi được cụ Võ Như Nguyện, Giám đốc Công an Trung Phần, để ý trong một buổi học tập chính trị mà tôi là thuyết trình viên (về đề tài Điện Biên Phủ). Ông tuyển tôi vào ngành công an. Giữa 1957, tôi giữ chức Trưởng ban Khai thác Nha Ccông An Cảnh Sát Trung nguyên Trung phần. Khi ông Nguyễn Chử, một lãnh tụ Quốc Dân Đảng, thay thế cụ Nguyện, tôi trở thành Trưởng ty Công an Tỉnh Thừa Thiên và Đô thị Huế. Nhờ phá vở được trong vòng hai năm hệ thống điệp báo Cộng sản Khu 5 và mở rộng hoạt động ra đến các tỉnh Quảng trị, Quảng Ngải, Bình Thuận, Qui Nhơn..v..v.., tôi được ông Tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Đình Cẩn và Đại biểu Chính phủ Miền Trung Hồ Đắc Khương giới thiệu nhiệt tình với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Giữa 1957, tôi được bổ nhiệm Trưởng Đoàn Công tác Đặc biệt Miền Trung (ĐCTĐBMT) để làm việc tại Sàigòn vào đầu năm 1958. Chủ đích của Đoàn là thi hành chính sách của Cố vấn Ngô Đình Cẩn mệnh danh «Chiêu mời (sau đổi thành Cải tạo) và Xử dụng các cán bộ cựu kháng chiến». Lúc đó tôi đã gia nhập đảng Cần Lao.

         Sau vụ đảo chính hụt của Nguyễn Chánh Thi, Vương Văn Đông và Phan Quang Đán  ngày 11.11.1960, tôi làm Phụ tá cho Tổng Giám đốc Công an Nguyễn Văn Y, còn ông Nguyễn Văn Hay thì  giữ chức Phó Tổng giám đốc Công an.(Vợ ông Hay là một người em bà con của tướng Dương Văn Minh)

         Lâm Lễ Trinh :  Có phải cùng một lúc,  ba sĩ quan Cần Lao Nguyễn Văn Châu, Phạm Thư Đường và Lê Quang Tung cũng được đưa vào Nam. Châu trong chức Giám đốc Nha Chiến tranh Tâm lý, Bộ Quốc phòng; Đường, Phụ tá cho Trần Kim Tuyến, Sở Nghiên Cứu Xã hội Chính trị (SNCCTXH) ; và Tung, cầm đầu Lực lượng Đặc biệt ?  Ngoài ra, còn có Phan Ngọc Các, hoạt động cho cánh Cần Lao Ngô Đình Cẩn.  Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đặt trụ sở tại đâu? có bao nhiêu nhân viên? chi phí họat động do cơ quan nào trang trải ?

         Dương Văn Hiếu : Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung có trách vụ lo về tình báo chiến lược và phản gián, không liên hệ đến ba sĩ quan vừa kể và  Phan Ngọc Các. Trụ sở của Đoàn đặt tại trại Lê Văn Duyệt, Sàigòn, gần Quân khu Thủ đô. Dưới quyền tôi, có tám nhân viên và hai thơ ký đánh máy. Chi phí hoạt động (lương bổng, đồ ăn, feuille de route.v.v…) do Phòng Hành chính của  Phụ tá Nguyễn Thành tại Tổng Nha Công an cấp vì trên giấy tờ, tôi và các nhân viên được coi như vẫn thuộc Ty Công an Thừa Thiên. Đôi khi Đoàn cũng nhận được sự trợ giúp của Chánh Văn Phòng Đặc biệt Võ Văn Hải, với tiền lấy từ Quỷ đen của Tổng thống. Số tiền này không hệ trọng, chỉ có tính cách nâng đỡ tinh thần. Riêng cá nhân tôi không được cấp một nhà chức vụ. Tôi có mua một công xá gần nhà bí thơ Trần Sử ở khu Công Lý, Sàigòn. Đoàn không nhận một ngân khoản nào đến từ ông Ngô Đình Cẩn.

         Lâm Lễ Trinh :  Xin ông cho biết vài chi tiết hệ trọng trong hồ sơ Vũ Ngọc Nhạ (từng tự xưng là cố vấn của TT Diệm) và Huỳnh Văn Trọng (cố vấn của Tổng thống Thiệu)

Dương Văn Hiếu : Nhạ không bao giờ làm cố vấn cho Tổng Thống Diệm. Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đã bắt y thời Đệ nhứt Cộng Hòa như một cán bộ Cộng Sản tép riu, một tiểu công chức tại Bộ Công Chánh. Nhạ mang nhiều tên khác : Vũ Đình Long, Hai Long, Ông Giáo, Thầy Bốn, . . . v..v..  Còn Trọng thì bị dính trong vụ mệnh danh «Gián điệp Pháp ở Nhà hàng Morin Huế”. Y đã trốn thoát qua Nam Vang. Sau 1963, trở về Sàigòn, y  được Nhạ bố trí vào Dinh Độc lập. Chính Tổng trưởng Nội vụ Hà Thúc Ký đã thả Nhạ sau 1963. Nhạ tái hoạt động với cụm tình báo A 22 trong đó có Trọng và Lê Hữu Thúy tự Thắng. Linh mục Hoàng Quỳnh giới thiệu Nhạ cho Trần Ngọc Nhuận, cha sở nhà thờ Phú Nhuận, bạn thân của vợ chồng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

         Lâm Lễ Trinh :  Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung có xử dụng «hầm» P42 – được báo giới ngoại quốc mô tả là «địa ngục trần gian»- để tra vấn các tù nhân hay không ?

         Dương Văn Hiếu : P42 là một biệt thự thuộc Bộ Canh nông nằm bên trong Sở Thú, Jardin botanique Sàigòn, dùng để nhốt một số can phạm chính trị đặc biệt. Đoàn chúng tôi không xử dụng vì có trại Lê Văn Duyệt rồi.

         Lâm Lễ Trinh :  Trong công tác, ông phúc trình cho ai ?  Tổng thống ? Ông Nhu hay ông Cẩn ?  Ông có trao đổi tin tức, tài liệu gì với cơ quan CIA hay không ? Mối giao hảo công vụ giữa Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung và Tổng Nha Công An, Sở NCXHCT của Trần Kim Tuyến, Tổng Nha An ninh Bộ Quốc phòng (Đỗ Mậu) và Lê Quang Tung ra sao?

         Dương Văn Hiếu :  Tôi làm việc gần ông Nhu hơn. Khi có chuyện hệ trọng cần hỏi thêm, Tổng thống gọi tôi vào Dinh. Tôi chỉ gởi bản sao một vài phúc trình cho ông Cẩn. Trong những ngày cuối cùng trước đảo chính 1963, tôi bị ông Cẩn hiểu lầm “nhức đầu”. Ông Nguyễn Văn Minh, bí thơ ông Cẩn, và Trung tá Phạm Thư Đường, chánh văn phòng Cố vấn Nhu cũng ở trong hoàn cảnh đó.

         Tôi không bao giờ liên lạc với CIA. Tuy nhiên, sau vụ đảo chính 1.11.1963, bị Cách Mạng giam tại Chí Hòa, tôi mới được biết rằng tên Phan Khanh, phụ tá cho tôi, chiụ trách nhiệm về operations, được CIA móc nối. Khanh do ông Cẩn giới thiệu với tôi “vì biết võ”.

         Đại Tá Nguyễn Văn Y, Tổng Giám đốc Công An cũng như Trần Kim Tuyến (SNCCTXH), Lê Quang Tung (Lực lượng Đặc biệt) và Đỗ Mậu (An ninh Quân đội) không ưa tôi. Vợ ông Bộ trưởng Nội vụ Bùi Văn Lương và bà Thiếu tướng Nguyễn Văn Là (tiền nhiệm ông Y tại Công An) đều không thích bà Tuyến vì tranh dành địa vị bên cạnh bà Nhu nên ảnh hưởng đến các ông chồng. Tôi tránh xen vào mê hồn trận này.

         Riêng về Đỗ Mậu, ông hận tôi vì Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đã phát hiện và bắt Thiếu úy Lê Hữu Thúy, một điệp viên Việt Cộng được ông đặt làm Trưởng phòng An ninh tại Nha An ninh Quân đội.

Lâm Lễ Trinh : Phương pháp làm việc của Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung có gì mới lạ ?  Hiệu quả công tác của Đoàn ra sao? Phản ứng của phía Cộng Sản Bắc Việt như thế nào ?

         Dương Văn Hiếu :  Sau đây tóm tắc vài đặc điểm của Chính sách Cải tạo (đi đôi với việc thành lập Lực Lượng Võ Trang Nhân Dân) : Trong các nhà tù không song sắt, Công an Mật vụ ăn, ở, học tập, chơi và sinh hoạt chung với cán bộ Việt cộng sa lưới. Các Toán trưởng thu thập những tờ khai báo của những cán bộ này nạp cho Ban cải tạo hay Ban nghiên cứu. Chúng tôi không bắt công khai mà tổ chức bắt bí mật; giữ kín hoàn toàn những trường hợp đầu hàng hay hợp tác; Đoàn chúng tôi đã tạo nên một màng lưới phục kích, bao vây các cán bộ từ chính đường giây giao liên và cơ sở cũ mà Cách mạng đã dày công tổ chức. Thay vì hỏi cung thông thường, chúng tôi áp dụng phương thức mạn đàm, trao đổi, tranh luận, khai thông tư tưởng, cởi mở với đối tượng. Nếu cần, mua chuộc, dụ dỗ chuyển hướng. Đối với những cán bộ Cộng Sản ngoan cố, chúng tôi xử dụng tập thể Cộng Sản cải tạo để khuyên nhũ lôi cuốn hoặc, theo đường lối “xa luân chiến”,  giải thích chính sách chuyển hướng, tranh luận áp đảo các thắc mắc, phản ứng của người bị bắt . . . v..v... Vì thời lượng buổi nói chuyện hôm nay giới hạn nên chúng tôi mong trở lại vấn đề phức tạp này trong một dịp khác.

         Để trả lời phần hai câu hỏi của Luật sư, ít nữa 4 quyển sách tịch thu được trong chiến khu Việt Cộng cho thấy chúng rất e sợ “chính sách mới lạ, kỳ diệu và nguy hiểm” do Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung áp dụng. Bốn quyển ấy mang tên “Đoàn Mật vụ của Ngô Đình Cẩn (tác giả Văn Phan), Đường Thời Đại (tác giả Đặng Đình Loan), Cuộc chiến tranh đặc biệt (hồi ký của Đinh Thị Vân) và Bội phản hay Chân chính (tiểu thuyết hồi ký của Dư Văn Chất). Với chính sách này, Đoàn chúng tôi bắt gọn được – vào hạ bán niên 1958 – hai màng lưới Tình báo Chiến lược và Quân báo Cộng Sản từ Bến Hải vào đến Sàigòn.

         Trong tài liệu mệnh danh “Thư vào Nam” của Tổng bí thơ Lê Duẫn gởi tháng 7.1962 cho Nguyễn Văn Linh tức Mười Cúc, khi ấy Xứ Ủy Nam bộ, có đoạn viết : “Đã có lúc ở Nam Bộ cũng như ở khu 5 (Miền Trung), tình hình khó khăn đến mức tưởng như Cách mạnh không thể duy trì và phát triển được.”

         Lâm Lễ Trinh :  Vì sao (Nha sĩ dỏm và Play boy) Phan Ngọc Các, đại diện Cần Lao cho ông Ngô Đình Cẩn tại Miền Nam, bị bắt ? Ai bắt ?

         Dương Văn Hiếu :  Cố vấn Nhu ra lệnh cho Lê Quang Tung bắt vì Các làm tiền thương gia Hoa kiều Chợ Lớn, Các tuyển nạp đảng viên Cần Lao lung tung. Ông Cẩn rất bất mãn về chuyện Các bị bắt và bảo tôi thưa lại với ông Nhu phóng thích  Các. Tung là người của ông Cẩn. Tôi có cảm nghĩ Tung và Tuyến theo dõi tôi còn (Nguyễn Văn) Y thì đố kỵ tôi.

         Lâm Lễ Trinh : Thái Trắng (tức Lê Văn Thái, qua đời tại San Diego) và Thái Đen (tức Nguyễn Như Thái, biệt danh Đại tá Thanh Tùng) có làm việc cho ông hay không ?

         Dương Văn Hiếu :  Chỉ có Thái Đen cọng tác với tôi. Thái Trắng làm việc với Tuyến, y là bà con vợ trước (Đặng Tuyết Mai) của Nguyễn Cao Kỳ. Không biết tại sao  Thái Đen lại mang biệt danh “Đại tá Thanh Tùng” vì y không bao giờ có chân trong Quân đội hay đồng hóa sĩ quan. Y phụ tá cho tôi về mặt hành chính, bị Tòa lên án khổ sai chung thân, bị đưa ra Côn đảo về tội “bắt người trái phép” và được thả ra trước tôi. Thời Đệ nhị Cọng Hòa, hình như Nguyễn Ngọc Loan có xử dụng đương sự.

         Lâm Lễ Trinh :  Ông có thể cho biết tên và chức vụ của vài cán bộ cao cấp Việt Cộng bị Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung bắt giữ ?

         Dương Văn Hiếu :  Có thể cho biết hai tên :

         A- Trần Quốc Hương tự Mười Hương, Ủy viên Trung ương Đảng, người chỉ huy màng lưới Tình báo Chiến lược của Hà Nội tại Miền Nam. Y bị bắt lối năm 1958. Chính tôi đã đưa Hương ra Huế gặp bí mật hai ông Nhu và Cẩn ở Thuận An, trên một chuyến máy bay đặc biệt do Thiếu tá Nguyễn Cao Kỳ lái. Hương được Hội đồng Cách Mạng trả tự do tháng 5.1964.

         B- Đại tá Cộng Sản Lê Câu đã giúp tôi khám phá ra Phạm Bá Lương, Công cán Ủy viên của Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu. Lương ăn trộm và chuyển cho Hà Nội toàn bản chính kế hoạch kinh tế Staley-Vũ Quốc Thúc.Tôi gài bẩy bắt Lương khi y lên máy bay tại phi trường Tân Sơn Nhứt để đi Thái Lan vì công vụ. Ông Mẫu không hay biết lý do.

Lâm Lễ Trinh : Ông biết gì về đại tá Phạm Ngọc Thảo ?

         Dương Văn Hiếu : Trong phạm vi trách nhiệm phản gián, tôi có theo dõi Phạm Ngọc Thảo. Tôi biết Thảo được Đức cha Thục giới thiệu vào Bảo An và Thảo có liên hệ chính trị với bác sĩ Tuyến trong những năm tháng chót trước cuộc binh biến 1.11.1963. Hình như Thảo có trình với Tổng thống Diệm rằng Đoàn Công tác của chúng tôi bám sát y. Tôi có dịp thưa với Tổng thống nên lưu ý đến Thảo vì Thảo có bà con làm việc cho Bắc Việt trong chức vụ hệ trọng. Tổng thống có vẻ suy tư và nói: tại sao không khai thác kinh nghiệm của Thảo trong lãnh vực ấp chiến lược và khu trù mật ?

         Lâm Lễ Trinh : Khi xảy ra những biến động Phật giáo tại Huế năm 1963 thì ông ở đâu ?  Có trách vụ gì ? Xin cho biết vài ý kiến về cuộc khủng hoảng Phật giáo.

Dương Văn Hiếu : Lúc đó tôi công tác ở Sàigòn, tôi không liên hệ trực tiếp đến vụ Phật giáo. Tôi nhớ: Một hôm tôi vào trình việc trong Dinh (Độc Lập), Tổng thống than phiền rằng cụ vừa kinh lý khu Dinh điền Vị Thanh về, đi ngang một ngôi chùa, thấy cờ Phật giáo treo trên cột cao giữa sân chùa, còn Quốc kỳ thì bắng giấy, nhỏ cở bàn tay, dán trên trụ cột ngoài cổng, không ra thể thống gì cả.  Khi về, Tổng thống có mời Đức Khâm Mạng Tòa Thánh và ông Mai Thọ Truyền (một trong hai Phó Hội chủ Tổng Hội Phật giáo) vô cho biết tình trạng và yêu cầu lưu ý các giáo dân phải tôn trọng Quốc kỳ theo thể thức được Chính phủ quy định. Hai vị vừa kể hứa lưu ý giáo dân. Sau đó Tổng thống có ra lệnh miệng cho ông Đổng lý Văn phòng Quách Tòng Đức gởi công điện nhắc các Tỉnh. Không biết vì sao ông Đức để đến ngày chót trước Lễ Phật Đản 8.5.1963 mới gởi công điện. Tổng thống có kêu ông Đức vô hỏi, ông Đức xin từ chức, Tổng thống nói: công chuyện đổ bể như thế, xin thôi có ích chi ?

         Ngoài ra, lúc bị giam chung với tôi sau ngày 1.11.1963, Thiếu tá Đặng Sĩ, Tiểu khu trưởng kiêm Phó Tỉnh trưởng Thừa Thiên, nói với tôi rằng ông bị oan vì được Tướng Lê Văn Nghiêm, Tư lệnh Quân đoàn 1, Vùng 1 Chiến thuật, cho phép ông chiều ngày 8.5.1963, trước Đài Phát thanh Huế, dùng lựu đạn hơi để giải tán biểu tình. Không biết “bàn tay bí mật” nào đã vung một trái lưu đạn chiến đấu gây thiệt mạng cho 8 em bé và thương tích cho nhiều người khác. Sĩ bị Tòa phạt khổ sai chung thân.

         Thượng tọa Trí Quang, làm việc cho Cộng Sản, đóng vai trò hàng đầu trong vụ Phật giáo, lợi dụng mối giao hảo tốt với Cố vấn Cẩn. Sau 1975, tướng Nghiêm không bị làm khó vì đi đêm với Bắc Việt từ trước. Cũng như bác sĩ Lê Khắc Quyến, giám đốc Bênh viện Huế. Tổng giám mục Ngô Đình Thục  hành động nóng nảy, Cố vấn Cẩn bị bó tay.

Lâm Lễ Trinh : Chuyện gì đã xảy ra cho Ông sau ngày đảo chính 1.11.1963 ?

Dương Văn Hiếu : Tôi bị bắt cùng với hai phụ tá là Nguyễn Tư Thái (tức Thái Đen) và Phan Khanh. Ủy ban Điều tra tội ác – do một chính khách Hòa Hảo chủ tọa – thẩm vấn tôi về những tố cáo làm tiền, bắt người và thủ tiêu đối lập. Tôi còn nhớ bà góa phụ Đinh Xuân Quảng, vợ của một cựu Bộ trưởng thời Bảo Đại, thưa tôi đã tra khảo bà. Không có bằng chứng cụ thể. Tại Tổng Nha Công an, Tống Đình Bắc thay tôi. Y và Trần Bá Thành nắm trong tay nhật ký memories của tôi. Thành  nằm vùng cho Cộng Sản.  Nếu tôi có giết bất cứ ai thì chắc chắn Tướng (Mai Hữu) Xuân  đã “làm thịt” tôi rồi. Chính y cũng đã nói với tôi như vậy.

         Tuy nhiên, Toà án Cách mạng, do một Thẩm phán dân sự chủ tọa, (trong đó đại tá Dương Hiếu Nghĩa là một thành viên}, đã xử tôi khổ sai chung thân về tội “bắt người trái phép”. Trong vụ tảo thanh các chùa Phật ở Sàigòn, chính Cảnh sát Đô thành của Giám đốc Trần Văn Tư đã bắt các sư sải. Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung đâu có nhân viên để làm chuyện đó.

         Trong các  phiên xử khác, Tòa phạt từ tù đến khổ sai các ông Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Y, Trần Văn Tư, Hà Như Chi, Nguyễn Lương, Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỷ, Bùi Dzinh..v..v..

         Vợ tôi đã phải bán đôi bông tai 80.000 đồng và vay một số tiền khác để trả thù lao 100.000 đồng cho luật sư Vương Văn Bắc.

Lâm Lễ Trinh :: Trong trường hợp nào ông và các nhân vật chế độ cũ được tự do? Vì sao ? Riêng về ông, sau đó, có bị nhà chức trách làm khó dễ gì hay không?

         Dương Văn Hiếu : Không nhớ rõ ngày tháng nào năm 1964, một buổi sáng, Chính phủ cho ba chiếc máy bay Dakota DC3 ra Côn sơn chở tất cả tội nhân (lối 30, 40 người) về Sàigòn và chúng tôi được phóng thích. Một thời gian ngắn sau, tôi được giấy đòi của Công an, trung tá Nguyễn Mậu dẫn tôi đến trình diện với Tổng giám đốc Nguyễn Văn Hai. Tướng Hai đưa tôi bằng xe jeep đến Bộ Nội vụ trình diện với tướng Trần Thiện Khiêm. Ông Khiêm tiếp tôi nhã nhặn và “khuyên” tôi nên thủ phận làm ăn. Đây là một lời cảnh cáo rất rõ. Để nuôi sống gia đình, mỗi ngày tôi đi mua âu dược của các Viện bào chế, đóng thùng gởi ra Đà nẳng gởi bán tại Tiệm thuốc của dược sĩ Hà Thị Tiểu Hương. Một hôm, năm 1968, thời Tổng thống Thiệu, Thái Đen (tưc Nguyễn Tư Thái, một cộng sự viên cũ trong Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung), đến khoe với tôi rằng y “làm việc cho Toà Đại sứ Hoa ky’. Bất thần, lối một tuần sau, có giấy đòi tôi đến trình diện tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, bến Bạch Đằng. Nơi đây, Đặc ủy trưởng Nguyễn Khắc Bình đề nghị tôi hợp tác với Phòng Nghiên cứu về Tình báo. Tôi xin vài ngày suy nghĩ. Tôi đến thỉnh ý Đức cha Nguyễn Văn Bình. Ngài khuyên tôi nên nhận để tránh mọi phiền toái. Tôi trả lời với tướng Bình tôi nhận, với điều kiện trả lại nhà cửa của tôi bị tich thâu oan và bạch hóa hồ sơ của tôi bị bôi bẩn trong một buổi họp báo. Ông Bình cho biết việc này cần có quyết định của Quốc hội và đòi hỏi thời gian. Vài bửa sau, Tướng Bình sai một sĩ quan cầm đến nhà tôi 40.000 đồng, nóí là giúp tôi trong cơn túng bấn. Để thoát mọi phiền nhiểu, tôi đành nhận cọng tác với Phủ. Tôi được cấp một văn phòng và một thơ ký đánh máy. Mỗi tháng tôi có phận sự đúc kết những tài liệu tình báo từ các Quân khu và viết bản phân tích trình thượng cấp: Một việc làm chán phèo ! Tôi biết đây là một hình thức “giam lõng” và theo dõi tôi. Có một hôm, một người xưng tên Nguyễn Văn Canh đến văn phòng để xin phỏng vấn và lấy tài liệu soạn thảo luận án Tiến sĩ Luật. Một thời gian sau, tôi không đến làm việc nữa. Rồi Chính phủ Miền nam sụp đổ.

         (Giai đoạn Dương Văn Hiếu “bị cầm chân” tại Cục Trung ương Tình báo được tướng Nguyễn Khắc Bình, hiện ở San Jose, xác nhận).

         Lâm Lễ Trinh :  Một số nhân vật đối kháng như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp và Vũ Tam Anh bị Đệ nhứt Cọng hoà thủ tiêu. Ông có thể cho biết cơ quan nào chịu trách nhiệm ? Do lệnh của ai ?

Dương Văn Hiếu : Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung không liên hệ. Chúng tôi không có trách nhiệm truy nả các phần tử đối lập. Sau 1975, một số sử liệu cho biết chính thẩm sát viên Khưu Văn Hai và đồng bọn trong Ban Cảnh sát Đặc biệt thuộc Tổng Nha Công An của đại tá Y đã giết Nguyễn Bảo Toàn và Trương Công Diệp. Về Vũ Tam Anh, có thể là do tổ chức của Lê Quang Tung. Tôi không nghĩ Tổng thống Diệm đã ra lệnh vì ông đã từ chối đưa ra Toà Hà Minh Trí là người ám sát hụt ông ở Ban Mê Thuột và ông cũng đã nhẹ tay với phi công Phạm Phú Quốc, người dội bom Dinh Độc Lập với Nguyễn Văn Cử.

         Lâm Lễ Trinh : Ông biết gì về sự bội phản của Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, Bộ trưởng Nguyễn Đình Thuần và Trần Kim Tuyến.

         Dương Văn Hiếu :  Tôi nhớ có lần tôi phúc trình với Tổng thống tin đồn về Huê kiều Chợ Lớn mua licenses tại Bộ Kinh tế, Cụ nghe, trầm ngâm, không nói gì.

         Qua ông Thuần, CIA nắm hết tin tức về nội tình Chính phủ. Cụ có vẻ rất mến và tin tưởng ông Thuần. Về Bs Tuyến thì vào cuối 1962, ông Tuyến hoàn toàn thất sủng, không còn quyền gì, thay thế bởi đại tá Phạm Thư Đường. Bà Nhu rất ghét ông bà Tuyến.

         Lâm Lễ Trinh : Ông nghĩ sao về tin ông Nhu có qua Paris điều đình với De Gaulle về chuyện trung lập hoá Việt Nam và gặp Xứ ủy Miền Nam, Ủy viên Bộ chính trị Bắc Việt Phạm Hùng tại rừng Tánh Linh, Long Khánh, để thương thuyết?

         Dương Văn Hiếu :  Tôi có nghe những tin ấy. Cá nhân tôi nghĩ chỉ đó là tin đồn. Một người quốc gia quyết liệt như Tổng thống Diệm không thể bắt tay với Cộng sản bất luận dưới hình thức nào vì Hiến pháp Việt Nam công khai phủ nhận Xã hội Chủ nghĩa và đặc biệt, vì Cộng sản đã giết dã man anh và cháu của Tổng thống. Đòn hiệp thương Nam-Bắc do ông Cố vấn Nhu tung ra có thể là một cách bắt bí Hoa kỳ. Không ngờ CIA đã biết rõ nội vụ. Ông Nhu đã chui vảo cái bẩy do chính ông giăng ra.

         Lâm Lễ Trinh : Nhìn lui lại, ông nghĩ rằng thời Đệ nhứt Cộng hoà, đảng Cần Lao có thực lực trong quần chúng hay không ? Việc đem tổ chức Cần lao vào Quân đội có lợi hay hại ? Ông Nhu và ông Cẩn có hoàn toàn đồng ý với nhau về cách tổ chức và lãnh đạo đảng Cần Lao hay không ?

         Dương Văn Hiếu :  Về mặt lý thuyết, Cần Lao dựa vào chủ nghĩa Nhân vị được ông cố vấn Ngô Đình Nhu nghiên cứu kỹ. Đảng Cần Lao, tiếc thay, thiếu một chính sách tuyển lựa, huấn luyện và xử dụng cán bộ hữu hiệu. Ngoài ra, còn vấn đề kỷ luật. Đa số đảng viên được chọn trong thành phần công chức có quyền và địa vị. Đảng không đi sâu vào đại chúng ở thành thị, đặc biệt ở nông thôn. Các khóa tu nghiệp về chủ thuyết Nhân vị do Đức cha Ngô Đình Thục tổ chức tại Vĩnh Long không đào sâu và giải quyết vấn đề. Tôi có dịp thuyết trình về đề tài này trong một phiên học tập về ấp Chiến lược ở Suối Lồ Ồ năm 1962. Sau đó, tôi có thỉnh cầu ông Nhu, với tư cách Tổng Bí thơ Cần Lao, ban huấn lệnh nhưng không thấy ông nói gì. Câu chuyện bỏ qua !

         Ông Cẩn ít nặng về lý thuyết hơn ông Nhu. Ông Cẩn có vẻ chú trọng hơn về vấn đề cán bộ, thực tế hơn. Trong nội bộ Cần Lao cũng có nhiều nhóm: nhóm Bắc, nhóm Trung (của ông Cẩn), nhóm Trần Quốc Bửu (Tổng Liên Đoàn Lao Công), nhóm Tinh Thần (Nguyễn Tăng Nguyên), nhóm Nam kỳ Bộ (Huỳnh Văn Lang), nhóm Hà Đức Minh-Trần Văn Trai. Không thống nhứt. Ít khi thấy Tổng thống nhắc đến đảng Cần Lao. Tổng thống để ý đến Phong trào Cách Mạng Quốc gia. Cân Lao không có Ban Chấp hành Trung ương. Chỉ có Văn phòng Tổng Bí Thứ (ông Nhu) gồm có 5 Phòng trực thuộc. Tôi không nghĩ đem Cần Lao vào Quân đội hoàn toàn có lợi. Các tướng lãnh đóng vai trò cốt cán trong cuộc chính biến 1.11.1963 phần đông là đảng viên Cần Lao được Tổng thống tin dùng và bị Hoa kỳ mua chuộc.

         Lâm Lễ Trinh : Về mặt tình báo, Đoàn Công Tác Đặc Biệt Miền Trung của ông, SNGCTXH của Tuyến, Lực Lượng Đặc Biệt của Lê Quang Tung và Nha An ninh Quân đội của Đỗ Mậu có dẫm chân với nhau hay không ? Ông biết gì về giấc mơ của Trần Kim Tuyến – sau 1960 – cầm đầu một Bộ An Ninh thống nhất về một mối các cơ quan cảnh sát, tình báo chiến lược và phản gián quốc nội và quốc ngoại (gồm luôn Bộ Nội vụ) ? Vì Tổng thống Diệm từ chối đề nghị này nên ông Tuyến bất mản và làm phản.

Dương Văn Hiếu : Tôi nghĩ: không trùng dụng, không dẫm chân. Đoàn Công tác của chúng tôi, thật vậy, lo về phản gián, chống Cộng. Sở ông Tuyến chú trọng đến vấn đề tình báo nội an, đối lập trong xứ. Cơ quan của Đỗ Mậu phụ trách những gì liên hệ đến an ninh của Quân đội còn Lực lượng của Tung, gồm có một Trung đoàn, thì có trách vụ bảo vệ Tổng thống và các công thự. Tuy nhiên, trong những năm chót, Tung vượt quá quyền hạn của mình. Các cơ quan.không phối hợp chặt chẻ.

         Tôi không biết gì về vấn đề Bộ An ninh nêu trên. Trong giai đoạn chót, Tổng thống, Đức Cha và hai ông Nhu, Cẩn không đồng nhứt tư tưởng, đặc biệt trong vụ khủng hoảng Phật giáo. Tổng Giám mục Thục xen vào việc treo cờ càng làm tình hình thêm rối ben. Mỹ quyết tâm lật đổ ông Diệm, thủ tiêu ông Nhu. Vì thế cuộc binh biến thành công. Đất nước  phiêu lưu vào hổn loạn.

         Thủy Hoa Trang - Californie

 

 

Những Tin Cùng Chủ Đề Đã Qua:
Kamala Harris Sẽ Là Một Thảm Họa Cho Hoa Kỳ
Đối Chiếu Kế Hoạch Kinh Tế giữa Donald Trump và Kamala Harris
Những Yếu Tố Nào Giúp Cựu Tổng Thống Trump . . . .
Cuộc Chiến Khó Khăn Của Trump
Sến ơi là sến !
Tại sao gọi là Ba Tàu ?
Con Rối Biden và Chủ Trương Xã Nghĩa Hóa
Nói có chứng có mách và FBI đã nhận tội giàn dựng có thật
Joe Biden : Đồng Minh Không Đáng Tin cậy
Cựu Tổng Thống Trump Có Cơ Hội Đắc Cử Trở Lại ?
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
TỔ ĐÌNH TỪ ĐÀM HẢI NGOẠI
615 N Gilbert Rd Irving TX 75061 - 6240 ĐT:(972)986 - 1019
Bạn là người online số:
3942761
Có 0 Khách Đang Online