Huế - Nơi Mở Đầu Cuộc Vận Động Của Phật Giáo Việt Nam Năm 1963
Giáo sư Lê Cung - 22-Aug.21
Chính quyền Ngô Đình Diệm này tiếp tục duy trì Dụ số 10 ban hành dưới thời thực dân Pháp (6-8-1950). Dụ này chỉ mặc nhiên thừa nhận một tôn giáo duy nhất ở Việt Nam là Thiên Chúa giáo Vatican; còn Phật giáo cũng như Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo, . . . đều chỉ có tư cách pháp nhân của hiệp hội, . . .
Cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam năm 1963 là một sự kiện lịch sử nổi bật trong phong trào đô thị miền Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975). Trên thực tế, cuộc vận động đã góp phần tích cực vào sự cáo chung của chế độ độc tài, gia đình trị, giáo trị Ngô Đình Diệm (1-11-1963), tạo ra bước ngoặt quan trọng đối với cục diện chính trường miền Nam có lợi cho phong trào cách mạng, được nhìn nhận như là một mũi tiến công của phong trào cách mạng miền Nam. Tổng Bí thư Lê Duẩn viết : “Cả trong thành thị cũng dấy lên những làn sóng cách mạng quyết liệt, làm rối loạn hậu phương của địch, làm lung lay tận gốc chế độ bù nhìn. Hoang mang trước sự lớn mạnh và thế tiến công cách mạng, đế quốc Mỹ buộc phải thay đổi tay sai, phế bỏ Ngô Đình Diệm hòng để cải thiện tình hình chính trị và quân sự để cứu vãn thất bại. Song Mỹ đã phạm phải sai lầm. Sau sự sụp đổ của Diệm, chiến tranh cách mạng đã phát triển lên một bước mới” [1] .
Các công trình nghiên cứu về cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam năm 1963 đều nhất trí khẳng định Huế là nơi mở đầu cuộc vận động. Song tại sao Huế đóng trọn được vai trò này lại còn tiềm ẩn, chưa được giải mã một cách cụ thể. Bài viết này góp phần làm rõ vấn đề đã được đặt ra.
Kinh thành Huế
- Trước hết, Huế là trung tâm chính trị - văn hóa thứ hai ở miền Nam sau Sài Gòn. Huế vốn là kinh đô cũ của nước Việt Nam, nơi tập trung nhiều nhà khoa bảng; Huế duy nhất có Viện Đại học[2], đa số con em miền Trung về đây học tập; Huế là một trung tâm Phật giáo của đất nước[3], trong những năm 1930, phong trào chấn hưng Phật giáo đã khởi đầu từ chùa Trúc Lâm, rồi chùa Từ Đàm và nhanh chóng lan rộng khắp miền Trung, tận đến đồng bằng sông Cửu Long và cả miền Bắc; giới lãnh đạo Phật giáo miền Nam Việt Nam, kể cả tăng già và cư sĩ đều thường trú tại Huế, nhưng dưới chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu “Thiên Chúa giáo hóa” miền Nam trở thành một chính sách nổi bật; Huế là thành phố lớn của miền Nam tiếp giáp với miền Bắc, thành trì của cách mạng cả nước. Điều quan trọng nhất là Huế còn cả một bề dày về truyền thống yêu nước, là nơi có phong trào cách mạng diễn ra rất sớm, hết sức sôi nổi và giành được những thắng lợi hết sức quan trọng, . . . Tất cả đã trở thành một lực cản to lớn đối với chính sách thống trị của chính quyên Ngô Đình Diệm ở Huế.
Do tính chất và đặc điểm nói trên nên chính quyền Ngô Đình Diệm đã thiết lập ở Huế một bộ máy cai trị “cực mạnh” và thi hành một chính sách khủng bố hết sức ác liệt đối với những người mà chúng cho là đối lập, với tham vọng bắt nhân dân Huế phải đi theo quỹ đạo của chúng, nhằm đẩy lùi lực lượng cách mạng, cột chặt miền Nam nước ta trong sự phụ thuộc vào chủ nghĩa thực dân mới.
Bộ máy cai trị của chính quyền Ngô Đình Diệm ở Huế được xem như là một “triều đình thứ hai” sau Sài Gòn, mà kẻ chỉ đạo tối cao là “lãnh chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn (em ruột Ngô Đình Diệm). Ngoài bộ máy chính quyền Thừa Thiên, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thiết lập ở đây một bộ máy cai trị cấp miền (gồm các tỉnh từ Quảng Trị đến Bình Thuận và Tây Nguyên), như: Tòa đại biểu Chính phủ tại Trung Việt, Nha Cảnh sát và Công an Trung Việt, Tòa Tổng lãnh sự Mỹ, Đội công tác đặc biệt miền Trung, Đảng Cần lao Nhân vị, Phong trào cách mạng quốc gia của Ngô Đình Cẩn, . . . Cùng với bộ máy cai trị này còn có Ngô Đình Thục (anh ruột Diệm) làm Tổng Giám mục Địa phận Huế[4].
Dưới bàn tay bạo chúa của Ngô Đình Cẩn, chính quyền Ngô Đình Diệm đã triển khai chính sách “tố Cộng” hết sức ác liệt với mục đích tiêu diệt tận gốc mầm mống cách mạng trong nhân dân. Những cuộc lùng bắt và tra tấn dã man đối với những người bị chế độ xem là cộng sản và đối lập đã diễn ra trên một quy mô rộng lớn và có tính thường xuyên. Theo Công văn số 164-VP/CT/1-M ngày 16-8-1956 của Tỉnh trưởng Thừa Thiên gởi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt thì trong vòng hơn một tháng (từ 29-6 đến 08-8-1956), theo lệnh của Ngô Đình Cẩn, nhân viên Ban khai thách Nha Cảnh sát và Công an Trung Việt đã bắt tra tấn và giam cầm 25 người với tội gán cho là “hoạt động cộng sản”, trong đó có tới 22 người trú tại Huế. Về vụ này, chính tay chân chính quyền Ngô Đình Diệm tại Huế cũng phải thú nhận rằng đây là “việc bắt người sai nguyên tắc . . . là những việc xảy ra hiển nhiên trong tỉnh”[5] .
Trong những cuộc “chỉnh huấn”, chính quyền Ngô Đình Diệm sử dụng nhiều đòn tra tấn dã man nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước. Có những người không chịu nổi sự truy bức “chỉnh huấn” của chúng đã thắt cổ tự tử, như trường hợp ông Phạm Lách (ở thôn Diêm Tụ, xã Vinh Hà, huyện Phú Vang), học viên lớp “chỉnh huấn” tại xã Nghi Giang (quận Vinh Lộc) đã thắt cổ tự tử đêm 16-5-1957[6] ; ông Dương Cật cũng là học viên lớp nói trên đã tự sát ngày 20-5-1957[7] . Có người bị bắt, ngay sau “cuộc sơ vấn” của địch đã tìm cách tự sát như ông Phan Châu (huyện Phú Lộc), bị bắt lúc 22 giờ ngày 23-8-1956 đến 2 giờ 20 sáng 24-8-1956 đã nhảy xuống giếng sâu tự tử[8] . Có những người phải tìm cách tự quyên sinh khi được tin sắp bị bắt, như trường hợp ông Nguyễn Đình Cát (huyện Phú Lộc) đã uống thuốc độc tự tử ngày 22-02-1957[9] .
Đến đầu những năm 60 của thế kỷ XX, khi phong trào cách mạng miền Nam có những bước phát triển nhảy vọt từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công trực diện vào thành trì của “Việt Nam cộng hòa” thì chính thời kỳ này, chính quyền Ngô Đình Diệm càng ra sức bắt bớ, khủng bố giam cầm những người yêu nước và những người không cùng tín ngưỡng, tôn giáo. Ban An ninh Thừa Thiên trong phiên họp ngày 11-11-1960 đã xử an trí tại Trung tân cải huấn Thừa Thiên 32 người ở Huế từ 6 tháng đến 2 năm, trong đó có tới 31 người và 1 người bị đưa ra truy tố trước tòa án quân sự. Hoặc có trường hợp mãn hạn án 4 năm tù vẫn tiếp tục bị bắt quản thúc thêm 4 năm nữa, vì theo chúng “tuy đã mãn hạn án, nhưng thuộc thành phần nguy hiểm, hiện còn mang nặng tư tưởng cộng sản, tha ra không có lợi cho công cuộc an ninh, cần lưu giam để giáo hóa”, như trường hợp của ông Hoàng Giám và Lê Sỹ tức Thiệu đều quán thôn Hiền Sỹ, quận Phong Điền[10].
Nhà giam của chính quyền Ngô Đình Diệm tại Huế chật ních tù chính trị. Theo Công văn số 3630/TTAN-CT-BM ngày 12-12-1961 của Tỉnh trưởng Thừa Thiên gởi Tổng Quản đốc các Trung tâm Cải huấn Sài Gòn thì : “Số phòng ốc hiện chứa của Trung tâm cải huấn Thừa Thiên chỉ vừa đủ 600 can nhân mà hiện nay đã giam đến 700 người nên không thể nhận thêm can nhân để hướng nghiệp”[11].
- Hai là, đối với Phật giáo nhìn trên phạm vi toàn miền Nam, chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành một chính sách kỳ thị Phật giáo hết sức khắc nghiệt. Trước hết là việc chính quyền này tiếp tục duy trì Dụ số 10 ban hành dưới thời thực dân Pháp (6-8-1950). Dụ này chỉ mặc nhiên thừa nhận một tôn giáo duy nhất ở Việt Nam là Thiên Chúa giáo Vatican; còn Phật giáo cũng như Tin lành, Cao Đài, Hòa Hảo, . . . đều chỉ có tư cách pháp nhân của hiệp hội, tương tự như hội tương tế, hội đua ngựa, hội thể thao. Vì vậy, điều không ngạc nhiên là trong năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm hủy bỏ ngày Phật đản trong danh sách các ngày nghỉ lễ dành cho công chức và binh sĩ[12] ; rồi xem Phật giáo như là ma quỷ; cùng với lực lượng cách mạng, Phật giáo là đối tượng cần triệt hạ. Theo Chu Bằng Lĩnh thì : “Người vào Đảng Cần lao là phải tuyên thệ : đem hết thể xác và linh hồn cho đến hơi thở cuối cùng để chống lại cộng sản vô thần, chống Phật giáo ma quỷ và chống các đảng phái quốc gia”[13] .
Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, những tác phẩm nào nặng lời chỉ trích, bôi đen Phật giáo và đề cao Thiên Chúa giáo đều được chính quyền Ngô Đình Diệm đánh giá cao, như tác phẩm “Văn chương bình dân” của Thanh Lãng khi đề cập đến Phật giáo thì cho rằng : “Đối với Phật cũng như đối với hạng thầy tu, dân chúng đều bị coi khinh ; nhà sư đi tu vì thích oản chuối, . . . Người Việt Nam có một quan niệm rất cao siêu về Trời mà họ coi như là một Thiên Chúa toàn năng. Người dân quê, qua các tài liệu văn hóa, ta thấy luôn có tính cách chống đối Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo, . . . nhưng không bao giờ có ý tưởng chống Trời” [14] ; tác phẩm “Xây dựng trên Nhân vị” của Bùi Tuân viết : “Chân lý mặc khải của đạo Công giáo cho ta biết Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài (chỉ có Thiên Chúa, thiên thần và Người là có vị - Chú thích của Bùi Tuân).
Triết lý Đông phương cũng như tôn giáo Tây phương thừa nhận rằng cái căn bản nhân vị là ở chỗ Trời tức Thượng đế hay Thiên Chúa vậy.
Nói cách khác, người do Thượng đế mà đến. Ở đây chúng ta chủ trương nhân vị chủ nghĩa tức là mạnh dạn tỏ ra mình có một quan niệm về người và vũ trụ và quan niệm ấy thừa nhận có một đấng Thượng đế tạo dựng nên người là loài có nhân vị”[15].
Cả hai tác phẩm trên đều đã được chính quyền Ngô Đình Diệm xếp giải nhất trong số 13 tác phẩm được giải văn chương toàn quốc năm 1957.
Hoặc chính quyền Ngô Đình Diệm bắt buộc những cán bộ và viên chức, nhà nước dù là tín đồ Phật giáo, đều phải về Trung tâm Huấn luyện Nhân vị Vĩnh Long để học tập chủ thuyết Nhân vị. Khi về đây, họ chỉ nghe các linh mục giảng gần như hoàn toàn là giáo lý Thiên Chúa giáo, mua chuộc họ theo Thiên Chúa giáo; đồng thời chỉ trích giáo lý của Phật giáo.
Điều cần chú ý thêm rằng, chính quyền Ngô Đình Diệm còn ban hành nhiều nghị quyết bắt nhân dân miền Nam mà đa số là tín đồ Phật giáo phải hạn chế một số hoạt động kinh tế để thực hiện tín điều Thiên Chúa giáo. Chẳng hạn, ngày 06-08-1961, chính quyền Ngô Đình Diệm ra nghị định số 1182-BKT/NTT/NĐ quy định : “Cấm hạ và bán thịt heo trên toàn lãnh thổ Việt Nam cộng hòa 3 ngày trong tuần lễ: thứ Ba, thứ Sáu và Chủ nhật[16] cho đến khi có lệnh mới . . . Trong ba ngày cấm trên đây, thịt heo quay, thịt heo ướp lạnh của những ngày trước còn lại cũng không được phép bán trong các tiệm, các chợ mặc dầu dưới hình thức nào”[17] .
- Ba là, Huế là nơi tín đồ Phật giáo chiếm đa số trong nhân dân. Nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm đã thi hành chính sách kỳ thị nặng nề ngay từ những ngày đầu khi chính quyền này hình thành, như trường hợp một huynh trưởng Phật tử ở Khuôn hội Kim An, Kim Long (Huế) đã bị giết chết một cách thê thảm mà nguyên nhân chỉ vì “đã hoạt động tổ chức đoàn cung nghinh Xá lợi trong Đại lễ Phật đản năm 1955”[18].
Những tín đồ Phật giáo có thế lực kinh tế cũng là đối tượng được chế độ “ưu tiên” đàn áp và khủng bố. Từ năm 1957, Ngô Đình Cẩn và tay chân đã tạo ra “Vụ án gián điệp miền Trung” giả tạo. Với vụ án này, hầu hết các tỉnh miền Trung từ Quảng Trị vào Khánh Hòa, không có tỉnh nào không có người bị Ngô Đình Cẩn và tay chân ghép vào tội làm gián điệp cho Pháp, song tập trung nhất là tại Huế. Trong tác phẩm “Chín năm máu lửa dưới chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm”, Nguyệt Đạm và Thần Phong đã cung cấp cho chúng ta một bức tranh hết sức sinh động về tính chất dã man của những đòn tra tấn hiểm độc ; về những thủ đoạn tống tiền; về cách thức phi tang những nạn nhân bị giết hại, . . . do Ngô Đình Cẩn và tay chân gây ra. Sau đây là một số vụ tiêu biểu:
Ông Nguyễn Văn Yến, chủ khách sạn Morin (Huế) đã không đồng ý cho Ngô Đình Cẩn mua lại khách sạn với giá rẻ mạt, liền bị gán tội làm gián điệp cho ngoại bang. “Ông Nguyễn Văn Yến đã bị bắt giam ở Chín Hầm và chịu tất cả cực hình: đổ nước, quay điện, cực hình assis debout nhìn bóng 500 watt để da mặt phồng lên, ông này tiêu tan hết sự nghiệp, mẹ và vợ buồn rầu nên qua đời”[19] .
Đường vào nhà giam Chín Hầm
Ông Phan Văn Thí, chủ hiệu buôn Đức Sinh, số 77 Trần Hưng Đạo (Huế) bị gán tội làm gián điệp cho Pháp, đã bị bắt giam ngày 12-9-1957 và bị tra tấn hết sức dã man : “ông Đức Sinh phải trả một giá quá đắt: Nộp cho tên trùm mật vụ Phan Quang Đông 1.500.000$00, phải làm văn tự bán cho Đông một cái nhà 2 triệu đồng mà thực ra ông Đức Sinh không lấy một đồng nào cả”[20].
Ông Nguyễn Đắc Phương, thầu khoán ở Huế, bị vu cáo chứa chấp thuốc phiện, buôn lậu và làm gián điệp cho Pháp, bị Ngô Đình Cẩn ra lệnh bắt, tra tấn. Ông Phương chết ngày 16-5-1957 do Cẩn ra lệnh xô từ trên lầu xuống. Các điều tra sau đó cho biết ông Phương chết vì “đã được đấu thầu tu bổ điện Thái hòa và những công tác khác, trong lúc đó bà Cả Lễ (chị ruột của Ngô Đình Cẩn) không được đấu thầu”[21].
Ông Bửu Bang, chủ hiệu Rồng Vàng, số 105 Trần Hưng Đạo (Huế) bị bắt cóc ngày 16-5-1960 và bị gán tội hoạt động chính trị, tống giam ở Chín Hầm. Ông Lê Văn Châu, chủ hiệu sách Nam Hưng, số 125 Trần Hưng Đạo (Huế) bị bắt ngày 18-11-1960 phải chịu tống tiền mới được tha.
Ảnh vẽ lại một liệt sĩ bị giam ở Chín Hầm
Ông Trần Bá Nam, thầu khoán ở Huế, bị thuộc hạ Ngô Đình Cẩn chặn bắt trong khi đang cùng vợ con đi xe từ Savanakhet về Huế. Ông Nam bị gán tội làm gián điệp cho Pháp và bị tra tấn dã man.Tay chân Cẩn “ép buộc ông Nam nhận tội làm gián điệp để cưỡng đoạt tập chi phiếu ba triệu đồng, do ngân khố Savanakhet cấp phát.
Không nhận tội làm gián điệp, không chịu ký chi phiếu, nạn nhân bị đánh đập dần đến chết, thây bị liệng xuống giếng phía sau sở vôi Long Thọ”[22].
Dưới bàn tay bạo chúa Ngô Đình Cẩn biết bao nhiêu chiến sĩ cách mạng, những người yêu nước và tín đồ Phật giáo bị chém giết hoặc bị quăng vào nhà giam Chín Hầm. Ngay “bên cạnh chùa Từ Đàm, tháng 2-1962, một tăng sĩ trẻ tên Trần Kim Phú đã bị công an mật vụ chế độ trùm bao bố, bóp cổ bắt cóc đem giam trên Chín Hầm”[23].
Chưa hết, khi Ngô Đình Thục về nhậm chức Tổng Giám mục Địa phận Huế ngày 10-2-1961, lễ đón được chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức theo nghi thức quốc gia : “Đức Tổng Giám mục đến sân bay Phú Bài có lễ dâng hoa, chào Quốc thiều, duyệt tiểu đoàn dàn chào, . . . Ông Đại biểu Chính phủ Trung Nguyên Trung Phần giới thiệu các cấp Quân chính và Đại diện các đoàn thể, . . . Các phái đoàn, các cơ quan, đoàn thể đến chào mừng Đức Tổng Giám mục tại Tòa Tổng Giám mục, . . . Các đơn vị đồn trú dọc theo lộ trình Đức Tổng Giám mục sẽ đi qua phải cho toán lính gác cổng đơn vị ăn mặc chỉnh tề, dàn thành hàng ngang, bồng súng chào khi xe đi ngang qua, . . . Bộ Tư lệnh Quân khu 2 yêu cầu các đơn vị trưởng cho phép các binh sĩ Công giáo (không bận công tác) được nghỉ việc vào buổi chiều ngày 10-2-1961 và buổi sáng ngày 11-2-1961 để đi nghênh đón Đức Tổng Giám mục và dự lễ tại Nhà thờ Phú Cam.
Các binh sĩ đi nghênh đón và dự lễ tại Nhà thờ phải ăn mặc chỉnh tề và có cấp chỉ huy hướng dẫn, . . .
Chỉ những xe hộ tống và xe các quan khách cao cấp có ban số mới được vào sân bay đậu lúc đón tiếp. Các xe khác đi đón tiếp hoặc công tác sẽ đậu tại Phi cảng Phú Bài.
Tài xế các quân xa đưa các sĩ quan đi đón tiếp phải ăn mặc chỉnh tề. Xe phải sạch sẽ. Lúc chào Quốc kỳ tài xế phải đứng nghiêm cạnh phái tay lái để chào.
Sau khi Ban Quân nhạc SĐ/I dàn chào tại Phú Bài xong, trở về Huế ngay để tham dự cuộc rước Đức Tổng Giám mục từ Tòa Tổng Giám mục đến Nhà thờ Phú Cam”[24].
Từ ngày Ngô Đình Thục giữ chức Tổng Giám mục Địa phận Huế, áp lực của Cần lao Thiên Chúa giáo Ngô Đình Cẩn càng đè nặng lên đời sống tinh thần đối với nhân dân Huế nói chung và tín đồ Phật giáo nói riêng. Chính Đỗ Thọ, một tùy viên thân tín của Diệm cũng phải thừa nhận : “Tại Huế, hàng năm ngày lễ Giáng sinh được tổ chức rất tưng bừng. Cờ công giáo treo dọc đường ăn lan đến cầu Tràng Tiền. Cổng chào dựng lên khắp nơi, nhất là phía tả ngạn sông Hương. Điều này làm cho quần chúng Phật giáo bất bình. Vì từ xưa những cuộc lễ lớn về công giáo chỉ tổ chức quy mô bên địa phận Phú Cam mà thôi”[25].
Rồi việc Ngô Đình Thục dựa vào thế lực người em làm tổng thống đã buộc thuộc hạ của gia đình họ Ngô chuyển giao Viện Bài lao Huế cho tòa Tổng giám mục để trọn quyền khai thác. Ngày 2-6-1961, Bộ trưởng Phủ Tổng thống gửi công văn cho Ngô Đình Thục cho biết : “Phủ Tổng thống chấp thuận việc giao cho Quý Tòa (Tòa Tổng giám mục địa phận Huế - TG chú thích) quyền khai thác Viện Bài lao tại Huế với trọn quyền sở hữu các tài sản liên quan đến Viện này.
Tôi đã chuyển đến Bộ Tài chính hồ sơ về việc nói trên để hợp thức hóa vấn đề”[26] .
Tệ hại hơn nữa, Ngô Đình Thục còn tổ chức một lực lượng vũ trang riêng. Tờ Newsweek (New York) ngày 27-5-1963 cho biết : “Ở vùng biển phía Bắc quanh Huế có nhiều đơn vị nhỏ, trong những đoàn quân ấy được mệnh danh là “quân đội Tổng giám mục” chịu trách nhiệm trực tiếp với Tổng giám mục và có trách nhiệm chủ yếu là để bảo vệ nhà thờ và linh mục. Các linh mục được trang bị bằng vũ khí Hoa Kỳ và phần nào được cố vấn Mỹ huấn luyện”[27].
Ngô Đình Thục còn tậu mãi đất đai riêng cho mình. Phiếu trình của Tổng Thư ký Phủ Tổng thống ngày 13-11-1962 cho biết : “Đức Tổng Giám mục Ngô Đình Thục xin mua một thửa đất diện tích 2.140 m2 tại ấp Trường Cởi, xã Thủy Trường, Quận Hương Thủy, thuộc tư sản tỉnh Thừa Thiên, để sáp nhập vào bất động sản của Người ở kế cận” [28]. Công văn số 20.210-TT-HCTQ-3 của Tỉnh trưởng Thừa Thiên, Thị trưởng thành phố Huế gởi Bộ trưởng Bộ Cải tiến Nông thôn ngày 22-10-1962 cũng xác nhận : “Đức cha Ngô Đình Thục với danh nghĩa cá nhân mình, đứng mua sở đất nói trên và nhập vào bất động sản của Ngài chứ không phải mua cho Giáo hội như Tòa Tổng Thư ký Phủ Tổng thống đã nhận định tại Công văn số 310-TTP-TTK-1 ngày 1-9-1962” [29].
Không riêng Giám mục Ngô Đình Thục, hiện tượng khá phổ biến “linh mục chế” ở Thừa Thiên Huế. Tại làng Nam Dương, xã Quảng Vinh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, linh mục Nguyễn Văn Đông địa sở Thạch Bình[30] chiếm nghĩa địa làng Nam Dương. Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ (1-11-1963), vấn đề này mới ra lẽ. Đơn của Thiếu niên, học sinh thuộc ấp Nam Dương, quận Quảng Điền trình Ông Đoàn trưởng Đoàn Cải cách nông thôn Tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên ngày 15-12-1963 cho chúng ta rõ điều này : “Chúng em còn ít tuổi chỉ biết đi học trong văn hóa và lễ độ của thầy và cha mẹ, còn về phần pháp lý quốc gia chúng em chưa được am tường, nhưng chúng em đã thấy một hành động thậm ư áp bức toàn dân ấp chúng em về mặt vật chất lẫn tinh thần như:
Nghĩa địa ấp chúng em lẫn cây cối và mã mồ, thế mà trong năm 1961 linh mục Nguyễn Văn Đông địa sở Thạch Bình và Hội giáo Nam Dương cùng lực lượng dân các hội giáo khác đến cuốc phá mà gọi là trưng canh để trồng dương liễu và bát hà, mà toàn thể nhân dân ấp chúng em đã nhiều phen cực lực phản đối nhưng không được, vì uy thế cường quyền của chính thể Ngô Đình Diệm với một số người bộ hạ tay chân trong chức vụ danh nghĩa chính quyền và đoàn thể mà trong thực tế không hoạt động cho quốc gia dân tộc, đã cậy quyền đó để hoạt động cho độc tôn . . ..” [31].
Thêm vào đó, từ cuối năm 1961, đầu năm 1962, giới lãnh đạo Phật giáo Trung Phần tại Huế đã nhận được rất nhiều đơn thư của các tỉnh hội, quận hội và cá nhân Phật tử từ các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên gửi về cho hay tín đồ Phật giáo đang bị chính quyền Ngô Đình Diệm ở các cấp huyện, xã khủng bố hết sức nặng nề[32].
Chính sách thống trị của chính quyền Ngô Đình Diệm suốt chín năm ở Huế về cả mặt chính trị và tôn giáo như đã trình bày ở trên là hết sức tàn bạo và rất điển hình, đã động chạm đến hầu hết mọi tầng lớp nhân dân Huế, vốn đa số là tín đồ Phật giáo, gây ra trong nhân dân sự công phẫn cao độ. Đơn tố cáo của ông Đức Sinh Phan Văn Thí viết : “Tại miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Nhu lợi dụng chức vụ cố vấn chính trị cùng vợ y là Trần Lệ Xuân, dùng nhiều biện pháp con buôn chính trị, bóc lột đồng bào, đục khoét ngân khố quốc gia, gây lũng đoạn kinh tế, sát hại nhân tài, tiêu diệt khủng khiếp những phe đối lập và tàn sát Phật giáo đồ. Trong lúc đó, tại Trung Phần, Ngô Đình Cẩn với bầy tôi gồm một số sĩ quan và cận vệ khát máu đã nhiễu hại đồng bào, bắt giam trái phép và tra tấn dã man đa số thương gia và kỹ nghệ gia, để cưỡng đoạt tài sản của họ, Ngô Đình Cẩn không biết hổ mặt là một lãnh chúa miền Trung” [33]. Vì vậy, “dưới mắt của trí thức và hoàng tộc Huế, Cẩn chỉ là một con người ‘nông dân’, một con người ‘lỗ mãng’, ‘thất học’ và ‘quá khích’, leo lên ngôi vị sang cả nhờ thời thế đẩy đưa mà thôi. Giới trí thức thượng lưu ở Huế sợ Cẩn, ngán Cẩn nhưng họ rất khinh rẻ Cẩn”[34] . Người dân Huế “nhìn vào Cẩn, xa hơn nữa họ nhìn vào Nhu và Diệm ở Trung ương, họ chỉ thấy một cái gì khác lạ với con người, một cái mang từ ngoài vào, và không một chút nào dân tộc. Chính quyền Diệm, trong đầu óc của người dân Việt Nam, cũng chỉ là một giai đoạn lịch sử, một giai đoạn đen tối, nội chiến thê thảm và nhất thời”[35] ; và thực tế trong tinh thần và ý thức của người dân Huế, họ trông chờ cơ hội để vùng lên xóa bỏ chế độ bạo trị Ngô Đình Diệm. Hồi ký của một Phật tử viết : “Cuộc khủng hoảng vẫn tiếp diễn ở Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi. Phật tử bị chôn sống, bị thủ tiêu, áp bức đủ điều. Các báo cáo dồn dập gửi về cho Ban hướng dẫn Gia đình Phật tử Trung phần. Lần nữa, trò phải hỏi thầy: Đến mức này mà Hội và quý thầy không lo đối phó thì chắc chết hết, mà chắc anh em Gia đình Phật tử chúng tôi chết trước” [36].
Cơ hội đó thực sự đã đến khi chính quyền Ngô Đình Diệm cho đánh đi công điện số 9195 (6-5-1963) với nội dung cấm treo cờ Phật giáo thế giới trong Đại lễ Phật đản năm 1963. Và ngay lập tức, nhân dân Huế chộp lấy. Điều này giúp chúng ta hiểu tại sao cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam diễn ra đầu tiên ở Huế (7-5-1963) với khí thế cả “phố phường như bừng dậy trong một cuộc động quân. Khắp các đường phố, từ trong thành, Đông Ba, Gia Hội, từng đoàn người lũ lượt kéo qua cầu Trường Tiền. Từ Vĩ Dạ lên, ở trên Ga xuống, phía Kho Rèn. An Cựu về, dân thị xã và vùng phụ cận đổ xô về phía tỉnh đường đông nghịt cả người, đông một cách đáng sợ, như những cuồng phong tới, như bão tố lên”[37]. Đó cũng chỉ là một hiện tượng hợp quy luật, bởi lẽ “áp lực cao thì phản lực cường”.
_____________
Chú thích :
(1) Lê Duẩn, Thư vào Nam, NXB. Sự Thật, Hà Nội, 1985, tr. 248
(2) Bấy giờ miền Trung chỉ có Viện Đại học Huế, thành lập từ 1-3-1957.
(3) Xem thêm : Hội An Nam Phật học và vị trí của Huế trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam thế kỷ XX, Nghiên cứu tôn giáo, số 10 (202), 2020, tr. 20 - 41.
(4) Trước năm 1961, Ngô Đình Thục là Tổng Giám mục Địa phận Vĩnh Long.
(5) Công văn số 164-VP/CT/1-M ngày 16-8-1956 của Tỉnh trưởng Thừa Thiên gởi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu tài liệu : TNTP-HS.415.
(6) Công văn mật số 5140/CSCA/TB1.M2 ngày 29-5-1957 của Giám đốc Nha Cảnh sát và Công an tại Trung Việt gởi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu tài liệu: TNTP-HS.315 (2).
(7) Công văn mật số 5398/CSCA/TB1.M2 ngày 4-6-1957 của Giám đốc Nha Cảnh sát và Công an tại Trung Việt gởi Tổng giám đốc Cảnh sát và Công an Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu tài liệu: TNTP-HS.315 (2).
(8) Công văn mật số 1026/CSCA/TB1.M2 ngày 16-8-1957 của Giám đốc Nha Cảnh sát và Công an tại Trung Việt gởi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.353 (7).
(9) Công văn mật số 1937/CSCA/TB1.M2 ngày 4-3-1957 của Giám đốc Nha Cảnh sát và Công an tại Trung Việt gởi Tổng Giám đốc Cảnh sát và Công an Việt Nam Cộng hòa, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.315 (2).
(10) & (11) Công văn mật số 3630/TTNA/CT-BM ngày 12-12-1961 của Tỉnh trưởng Thừa Thiên gởi Tổng Quản đốc các Trung tâm cải huấn Sài Gòn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu tài liệu TNTP-HS.120 (1).
(12) Ngày 9-1-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm ra Dụ số 4 hủy bỏ ngày lễ Phật đản trong danh sách những ngày nghỉ lễ tôn giáo dành cho công chức và binh sĩ.
(13) Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao, Nxb. Mẹ Việt Nam, San Diego, CA, USA, 1993, tr. 165.
(14) Thanh Lãng, Văn chương bình dân, Nxb. Phong trào Văn hóa, Hà Nội, 1954, tr. 225-226
(15) Bùi Tuân, Xây dựng trên Nhân vị, Nxb. Nhận thức, Huế, 1956, tr. 23.
(16) Do vấp phải phản ứng của các tầng lớp xã hội, ngày 22-3-1962, chính quyền Ngô Đình Diệm ra Nghị định số 166/BNV/KS, số ngày cấm bán thịt heo trong tuần giảm xuống còn hai ngày: Thứ Sáu và Chủ nhật.
(17) Công báo Việt Nam cộng hòa, ngày 6-11-1961, Trung tâm lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu J.412.
(18) Thích Trí Quang, Cuộc vận động Phật giáo Việt Nam, Tuần báo Hải Triều âm, số 9, ngày 18-6-1964, tr. 2.
(19) Nguyệt Đạm & Thần Phong, Chín năm máu lửa dưới chế độ Ngô Đình Diệm, Tác giả xuất bản, Sài Gòn, 1964, tr. 227.
(20) Nguyệt Đạm & Thần Phong, sđd, tr. 289.
(21) Nguyệt Đạm & Thần Phong, sđd, tr. 300.
(22) Nguyệt Đạm & Thần Phong, sđd, tr. 303.
(23) Hồ sơ gửi Tổng thống và Quốc hội của Hội Phật giáo Trung phần ngày20-2-1962 (bản đánh máy), Thư viện Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn, 1968, tr. 1.
(24) Quân khu II, Bộ Tham mưu - Phòng III, Công văn số 0258 ngày 4-2-1961, Trích yếu V/v đón tiếp Đức Tổng Giám mục Địa phận Huế, Chi cục Lưu trữ Thừa Thiên Huế.
(25) Đỗ Thọ, Nhật ký Đỗ Thọ, NXB Đồng Nai, Sài Gòn, 1970, tr. 59.
(26) Trung tâm lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.7808.
(27) South Vietnam, The Mandarins of Hue, copy from Newsweek, May 27, 1963, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu: TM-HS, 209, tr. 1-3.
(28) Phiếu trình của Tổng Thư ký Phủ Tổng thống ngày 13-11-1962. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Ký hiệu tài liệu: ĐICH-14998.
(29) Công văn số 20.210-TT-HCTQ-3 của Tỉnh trưởng Thừa Thiên, Thị trưởng thành phố Huế gởi Bộ trưởng Bộ Cải tiến Nông thôn ngày 22-10-1962, Chi cục Văn thư Lưu trữ Thừa Thiên Huế.
(30) Thạch Bình là một làng thuộc xã Quảng Phước cùng huyện, tỉnh xã Quảng Vinh. Hai xã này sát liền kề nhau. Quảng Phước này thị trấn Sịa, huyện lỵ huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế
(31) Đơn của Thiếu niên, học sinh thuộc ấp Nam Dương, quận Quảng Điền trình Ông Đoàn trưởng Đoàn Cải cách nông thôn Tòa Tỉnh trưởng Thừa Thiên ngày 15-12-1963, Chi cục Lưu trữ Thừa Thiên Huế.
(32) Xem “Hồ sơ gởi Tổng thống và Quốc hội của Hội Phật giáo Trung phần ngày 20-2-1962”.
(33) Nguyệt Đạm & Thần Phong, sđd, tr. 258.
(34) Chu Bằng Lĩnh, sđd. tr. 135.
(35) Chu Bằng Lĩnh, sđd, tr. 202.
(36) Tâm Thiệt, Những đóm lửa đấu tranh trong “Trước cơn sóng gió”,Ban hướng dẫn Gia đình Phật tử Trung phần xuất bản, Huế, 1964, tr. 11.
(37) Qúy Linh, Mở đầu cuộc đấu tranh Phật giáo trong “Trước cơn sóng gió”, Ban hướng dẫn Gia đình Phật tử Trung phần xuất bản, Huế, 1964, tr. 13-26