<March 2025>
SunMonTueWedThuFriSat
2324252627281
2345678
9101112131415
16171819202122
23242526272829
303112345
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Lý Lăng - (Riryô, di cảo, 1943)
Tác giả: Dịch : Nguyễn Nam Trân

 

Lý Lăng

(Riryô, di cảo, 1943)

Nguyên tác :  Nakajima Atsushi

Dịch :  Nguyễn Nam Trân

Tô Vũ chăn dê (ảnh minh họa)

          Một

          Tháng 9 mùa thu năm Thiên Hán thứ hai đời Hán Vũ Đế (159 BC-87 BC), chức Kỵ Đô Úy là Lý Lăng thống suất 5.000 bộ tốt xuất phát từ Già Lỗ Chướng (Thành ngăn giặc rợ) để tiến lên miền Bắc. Họ hành quân như thế suốt 30 hôm xuyên qua những vùng đồi núi đầy cát đá ven sa mạc Gobi (Qua Bích) ở Đông Nam rặng Altai. Ngọn sóc phong lạnh buốt nhung y làm họ không khỏi cảm khái cho số phận một đám cô quân rong ruổi ngoài ngàn dặm. Khi đến được Tuấn Kê Sơn của vùng Mạc Bắc, rốt cuộc đoàn binh mới được lệnh đóng trại nghỉ chân. Nên biết địa điểm này nằm sâu trong vùng kiểm soát của địch tức bộ đội Hung Nô. Tuy mới chỉ vào thu nhưng vì là vùng cực Bắc nên cỏ mục túc đã héo khô, các loại cây như du và liễu tím đều trụi hết lá. Chẳng những lá mà thôi, ngay cả cây cối (ngoại trừ khu vực doanh trại) cũng khó tìm thấy. Chung quanh họ là một phong cảnh hoang vắng thê lương với những đụn cát và sỏi cuội cùng đá tảng nằm bên cạnh các dòng sông khô cạn đến trơ cả đáy. Mắt dõi về xa, họ cũng không sao nhìn thấy một ngọn khói nhà dân, lâu lâu trên cánh đồng trống trải mới có vài con linh đương kiếm nước uống.Thế rồi ở những ngọn núi đằng xa kia lại thấp thoáng có những bầy nhạn gấp rút sải cánh về Nam, kéo thành từng vệt dài trên bầu trời thu cao lồng lộng..Dù vậy, lòng những chiến sĩ đang ra sa trường vẫn chưa ai yếu mềm đến độ chạnh mối hoài hương. Đó cũng vì vị trí đang đóng quân là một nơi cực kỳ nguy hiểm.

          Để đối đầu với lực lượng Hung Nô toàn là kỵ binh, họ lại không mang theo quân kỵ nên hầu như chỉ là một toán lính bộ (những kẻ có ngựa để cưỡi là Lăng và vài viên tham mưu). Binh lực như thế mà dám tiến sâu vào lòng địch, chỉ có thể nói quân nhà Hán tỏ ra quá ngông cuồng. Hơn nữa, số lính chỉ có 5.000, hậu viện lại không, ngay ngọn Tuấn Kê Sơn này còn cách Cư Diên, ngôi thành gần nhất của nhà Hán, ít nhất là 1.500 dặm (tính theo đơn vị dặm của người Hán). Nếu chư quân không tin tưởng tuyệt đối và có đủ sự cảm mến cũng như phục tòng vị chỉ huy là Lý Lăng thì nhất định, họ không thể nào tiếp tục cuộc hành binh.

          Mỗi năm, cứ y như rằng khi gió thu bắt đầu nổi thì ở biên cảnh phía Bắc nhà Hán đã thấy xuất hiện đoàn quân đông đảo của những kẻ xâm nhập bạo tợn đang ra roi thúc lũ ngựa Hồ tiến xuống. Chúng giết quan giữ ải và cướp đoạt tài sản của dân chúng. Những vùng đất như Ngũ Nguyên, Sóc Phương, Vân Trung, Thượng Cốc, Nhạn Môn v.. v... không năm nào mà không bị Hung Nô gieo tai vạ. Nhờ tài thao lược của Đại Tướng Quân Vệ Thanh và Phiêu Kỵ Tướng Quân Hoắc Khứ Bệnh, trong một khoảng thời gian ngắn từ niên hiệu Nguyên Thú bước qua Nguyên Đỉnh, vùng Mạc Nam còn có thể xem như vương thổ, chứ suốt 30 năm trở lại đây thì cái họa từ phương Bắc vẫn đến một cách liên tục, nhất là mười tám năm sau ngày tướng Hoắc Khứ Bệnh tạ thế và bảy năm sau khi tướng Vệ Thanh lìa bỏ cõi đời. Có lần, Trác Dã Hầu Triệu Phá Nô thống lĩnh toàn quân đã hàng phục được giặc rồi Quang Lộc Huân Từ Tự Vi cũng đắp một tòa thành ở vùng Sóc Bắc (Thụ Hàng Thành) để ngăn chặn chúng, nhưng chẳng bao lâu thành này lại bị phá hoại.Trong các vị tướng soái đủ năng lực và xứng đáng với sự tin cậy của toàn quân Hán có lẽ chỉ có Nhị Sư [1] Tướng Quân Lý Quảng Lợi, người mới hồi năm ngoái (104BC) đã lập nên công trạng trong lần chinh phạt nước Đại Uyển.

          Năm ấy, chính xác là tháng 5 mùa hạ niên hiệu Thiên Hán thứ hai (103 BC), để ra tay trên đối với cuộc xâm lấn của Hung Nô, tướng Nhị Sư đã tự mình thống lĩnh 3 vạn thớt kỵ ra phía ngoài đất Tửu Tuyền. Bởi vì ông ta biết quân Hữu Hiền Vương của Hung Nô hàng năm vẫn dòm ngó vùng biên cảnh phía Tây (Tây biên) nên định tập kích họ ở khu vực núi Thiên Sơn. Vũ Đế lạ lệnh cho Lý Lăng phải đem lương thảo và vũ khí đến tiếp tế Nhị Sư. Thế nhưng khi được triệu đến Vũ Đài Điện trong Vị Ương Cung, Lý Lăng đã cực lực thỉnh cầu nhà vua xá miễn cho mình nhiệm vụ đó. Lăng đứng vào hàng cháu của một danh tướng đương thời là Phi Tướng Quân Lý Quảng.Từ thời trẻ, Lăng đã được xem như giỏi nghề kỵ xạ theo đúng phong cách của ông nội mình. Vài năm trước, Lăng đã được phong Kỵ Đô Úy và nhận lệnh ra đất Tửu Tuyền, Trướng Dịch để dạy nghề cung tiễn cho các chiến sĩ vùng biên cảnh phía Tây. Lúc đó tuổi ông cũng đã gần 40, một cái tuổi khí huyết phương cương. Vận lương không phải là công việc có gì phải đáng xấu hổ. Thế những quân sĩ mà thần có nhiệm vụ đào tạo ở ngoài biên đều là con em đất Kinh Sở, những dũng sĩ một ngựa có thể địch lại nghìn người (nhất kỵ đương thiên). Xin thánh thượng cho phép thần được dẫn một toán quân như vậy đánh vào mạn sườn Hung Nô để khiên chế chúng. Trước bi nguyện của Lăng, đến Vũ Đế mà cũng phải gật gù. Thế nhưng vì phải liên tục gửi quân đi tứ phương nên Đế không còn dư ngựa đế ghép vào đội kỵ mã của Lăng. Dù vậy, Lý Lăng cũng không lấy đó làm phiền. Có thể kẻ khác sẽ cho là ông đã làm một việc vô lý nhưng sau đó, nếu Lăng chịu nhận mệnh đi vận lương chỉ vì ông muốn chia sẻ sự hiểm nghèo cùng 5.000 bộ hạ đã từng vì mình mà vào sinh ra tử. Vũ Đế là người thích những kẻ có khẩu khí nên hết sức cao hứng khi nghe Lăng thưa: Thần nguyện lấy ít chọi đông(Thần nguyện dĩ thiểu kích chúng) và đã chấp nhận ý nguyện của Lăng..Sau khi trở về Trướng Dịch vùng biên cảnh phía Tây, Lăng đã tụ họp quân sĩ rồi cùng nhau tiến lên hướng Bắc. Lúc bấy giờ, tướng chỉ huy lực lượng đồn trú ở thành Cư Diên là Cường Nỗ Đô Úy Lộ Bác Đức. Sau khi tiếp được thánh chỉ, ông ta đã ra đến nửa đường để nghênh đón quân Lăng. Đến giai đoạn này, mọi sự đều diễn ra một cách tốt đẹp, hiềm là kể từ đó về sau, nó trở nên vô cùng khó khăn. Nguyên lai, viên lão tướng Lô Bác Đức này từ xưa vẫn là bộ hạ trong quân đoàn của Đại tướng Hoắc Khứ Bệnh và đã được phong đến chức Bi Ly Hầu, đặc biệt là 12 năm về trước, ông đã từng lãnh chức Phục Ba Tướng Quân, dẫn một đạo binh 10 vạn người tiêu diệt nước Nam Việt [2] . Vì phạm vào phép nước, ông đã bị giáng chức, rơi xuống địa vị hiện nay và sau đó được cử đi canh giữ vùng Tây biên. Nói về mặt tuổi tác, khoảng cách giữa Lý Lăng và Lộ Bác Đức chẳng khác nào giữa cha con. Một viên lão tướng từng được “phong hầu” như ông mà nay lại phải chịu ở thế hạ phong trước một viên tướng trẻ như Lăng thì làm sao ông không cảm thấy bực bội. Khi đưa quân ra đón Lăng, ông đã soạn sẵn một tờ biểu và cho người gửi ngay về kinh đô để thượng tấu. “Đây là lúc “thu cao ngựa béo”, lực lượng kỵ mã của Hung Nô cực kỳ hùng mạnh. Đạo quân đơn lẻ chúng ta sắp gửi đi thật khó lòng đương cự với đoàn kỵ binh tinh nhuệ của chúng . . . Chúng thần tin rằng nếu hoàng thượng cho phép Lăng đón năm mới ở đây cùng với chúng thần, đợi đến lúc xuân về,sẽ hiệp lực với kỵ binh ở Tửu Tuyền và Trướng Dịch, mỗi vùng 5.000 thớt ngựa để cùng xuất kích thì mới đúng là kế sách an toàn. Nội dung lời văn thượng tấu là như vậy nhưng dĩ nhiên là Lăng không hề hay biết việc đó. Khi nhận được tờ biểu của Lộ Bác Đức, Vũ Đế đã hết sức phẫn nộ. Ông nghĩ rằng Lý Lăng và Lộ Bác Đức sau khi bàn bạc, đã toa rập với nhau để viết ra biểu văn này.

          “Trước mặt ta, Lý Lăng đã mặc tình ăn to nói lớn, nhưng sau khi vừa đi ra ngoài biên địa, tính khí của hắn đột nhiên trở thành nhát nhúa. Thế là thế nào ?”  Đế đã tức tốc cho sứ giả rời kinh đô phi ra ngoài .biên ải, đến ngay chỗ của cả Đức và Lăng, để phán rằng :  “Trước đây Lăng đã đại ngôn với ta khi ở trong triều là hắn sẽ “lấy ít chọi đông” cho nên nhà ngươi không việc gì phải mất công hiệp lực với hắn. Hiện nay, quân Hung Nô đã xâm nhập vào đất Tây Hà (phía Tây sông Hoàng Hà), vậy ngươi hãy để Lăng tại chỗ và đem binh ra Tây Hà chẹn đường địch quân thì mới đúng là việc phải làm !”. Đó là lời chiếu mà Vũ Đế đã hạ xuống để trả lời Lộ Bác Đức. Còn như trong tờ chiếu gửi cho Lăng, nhà vua đã bắt ông ta phải đem ngay quân đi trinh sát tuần phòng các vùng từ Tuấn Kê Sơn ở phía Đông cho đến bờ Long Lặc Thủy ở phía Nam. Nếu như thấy không có chuyện gì đáng lo ngại thì hãy theo con đường cũ của Trác Thủy Hầu mà đưa quân đến tận Thụ Hàng Thành để sĩ tốt có thể tạm nghỉ ngơi. Dĩ nhiên trong lời chiếu cũng có chỗ chất vấn Lăng kịch liệt, nhà vua hỏi ông đã bàn gì với Lộ Bác Đức để dâng một tờ biểu với nội dung như thế. Dù gác qua một bên việc phải dẫn một cánh quân đơn độc đi loanh quanh trong lòng đất địch vốn là điều vô cùng nguy hiểm, việc định sẵn lộ trình tiến quân hàng nghìn dặm cho một đạo quân không có kỵ binh như thế này rất khó lòng thực hiện. Tốc độ hành binh của một đạo quân chỉ có lính đánh bộ cũng như cơ bắp cần có để đẩy những cỗ xe hàng dưới tiết Đông đất Hồ thì bất cứ ai cũng có thể hiểu là thế nào rồi. Vũ Đế quyết không phải là một ông vua hôn ám nhưng ông đã hội đủ những sở trường và sở đoản của các vị vua vốn cũng không phải là hôn quân như Dạng Đế nhà Tùy và Thỉ Hoàng nhà Tần. Sau khi phong cho người anh của Lý phu nhân, nàng phi tần mà ông rất mực sủng ái làm Nhị Sư Tướng Quân, khi thấy ông này đã lấy cớ không đủ binh lực, định rút lui khỏi nước Đại Uyển, ông đã nổi trận lôi đình và hạ lệnh đóng cửa Ngọc Môn Quan không cho quay về. Việc ông tạo ra cuộc chinh phạt Đại Uyển cũng chỉ nhằm bắt cho được những con ngựa hay và quí giá (thiện mã) sinh sản ở đất nước ấy. Mỗi lần Đế tuyên bố điều gì này, đù là những ước muốn ngông cuồng, thần hạ nhất định phải làm cho bằng được. Hơn nữa, trong trường hợp của Lý Lăng, Đế cho rằng đầu tiên nó đã phát xuất từ một lời nài xin của chính Lăng (cho dù yếu tố thời tiết và địa lý đã khiến cho lời xin này có phần nào vô lý) nên Lăng không có lý do nào để chần chờ . Và như thế, Lăng đã phải làm một “cuộc Bắc chinh không có quân kỵ đi cùng”.

          Đoàn quân của Lăng dừng lại trong vùng núi Tuấn Kê trên cả mười ngày. Trong thời gian này, mỗi ngày Lăng đều gửi xích hầu đi thăm dò dấu tích địch. Dĩ nhiên những người này cũng thừa dịp để làm nhiệm vụ vẽ bản đồ sông núi và địa hình các vùng phụ cận để báo cáo về kinh đô. Bản báo cáo ấy sẽ được một thủ hạ dưới quyền Lăng có tên là Trần Bộ Lạc đơn thân độc mã chuyển về Trường An. Sau khi vái Lăng một vái, Lạc đã leo lên một con ngựa trong số ngựa ít ỏi chưa đến 10 con của đoàn quân và ra roi phóng lên đồi. Bóng người ngựa nhỏ dần giữa cảnh vật bàng bạc một màu tro xám . . .  Các tướng sĩ chỉ biết đưa mắt lo lắng nhìn theo như để tiễn chân.

          Trong thời gian 10 hôm đó, cả vùng Đông Tây hơn ba mươi dặm chung quanh Tuấn Kê Sơn vẫn không thấy có gì, dù chỉ là một bóng Hồ binh.

          Trong quân ai cũng biết rằng hồi hè năm nay, binh đoàn của tướng Nhị Sư đi trước đã xuất kích ở vùng Thiên Sơn và phá được quân của Hữu Hiền Vương. Thế nhưng trên đường về, họ đã bị một đạo quân Hung Nô khác bao vây rồi thảm bại dưới tay chúng. Nếu như có mười thì đám quân Hán đó đã chết đến sáu, bảy. Ngay bản thân đại tướng họ Lý cũng có lúc lâm nguy . . . Những chi tiết như thế cũng đã lọt vào tai họ.Thế thì câu hỏi đang được đặt ra là đạo chủ lực đánh bại lực lượng của Nhị Sư Lý Quảng Lợi hiện giờ đang đóng ở đâu ?. Hiện tại, Nhân Vu Tướng Quân Công Tôn Ngao đang đối đầu với một đám địch quân ở vùng biên cương Hà Tây, Sóc Phương (nơi mà Lộ Bác Đức sau khi chia tay Lăng đã vội vàng đến đó ứng viện) thì đoàn quân nói trên của địch (nếu tính toán vừa thời gian vừa đường đất) không thể nào là đạo chủ lực vừa mới đề cập tới. Lý do là đạo quân đó không thể nào di chuyển một cách nhanh chóng từ rặng Thiên Sơn (nơi họ đụng độ quân Nhị Sư, NNT) về Hà Nam (Ordos), địa điểm cách đó những bốn nghìn dặm về phía Đông. Đạo chủ lực đó của Hung Nô tất phải đóng binh ở một chỗ không xa nơi đoàn quân của Lăng đang dừng chân, cùng lắm là phía bắc sông Chí Cư Thủy. Vì vậy mỗi ngày Lý Lăng thường tự mình đi ngựa lên đỉnh núi trước mặt, dõi mắt về xa và nhìn xuống bốn phương tám hướng. Tuy nhiên, từ phía Đông cho đến phía Nam, ông chỉ thấy mang mang một dãi bình sa, còn như từ phía Tây và về hướng Bắc, toàn những ngọn núi thấp như gò đất, cây cối thưa thớt, nằm liên tiếp bên nhau. Giữa đám mây mùa thu, đôi khi Lăng nhận ra những con chim giống như ưng hay diều hâu đang bay trên nền trời nhưng đến khi ông nhìn xuống mặt đất, tuyệt không có một thớt ngựa Hồ nào.

          Lăng bèn dàn quân thành nhiều trại vây bọc lấy nhau ngoài bìa một khu rừng thưa cạnh hẻm núi, bên trong thì giăng màn trướng liên tiếp như một trận doanh. Ở đây, đêm đến, nhiệt độ đột ngột xuống thấp, sĩ tốt đã phải nhặt nhạnh những cành cây vốn đã rất hiếm hoi để đốt lên cho đỡ lạnh.Được chừng mười hôm thì họ không còn thấy trăng đâu nữa. Có lẽ không khí bị khô nên những vì sao đêm trông rất rõ và đẹp. Trong khi những ngọn núi nằm kề bên nhau vẫn ẩn mình trong bóng tối, thì mỗi đêm, chòm sao Thiên Lang (Sirius) với những tia sáng màu xanh biếc lại chiếu nghiêng nghiêng như muốn soi đường cho chúng. Được trên mười đêm vô sự như thế, nay đã đến cái đêm mà họ quyết định là hôm sau sẽ nhổ trại và hành quân theo lộ trình đã được vạch sẵn nghĩa là đi về hướng Đông Nam. Bỗng một người lính tiền tiêu khi vô tình ngước mắt nhìn lên chòm sao Thiên Lang trên đầu, chợt nhận ra rằng bên dưới nó lại có một ngôi sao khá lớn màu hùng hoàng vừa hiện ra. Trong khi anh ta thảng thốt kêu một tiếng “Chao ôi !” thì ngôi sao lớn kia mà anh chưa nhìn thấy bao giờ, đã bắt đầu quẩy cái đuôi thật to và đỏ rực của nó. Thế rồi lần lượt sau đó là hai, ba, bốn năm cái đuôi như vậy, có cùng màu sắc và chu vi, đã hiện ra và di động theo. Khi anh lính tiền tiêu chợt kêu thành tiếng thì từ phía đó, bỗng nhiên ánh đèn đằng xa cũng đồng loạt biến dạng. Người lính ấy cứ ngỡ những điều vừa thấy chỉ đến từ một giấc chiêm bao.

          Khi Lý Lăng tiếp được thông tin từ người lính tiền tiêu, ông đã hạ lệnh ngay cho sĩ tốt là sáng hôm sau, vào lúc vừa tờ mờ đất, phải chuẩn bị chỉnh tề để sẵn sàng nghênh địch. Sau khi ra ngoài đi một vòng tuần tra từng đơn vị một, Lăng đã ở lại bản doanh và nằm xuống ngủ vùi, tiếng ngáy to như sấm.

          Sáng ngày, khi vừa tỉnh giấc, Lăng bèn ra ngoài xem xét thì thấy toàn quân đã chấp hành nghiêm chỉnh quân lệnh ông ban xuống tối qua và đang chờ địch tới. Họ đã ra hết bên ngoài để dàn trận với cách phối trí là hàng trước thủ kích dài và lá chắn, còn hàng sau phải chuẩn bị đủ cung nỏ trên tay. Cái thung lũng hẹp kẹp giữa hai sườn núi này trông có vẻ tĩnh lặng trong ánh sáng tờ mờ của buổi bình minh, nhưng dưới bóng những ghềnh đá, đâu đâu cũng tóat ra khí phách của một tinh thần quyết chiến.

          Vừa khi ánh sáng của mặt trời ban mai rọi xuống khắp thung lũng (Thiền Vu của người Hung Nô lúc nào cũng làm lễ chào mặt trời trước khi hành động), thì đã thấy từ phía đỉnh cho đến hai bên sườn núi đồng loạt có vô số bóng người (cho đến bây giờ không biết họ đã nấp ở đâu) đang túa ra. Khi Hồ binh từ trên sườn núi đổ xuống, tiếng la hét thị uy của họ rúng động cả đất trời. Lúc đám lính tiên phong Hung Nô chỉ còn cách đó chừng hai mươi bước thì từ bên trong trận doanh nhà Hán bắt đầu nổi lên những hồi trống lớn như muốn nhận chìm khí thế của địch. Ngay tức khắc, hàng nghìn mũi tên đã bắn ra một lọat và theo tiếng cung bật, hàng trăm lính Hồ đã nhất tề ngã xuống. Không chờ đợi thêm một giây, đám lính hàng trước đang cầm kích đã đứng bật lên rồi tấn công vào toán lính Hồ còn chưa gục ngã. Quân Hung Nô hoàn toàn tan rã và phải chạy thục mạng để lui về phía sườn núi. Quân Hán liền đuổi theo truy cấp và kết quả là đã lấy được vài nghìn thủ cấp địch quân.

          Tuy đạt được thắng lợi ròn rã như thế như Lăng biết chắc rằng đối phương là những kẻ địch ngoan cường, không thể chịu thua và rút lui dễ dàng như vậy. Nội quân số hôm nay,chúng đã có ít nhất khoảng ba vạn người. Hơn nữa, cứ nhìn tín hiệu đến từ những lá quân kỳ đang bay phấp phới trên đỉnh núi thì biết ngay đây là toán lính thân vệ của Thiền Vu. Và nếu như Thiền Vu có mặt thì phải hiểu rằng hãy còn từ tám đến mười vạn quân đang tập kết đằng sau đợi lệnh và đương nhiên sẽ lần lượt xuất trận. Do đó Lý Lăng đã tức tốc ra lệnh cho quân mình phải triệt thoái khỏi đó và di chuyển về hướng Nam. Như thế quan quân nhà Hán đã đổi ý, bỏ lộ trình họ đã định từ tối hôm qua nghĩa là đi về phía Thụ Hàng Thành [3] vốn còn còn cách đó những 2.000 dặm về hướng Đông Nam mà chọn con đường cũ nửa tháng trước đã đưa họ đến đây, để trở lại phía Nam. Họ muốn vào được ải Cư Diên sớm ngày nào hay ngày nấy (dù nơi đây cũng cách chỗ họ vừa rời khỏi đến một nghìn mấy trăm dặm).

          Trưa ngày thứ ba trong chuyến xuôi Nam, quân Hán bất ngờ thấy ở ven đường chân trời xa xôi phía Bắc đằng sau lưng họ có một vầng bụi vàng giống như đám mây đang ùn ùn nổi dậy. Đó là đám kỵ binh Hung Nô đang có nhiệm vụ truy kích họ. Ngày hôm sau thì cả tám vạn Hồ binh lợi dụng tốc lực của ngựa chiến, đã đến vây kín lấy quân Hán không chừa một đường tơ kẽ tóc, từ mặt trước đến mặt sau lẫn hai bên sườn trái và sườn phải. Duy có một điều là, lấy kinh nghiệm của bài học hôm qua, họ không cho quân đến thật gần mà chỉ bao vây từ xa đoàn quân Hán đang trẩy về Nam, từ xa phóng những mũi tên về hướng địch từ lưng ngựa chiến. Khi nào Lý Lăng cho quân dừng bước, lập thế trận để dẵn sàng nghênh chiến, Hồ binh lại rong ngựa ra xa như muốn tránh đụng độ trực tiếp. Rồi khi quân Hán bắt đầu trở lại cuộc hành trình, họ bèn đến gần hơn và phóng tên ra. Dĩ nhiên tốc độ cuộc hành binh của Hán binh vì đó đã chậm đi một cách rõ ràng so với những ngày đầu và con số thương vong được xác nhận ngày càng tăng lên. Quân Hung Nô đã theo một chiến pháp giống như chó sói vùng đồng hoang khi rình rập khách bộ hành, nghĩa là họ cứ kiên nhẫn đi theo bên cạnh, lâu lâu gây ra thương vong để đối phương suy yếu, canh chừng cơ hội xem lúc nào địch mệt lả để nhào tới vung đao thích cho một nhát để kết liễu tính mệnh . . .

          Cứ như thế, lúc đánh, lúc lui, Hán binh tiếp tục di chuyển về hướng Nam. Được vài hôm, quân Hán chọn phương kế đình quân lại nghỉ chân một hôm trong một vùng thung lũng núi non. Lúc ấy con số thương vong của họ đã lên đến khá cao. Lý Lăng bèn cho kiểm tra (điểm hô) tình huống để xem số tổn thất đã đến cỡ nào. Xem xét xong, ông ra lệnh cho sĩ tốt những ai chỉ bị một vết thương thì vẫn phải cầm binh khí như một người lính bình thường, ai bị đến hai vết thương cũng phải trợ lực vào việc đẩy xe hàng, còn kẻ bị ba vết thương thì mới được khênh bằng cáng để di chuyển. Nhân vì không đủ nhân sự dùng cho việc chuyên chở nên tất cả xác chết đều bị bỏ lại giữa cánh đồng hoang vì không còn cách khác. Đêm hôm đó, khi thị sát chung quanh chỗ bố trận, Lý Lăng bỗng phát hiện ra rằng trong một cỗ xe chớ hàng hóa vật dụng bóng một người con gái mặc quần áo đàn ông. Sau khi ra lệnh khám xét đến từng cỗ xe một, ông đã lôi ra được khoảng mười người đàn bà ăn mặc nam trang như thế. Trong những năm gần đây, khi bọn đạo tặc ở vùng Quan Đông bị hành hình, vợ con của chúng đều bị trục xuất, phải ra sống ở vùng biên cảnh phía Tây (Tây biên). Trong số các quả phụ như vậy, nhiều người đã vì cơm áo mà trở thành vợ của lính biên phòng hay hành nghề gái đĩ, đặc biệt phục vụ cho đám khách tìm hoa trong quân đội. Con số những người này không phải là ít. Đó là những kẻ đã nấp trong những chiếc xe kia khi đi theo đám lính tùng chinh vùng Mạc Bắc. Lý Lăng bèn giận dữ ra lệnh cho sĩ quan của mình chém đầu bọn đàn bà nhưng đối với những sĩ tốt đã đem họ theo cùng, ông ta không thẩm vấn lấy một lời. Khi bị dẫn ra ngoài vùng đất trũng bên bờ khe để hành hình, bọn phụ nữ đã khóc lóc thảm thiết. Được một lúc thì những tiếng nghẹn ngào ấy đã vụt biến đi như bị nuốt trọn bởi bầu không khí tĩnh lặng của trời đêm. Cả đám sĩ tốt trong doanh chỉ biết lặng người nghe chứ không dám thốt lên lời nào.

          Sáng ngày, sau một thời gian vắng bóng, Hán quân mới thấy Hồ binh đến sát bên mình. Lần này toàn thể quân binh đã quyết chí nghênh chiến kẻ thù cho nên Hồ binh đã bỏ lại đến ba nghìn xác chết. Quân Hán đã tỏ cho kẻ địch sự phẫn nộ của họ đã lên đến tột cùng sau nhiều ngày bị chiến thuật du kích dai dẳng kiểu mèo vờn chuột của đám kỵ binh người Hồ. Hôm sau, họ tiếp tục triệt thoái về phía Nam theo con đường Long Thành. Một lần nữa, binh đoàn Hung Nô lại áp dụng chiến thuật “bao vây từ xa” (viễn quyển) như trước đây. Đến ngày thứ năm, quân Hán đã thấy trêndải bình sa họ đang tiến bước, lâu lâu lại hiện ra những vùng đất trũng trông như đầm bùn. Nước ở đây đã đóng băng quá nửa nhưng bùn vẫn sâu có thể lút cả cổ. Họ cứ đi, đi mãi nhưng cánh đồng lau khô nằm trước mặt không biết bao giờ mới dứt. Mượn thế đang ở đầu ngọn gió (kazakami), một toán lính Hung Nô đã chạy vòng đến đến phóng hỏa. Ngọn sóc phong làm cho ngọn lửa bùng lên thô bạo, đến nổi ngay giữa ban ngày mà đã khiến cho vùng ánh sáng đang chiếu bỗng mờ đi. Lửa còn đuổi theo quân nhà Hán bằng một tốc độ nhanh khủng khiếp. Lý Lăng bèn ra lệnh đốt rụi những khóm lau gần đoàn quân của mình hơn cả, nhờ đó cuối cùng họ mới thoát khỏi sự tấn công bọn phóng hỏa. Tuy trị hỏa thành công nhưng cái khó khăn khi phải kéo xe trên mặt đất lún thì thật không bút nào tả xiết. Vì không tìm ra một chỗ nghỉ chân, họ cứ phải lê lết trong bùn suốt đêm cho qua khỏi chốn đó. Đến sáng hôm sau, khi vừa đến vùng đất có gò cao, chưa gì họ đã thấy đạo quân chủ lực của địch đi bọc lên đàng trước tự hồi nào và đang chờ họ để tập kích, Người ngựa sát vào nhau trong thế cận chiến. Nhằm tránh đụng chạm thẳng cánh với đội kỵ binh của địch, quân Lăng bèn bỏ lại những cỗ xe vướng víu và chạy vào cánh rừng thưa bên dưới sườn núi và chọn nơi đó làm chỗ giao tranh. Nấp trong rừng bắn ra thì rõ ràng xạ tiễn sẽ có hiệu quả hơn, đôi khi họ còn có thể nhắm vào chính Thiền Vu và toán cận vệ của ông vì nhóm này thường xuất hiện ở đầu đoàn quân. Họ lại sử dụng loại “liên nỗ” vốn bắn được nhiều phát một lượt. Trong một lần như vậy, con ngựa trắng của Thiền Vu đã cất hai chân trước lên cao và đứng thẳng người như một cây cột. Cứ thế mà bị ngựa hất người chủ tướng Hồ binh trong lớp áo bào xanh ngã xuống mặt đất. Hai tên lính kỵ hộ vệ không cần rời yên ngựa, từ hai bên tả hửu đã đến xốc đại vương của họ và bốc ông lên. Thế rồi cả đoàn quân đã nhanh nhẹn vây quanh rồi cũng nhau rút lui. Sau một vài khắc hỗn chiến như vậy, quân Hán mới tạm đuổi được những kẻ địch gan lì nhưng phải nói là trong suốt cuộc hành binh này, chưa bao giờ họ gặp phải cảnh chiến đấu khó khăn như vậy. Cho dù lần này, quân địch cũng đã để lại vài nghìn xác chết nhưng sự tổn thất nhân mạng phía quân Hán cũng phải lên tới một nghìn.

          Nhờ lời khai của một chiến binh người Hồ bị cầm tù hôm ấy, phía Hán biết được một số địch tình. Theo đó thì Thiền Vu đã phải cảm thán về sức đề kháng của quân nhà Hán vì dù gặp quân địch nhiều đến hai mươi lần mà vẫn không hề khiếp sợ, mỗi ngày vẫn đi xuống phía phía Nam như lập mưu dụ dỗ toán quân ông đi theo. Thiền Vu ngờ rằng, đến một địa điểm nào đó, họ có thể hợp đồng với quân nhà để giăng bẫy phục kích. Phái chủ chiến trong quân Hung Nô vẫn cho rằng nếu một đại quân do chính Thiền Vu thống lãnh với hàng vạn kỵ binh mà không thắng nổi đám cô quân thì người Hồ đâu còn thể diện nào nữa. Tuy nhiên, ông đã trấn áp họ và ra lệnh rằng từ nơi này đi về phía Nam chừng 40 hay 50 mươi dặm sẽ có một vùng núi non và thung lũng nối liền bên nhau, quân ta sẽ ra hết sức tấn công chúng ở đó. Ví bằng lúc ra đến vùng bình nguyên mà còn chưa tiêu diệt được chúng, lúc ấy, sẽ nghĩ đến chuyện rút lui về Bắc. Nghe quyết định bên trong quân địch là như thế, nhóm sĩ quan chỉ huy của quân Hán từ viên Hiệu Úy Hàn Diên Niên cho đến các mạc liêu khác đều cảm thấy có một tia hy vọng nhỏ đang nhen nhúm và nghĩ rằng họ có thể thoát hiểm.

          Ngày hôm sau, quân Hung Nô tiến kích kịch liệt. Phải chăng đây là những đợt tấn công dữ dội để kết thúc chiến dịch mà tù binh người Hồ cảnh báo vừa bắt đầu hay chăng ?  Cuộc tấn công đã xảy ra mười mấy lần trong một ngày. Quân Hán vừa phản kích một cách ngoan cường vừa tiếp tục cuộc hành trình về phương Nam dù chậm chạp. Sau ba ngày như thế, tất cả đã thấy một dải bình nguyên hiện ra trước mắt. Trên mặt đất bằng và với số kỵ binh đông đảo, quân Hung Nô nghĩ rằng sẽ áp đảo quân Hán như trò trẻ. Thế mà khi trận đánh kết thúc, họ đã phải rút lui sau khi để lại trên bãi chiến trường đến hai nghìn xác chết. Nếu như lời khai của tù binh là thành thật, thì cuộc truy kích của người Hồ sẽ chấm dứt nơi đây. Tuy nhiên, đó chỉ là lời khai của một tên lính quèn làm sao ai tin cho được. Vậy mà trong đám mạc liêu, ai nấy đều cảm thấy mình vừa trút xong gánh nặng.

          Khổ là ngay tối hôm đó, một viên quân hầu phía Hán tên là Quản Cảm lại bỏ hàng ngũ chạy qua đầu hàng Hung Nô. Thời niên thiếu, hắn ta vốn là một đứa du đãng ở kinh đô Trường An, đêm hôm trước vì một hành vi phạm lỗi trong khi đi thám báo, hắn đã bị quan Hiệu Úy Thành An Hầu Hàn Diên Niên đem ra sỉ vả trước mặt binh sĩ, lại còn phạt roi nữa. Trong số lý do đưa hắn đến hành động như vậy còn có cả việc vợ hắn nằm trong số những người đàn bà đã bị đem ra khe nước chém vào mấy hôm trước. Quản Cảm cũng biết rõ về lời khai của người tù binh Hung Nô khi bị hỏi cung. Vì vậy khi được đưa vào.doanh trại Hung Nô và được dẫn đến gặp Thiền Vu, hắn đã thuyết phục ông là sẽ không có khả năng bị phục binh nào cả. Hắn còn nói quân Hán không có viện binh và số lượng tên dùng để bắn hầu như đã cạn kiệt. Kẻ bị thương càng ngày càng đông và họ đã cản bước tiến của cuộc hành binh rất nhiều. Ngoài ra, thành phần chủ lực của đoàn quân này gồm hai đội, mỗi đội có tám trăm người lính và nằm dưới quyền chỉ huy của Lý tướng quân (Lý Lăng) và quan Hiệu Úy An Thành Hầu Hàn Diên Niên. Tùy theo đội, họ mang hai màu cờ vàng và trắng. Nếu ngày mai Thiền Vu chọn lấy những kỵ binh tinh nhuệ làm mũi nhọn và tập trung tấn công vào đám lính mang hai màu cờ ấy, tất sẽ phá được. Đám còn lại sẽ bị tan vỡ dễ dàng v. .v . . . Thiền Vu lấy làm vui mừng và đãi Cảm trọng hậu. Sau đó ông ta đã hủy bỏ lệnh triệt thoái về Bắc.

          Hôm sau, Thiền Vu liên tục cho kêu gọi Lý Lăng và Hàn Diên Niên về hàng và ra lệnh những kỵ binh tinh nhuệ nhất của mình lập thành hai đạo chủ lực, chỉ nhắm vào chỗ có cờ vàng và cờ trắng mà tấn công. Trước áp lực đó, quân Hán đã phải từ từ rút từ vùng đất bằng để về phía chân núi phía Tây. Rốt cuộc, cả bọn họ đã dồn vào vùng núi non và xa mất con đường chính. Bị bao vây tứ phương, họ lãnh đủ những mũi tên do địch quân từ những ngọn núi bắn xuống. Dù có muốn ứng chiến thế nào chăng nữa, số tên mang theo đã gần hết. Lúc từ biên thành Già Lỗ Chướng bước ra, mỗi người được cấp 100 mũi tên, vị chi tất cả đoàn quân có được 50 vạn mũi nhưng họ đã bắn không còn gì. Chẳng những số tên mà thôi, toàn thể các loại vũ khi như đao, thương, kiếm, kích giờ đây đã gãy hay khuyết đến phân nửa. Đúng như câu thấy trong sách vở, đây là cảnh “Đao chiết cung tận” (Đao gãy, cung hết tên). Dù vậy, kẻ không còn thương hay qua, kích đã tiện lấy càng xe vác lên vai, còn lớp chỉ huy cũng dùng đao ngắn để tham gia chiến đấu. Hẻm núi càng đi vào sâu càng hẹp, Hồ binh đã chực sẵn khắp nơi và lăn những tảng đá lớn xuống từ trên ghềnh cao.. Phương pháp chiến đấu này còn hiệu quả hơn cả cung tên vì nó đã làm tăng thêm con số thương vong của Hán binh. Tử thi lẫn đá được ném xuống đã chất thành đống đến nghẽn đường làm cho họ không để nào tiến ra phía trước.

          Đêm hôm đó, Lý Lăng mặc áo ngắn và nai nịt gọn ghẽ, dặn không ai được theo rồi một mình rời doanh trại ra ngoài.Vầng trăng từ trong hẽm núi hẹp như đang dòm xuống và soi cho thấy đống tử thi chồng chất. Ngày Lăng triệt binh ở núi Tuấn Kê hãy còn chưa có trăng mà nay vầng trăng đã bắt đầu sáng lên rồi. Ánh trăng và lớp sương đầm đìa trên mặt đất khiến cho thành dốc của những bìa đá trông như ướt nước. Bọn lính trong bản doanh khi thấy Lăng nai nịt như vậy đã đoán biết chủ tướng của họ muốn một mình đi thám thính binh tình của địch, và nếu thời cơ cho phép, sẽ đâm chết Thiền Vu ,chứ không có mục đích khác.Tuy vậy, họ chờ đợi mãi mà vẫn không thấy Lăng trở về. Đôi lúc, họ nén thở và đưa mắt nhìn ra phía ngoài. Từ trên lũy của địch, họ nghe vọng tới tiếng khèn người Hồ (Hồ già) ai thổi. Được một lúc lâu, bỗng thấy bóng Lăng nâng cửa trại đi vào mà hoàn toàn không gây ra một tiếng động. “Hỏng bét !”. Sau khi bực tức thốt ra mỗi tiếng đó, ông đã gieo người xuống chỗ nằm. Một đỗi sau, ông lại buông ra một câu như muốn tự nhủ: Chúng ta không còn cách nào khác ngoài việc chết trong tủi nhục”. Chung quanh ông, không một kẻ dám mở miệng. Mãi sau mới có một viên sĩ quan dám nói. Nghe đó thì mới biết năm xưa Trác Thủy Hầu Triệu Phá Nô bị giặc Hồ bắt sống và sau này mới trốn được về đất Hán, Vũ Đế đã không bắt tội ông ta. Từ tiền lệ đó suy ra, lần này Lý Lăng dù quân cô thế yếu mà vẫn đủ làm quân Hung Nô khiếp sợ đến vỡ mật như thế thì khi thoát được về đến kinh đô, chắc thiên tử cũng sẽ hiểu cho hoàn cảnh khó khăn mà Lăng gặp phải. Tuy nhiên, Lăng đã ngăn họ lại và bảo: “Các ngươi hãy dẹp qua một bên trường hợp của ta! Đêm nay dù chỉ còn sót lại 10 mũi tên, chúng ta vần có thể phá vòng vây. Nhưng khổ nỗi, với tình cảnh không còn một cây tên nào, sáng mai, tất cả binh đoàn chỉ còn có cách ngồi xuống đất để khoanh tay chịu trói. Duy đêm nay, nếu chúng ta có cách thoát được vòng vây, mỗi người hãy tìm cách tứ tán như điểu thú, thì thế nào trong đám chúng ta cũng có kẻ tìm đường về tới ải nhà và tâu lên Thiên tử tình hình đám quân chúng ta. Theo chỗ ta nghĩ địa điểm hiện tại đúng là vùng gò đất phía bắc ngọn Đê Hãn Sơn, chỉ còn cách ải Cư Diên vài ngày đường. Thành quả thế nào không thể phỏng đoán nhưng đã đến nước này, chúng ta không còn cách chọn lựa”. Tất cả mạc liêu đều gật đầu nghe theo. Họ bèn phát cho mỗi sĩ quan và mỗi người lính hai thăng lương thực, một phiến băng làm đồ uống và chỉ cách đi phía Già Lỗ Chướng. Thế rồi, họ cho chặt hết cờ xí có đề tên quân Hán và vùi cả dưới lòng đất, cùng lúc đập phá tất cả các cỗ xe để địch quân không thể nào tái sử dụng. Nửa đêm, theo tiếng trống, tòan quân đã thức dậy. Cũng phải nói tiếng trống trong quân lúc đó nghe thật buồn thảm. Lý Lăng và Hiệu Úy Hàn Diên Niên cưỡi hai thớt ngựa đi đằng trước một toán trên hai mươi bộ hạ. Ngày hôm đó, họ đã phá được vòng vây phía Đông ở hẻm núi nơi họ bị địch đuổi theo, dồn vào hôm qua và ra được vùng bình địa. Từ đó họ tính sẽ hướng về phía Nam mà tháo chạy.

          Trăng lặn sớm nên Hồ binh không biết được ngay. Như thế, hai phần ba quân Hán đã phá vòng vây phía Đông trót lọt đúng như dự định. Nhưng chẳng bao lâu, họ đã phải chạm trán kỵ binh Hung Nô đuổi theo truy sát. Hầu như tất cả bộ binh đều bị giết hoặc cầm tù nhưng nhờ lợi dụng lúc hỗn chiến, cũng có vài mươi lính Hán đã cướp được ngựa của địch và ra roi tẩu thoát.

          Sau khi đã thoát khỏi lực lượng truy kích, trong bóng đêm mơ hồ trên bãi cát trắng, Lý Lăng thẫn thờ tụ tập những kẻ sống sót và kiểm điểm lại quân số. Biết rằng còn được hơn trăm nhân mạng, Lăng bèn kéo cả bọn trở lại bãi chiến trường bên ngoài hẻm núi nơi diễn ra cảnh địa ngục Tu La ban nãy. Bản thân ông cũng đã chịu nhiều vết thương, máu đổ ra nhuộm hết nhung y khiến cho nó trông nặng chịch. Hiệu Úy Hàn Diên Niên, người đồng hành với ông, mới vừa tử trận. Không chỉ mất bộ hạ dưới trướng mà còn mất cả đạo quân, ông còn mặt mũi nào nhìn lại thiên tử nữa! Lăng bèn quay mũi kích và giục ngựa xông vào đám loạn quân để hỗn chiến thêm một lần nữa. Tuy nhiên trong bóng tối, ông đã hết khả năng phân biệt quân ta quân địch. Trong cảnh loạn đấu như vậy, bất ngờ ngựa của ông trúng phải một mũi tên bay lạc, thân hình nó bất ngờ đổ ập về phía trước. Không biết bên nào nhanh hơn nhưng trong lúc Lý Lăng đang cố chĩa mũi kích về kẻ địch trước mặt, ông liền nghe có một vật nặng nào đó giáng mạnh vào sau gáy và lăn ra bất tỉnh. Khi vừa mới bị ngựa hất ra, Lý Lăng đã cảm thấy bên trên có nhiều bóng Hồ binh, không biết là mười hay mười lần hơn, đè nặng lên người như tính bắt sống ông cho bằng được.

          Hai

          Trong số 5.000 lính tùng chinh lên Mạc Bắc hồi tháng chín, mà bây giờ, khi mới bước vào tháng 11, chỉ còn chưa đến 400. Họ vừa mất cấp chỉ huy, vừa hết sức mệt mỏi. Toán bại binh này đang lần đường trở về quan ải. Tin họ thua trận đã được ngựa trạm cấp báo về kinh đô Trường An.

          Trái với điều mọi người suy nghĩ, Vũ Đế không tỏ ra tức tối bao nhiêu. Vì theo ông, một đạo quân hùng hậu như đại quân của Lý Quảng Lợi còn nếm mùi thất bại, huống chi một nhóm cô quân vô viện như chi đội của Lý Lăng. Có lẽ nào chờ đợi quá mức vào thành công của họ. Hơn thế nữa, ông lại nghĩ Lý Lăng ắt phải tử trận ở đâu đó rồi. Thế nhưng, nguồn tin mới đây mà những thủ hạ của Lý Lăng từ Mạc Bắc về cho biết lại khác hẳn những tin lạc quan như :  “Mặt trận không có gì lạ. Sĩ khí trong quân rất cao” mà sứ giả Trần Bộ Lạc đã mang về trước đó (Nhân tin vui này mà Lạc đã được phong Gia Lang (vị quan mang đến tin vui) và giữ lại triều đình. Cứ như tình hình này, Lạc không thể làm cách nào hơn là tự sát. Đó là điều đáng buồn nhưng ông phải cam đành.

          Thế rồi, bước vào mùa xuân năm Thiên Hán thứ ba, vẫn không nghe nói gì về chuyện Lý Lăng tử trận. Nguồn tin đích xác cho biết Lăng đã bị bắt sống và trở thành hàng binh. Lúc ấy, lần đầu tiên, Vũ Đế mới tỏ ra phẫn nộ.Từ khi lên ngôi cách đây 40 năm, giờ Đế đã đến tuổi 61 nhưng khí tượng vẫn lẫm liệt, còn hơn cả buổi tráng niên. Ông ta thích chuyện thần tiên và tin dùng bọn phương sĩ và đồng bóng nhưng đã có nhiều lần bị các phương sĩ mình tin tưởng tuyệt đối đánh lừa. Vị đại hoàng đế này đã ngự trên ngai vàng nhà Hán - một quốc gia đã đạt được đỉnhcao của quyền lực - từ hơn năm mươi năm nay, nhưng kể từ khi bước vào tuổi trung niên, đã tỏ ra quá gắn bó với thế giới tâm linh, một sự gắn bó rất đáng quan ngại. Và cũng chính vì thế mà khi gặp phải những điều thất vọng trong lãnh vực ấy, ông càng buồn khổ như bị ai đánh đập. Những ngón đòn cỡ đó đã khiến cho một người xưa kia phóng khoáng, khoát đạt lúc về già lại đâm ra nghị kỵ đám quần thần. Trước sau ông đã buộc bọn Lý Tế, Thanh Địch, Triệu Chu là những đại thần thuộc hàng Thừa tướng vào tử tội. Người ta còn nhớ việc viên Thừa tướng đương chức là tên là Công Tôn Hạ cũng như bao người khác khi được bái mệnh đều đã lo cho tính mệnh của mình nên kêu khóc để thoái thác.Từ khi con người cứng cõi là Cấp Ảm đã rút lui thì bên cạnh Đế chỉ còn lại toàn những tên gian nịnh và bọn quan lại tàn ác (được gọi là “khốc lại”).

          Lúc bấy giờ, Vũ Đế bèn vời đám trọng thần đến thương nghị về trường hợp Lý Lăng. Tuy Lăng không có mặt ở kinh đô những đối tượng trừng phạt vẫn còn ở đó, ví dụ vợ con, quyến thuộc và tài sản. Một viên Pháp úy vốn nổi tiếng là tàn khốc, biết cách đọc thâm tâm của hoàng đế và khéo léo đón ý ông bằng cách đề nghị những hình phạt hợp pháp được uốn éo theo chiều hướng đó. Nếu có ai cật vấn tính pháp luật của vụ án, hắn ta sẽ trả lời rằng : “Cái gì mà trước đây nhà vua xem là đúng thì nó trở thành “Luật” (Ritsu) , còn cái gì mà về sau nhà vua xem là đúng thì nó sẽ thành “Lệnh” (Ryô). Hiện không có pháp luật nào khác ngoài ý kiến của bậc quân chủ !”. Quần thần đại loại cùng một phường như viên Pháp úy ấy cả. Từ Thừa tướng Công Tôn Hạ, Ngự Sử Đại Phu Đỗ Chu, Thái Thường Triệu Đệ trở xuống, không một ai dám tưới dầu vào cơn lửa giận của Vũ Đế bằng cách bênh vực cho Lăng. Mọi cửa miệng đều sỉ vả và buộc Lăng vào trọng tội “mãi quốc cầu vinh”. Họ còn nói là việc phụng sự chung triều đình với một kẻ đã biến chất như Lăng là nỗi hổ thẹn. Họ đều nhất trí cho rằng mỗi một hành động của Lăng từ trước đến giờ đều đáng ngờ vực. Việc người chú của Lăng tên Lý Cảm vốn được sự sủng hạnh của Thái tử nên sinh ra kiêu ngạo, nay cũng đã trở thành một cái cớ để họ phỉ báng Lăng. Kết cuộc thì những kẻ cắn răng không hé môi thổ lộ điều gì mới là người có hảo ý với Lăng hơn hết. Thế nhưng con số ấy cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

          Duy có một người đàn ông với khuôn mặt đau khổ đã lầm lì chứng kiến cảnh tượng đang xảy ra. Những kẻ hiện nay đang mở mồm vu oan giá họa cho Lăng không phải là bọn mới vài ba tháng trước đã đến nâng ly tiễn đưa và ca ngợi chuyến viễn chinh khi Lăng từ giã kinh đô để lên đường đó sao ?  Rồi khi sứ giả từ Mạc Bắc trở về đưa tin là quân của Lăng vẫn không hề hấn gì, phải chăng cũng chính bọn đó đã không tiếc lời khen Lăng xứng đáng là trang hậu duệ của danh tướng Lý Quảng, dù cô quân vô viện vẫn phấn đấu quên mình ?  Vậy mà không biết vì sao đám mũ cao áo dài ấy có thể vô liêm sỉ đến mức điềm nhiên quên đi việc mới xảy ra. Vị quân chủ tuy thừa thông minh để nhìn thấy sự lật lọng (tenyu) của họ nhưng khốn nỗi, Đế lại là một người ghét lắng tai nghe những lời chân thực từ kẻ khác. Người đàn ông kia không khỏi lấy đó làm lạ. Mà không, việc gì mình phải lấy làm lạ !  Bản tính của loài người xưa nay vẫn thế vốn là điều ông đã biết chán. Dù vậy cái tình cảm khó chịu kia vẫn đeo đẵng ông. Tuy chỉ là một hạ đại phu nhưng vì cũng tham dự triều ban nên bề trên cũng có lời hỏi ý kiến ông. Lúc đó, người đàn ông này đã trình bày quan điểm của mình một cách minh bạch. Ông khen ngợi Lăng và thưa rằng theo ông thì Lăng bình sinh là một đứa con có hiếu với cha mẹ, khi giao du bạn bè luôn luôn trọng chữ tín, thường chiến đấu không hề quay đầu, lúc quốc gia nguy cấp có thể liều chết, thật đúng là một trang quốc sĩ. Nay bất hạnh phải một lần phạm lỗi nhưng đám nịnh thần bên cạnh nhà vua, những người vì chỉ muốn bảo toàn mạng sống của mình và vợ con (toàn khu, bảo thê tử), đã sàm báng và xé ra to một sơ thất của Lăng hòng che mắt, đánh lừa sự thông minh của chúa thượng, mới là chuyện vô cùng đáng tiếc. Nguyên từ lúc đầu, đoàn quân của Lăng chỉ là một nhóm bộ tốt chưa đến 5.000 nhưng ông ta đã đưa được họ tiến sâu vào đất Hồ, nhận quân mệnh, nhiều phen chiến đấu lao khổ với hàng vạn quân Hung Nô trên một mặt trận dài hơn nghìn dặm, cho đến lúc cung hết tên và lâm vào bước đường cùng (cung tận, đạo cùng). Thế mà lúc đó họ vẫn giương dây cung trơn, đối đầu với mũi đao sắc và quyết tử. Một kẻ được lòng sĩ tốt khiến họ dám chiến đấu đến chết như Lăng, nếu đem so sánh với những danh tướng thời cổ, cũng không phải là điều quá đáng. Tuy Lăng có thua trận nhưng tấm gương chiến đấu quả cảm ấy cần phải được đem ra biểu dương trước bàn dân thiên hạ.Thần nghĩ khi Lăng không chọn cái chết mà chịu hàng giặc, có lẽ đương sự chỉ muốn sống âm thầm, đợi cái ngày có thể làm một điều gì đó để đền ơn nhà Hán mà thôi.

          Bọn quần thần đang đứng dàn hàng bên cạnh đều sửng sốt. Họ không bao giờ tưởng tượng rằng trên đời này lại có một kẻ to gan dám ăn nói như vậy. Cả bọn run lên như cầy sấy rồi ngước mắt lén nhìn sắc diện của Vũ Đế mà lòng kinh hãi. Thế rồi lũ đồng liêu mà người đàn ông kia vừa tặng cho cái danh hiệu là “toàn khu, bảo thế tử” không biết phải làm gì trong khi chờ đợi, chỉ nhe răng mà cười.

          Người đàn ông kia – chức Thái Sử Lệnh tên là Tư Mã Thiên -bèn lui khỏi chỗ ông đang đứng trước mặt nhà vua nhưng lại không thèm ném một cái nhìn nào về phía họ. Lập tức, lúc ông vừa bước ra, một kẻ trong đám thần hạ "toàn khu, bảo thê tử" đã rỉ tai Vũ Đế về mối giao tình mật thiết giữa Lý Lăng và Tư Mã Thiên. Có kẻ lại bước ra tâu là nhân vì viên Thái Sử Lệnh này xưa có mối hiềm khích với Nhị Sư Tướng Quân [4] cho nên việc Thiên ca tụng Lăng hôm nay là nhằm hãm hại Lý Nhị Sư vì ông đại tướng này dù xuất binh ra ải trước cả Lăng mà chẳng lập được công trạng gì. Dù thế nào đi nữa, cả bọn họ đều đồng ý ở điểm là một chức quan “xem sao giũ quẻ” (tinh lịch bốc từ) như viên Thái Sử Lệnh kia mà dám phát biểu như thế thì thật quá hỗn hào. Thêm một chuyện khó tin nữa là trước khi gia tộc Lý Lăng bị hài tội, Tư Mã Thiên là người đã bị đem ra xử trước. Sáng hôm sau, Thiên đã bị giao cho Đình Úy luận tội và họ đã quyết định hình phạt dành cho ông là Cung hình.

          Đời xưa bên Chi-Na, Cung (thiến, hình phạt trong cung) được kể là một trong bốn thứ nhục hình nặng nề, cùng với Kình (khắc chữ vào mặt), Tị (xẻo mũi), Phí (chặt chân hay tháo gân chân). Đời tổ phụ của Vũ Đế là Văn Đế đã bãi bỏ ba thứ hình phạt kia nhưng vần giữ nguyên Cung hình. Dĩ nhiên hình phạt kỳ quái này có chủ đích làm cho đàn ông không còn cơ năng sinh thực của họ nữa. Một cách gọi khác của nó là Hủ hình, một phần có thể vì vết thương sau đó nưng mủ rất hôi thối, hoặc giả nó hàm ý là kẻ bị cung hình sẽ vô dụng như một khúc củi mục (hủ mộc) không còn sinh ra hoa, trái nữa. Người bị gia hình kiểu này thường được gọi là “kẻ bị thiến” (yêm nhân) và dĩ nhiên là bọn thái giám trong cung (hoạn quan) phần lớn đã phải trải qua chặng đường yêm hoạn. Tư Mã Thiên là một kẻ nằm trong đám những người chịu cái hình phạt này. Tuy ngày nay, hậu thế biết đến danh tiếng ông như tác giả đã viết ra bộ Sử Ký vĩ đại nhưng vào thời ấy, ông chẳng qua là một chức quan nhỏ lo việc từ hàn. Vẫn biết ông có một bộ óc thông minh sáng suốt nhưng cùng lúc là một con người quá đỗi tự tin về mình nên bị xem là một kẻ khó giao du. Bởi vì trong khi nghị luận, ít khi ông chịu thua ai và có lẽ ông là một người thiên chấp và cứng cỏi. Dó đó việc ông bị khép vào Hủ hình đã chẳng làm cho mấy ai kinh ngạc.

          Dòng họ Tư Mã nguyên là quan chép sử của triều đình nhà Chu. Sau đó gia đình vào ở trong đất Tấn rồi phụng sự nhà Tần. Đến đời Hán, thế hệ thứ tư có Tư Mã Đàm thờ Vũ Đế và trong khoảng niên hiệu Kiến Nguyên, đã được phong chức Thái Sử Lệnh. Ông Đàm này chính là cha của Thiên. Ngoài các chuyên môn như Luật, Lịch và Dịch, ông còn hiểu biết rộng rãi về tư tưởng Đạo gia, lại tham bác cả Nho, Mặc, Pháp, Danh và thông hiểu các lý thuyết của chư gia. Thế rồi ông lại qui tụ những luồng tư tưởng đó để tạo ra một lối suy nghĩ cho riêng mình. Sức mạnh tinh thần cũng như tính tình cương quyết và tự tin của ông đã được người con là Thiên thừa hưởng. Cái mà ông luôn dạy dỗ con mình là sau khi đã góp nhặt hết kiến thức của chư tử, phải đi du lịch tứ phương trong nước. Vào thời đó, lối giáo dục này trông có vẻ khác thường nhưng chính điều đó là những yếu tố quan trọng đã hun đúc nên một Tư Mã Thiên sử gia về sau, và điều này cũng chẳng cần phải bàn.

          Năm Nguyên Phong nguyên niên, Vũ Đế đi về Đông và lên ngọn Thái Sơn để tế trời. Lúc bây giờ con người hăng hái Tư Mã Đàm đang ở đất Chu Nam (Lạc Dương) và đôi khi lại mang bệnh. Ông cho rằng đây là lần đầu tiên thiên tử lập đàn “phong thiện” cho nhà Hán là việc hết sức đáng mừng mà mình lại không được tháp tùng bèn lấy làm phẫn khái, chẳng bao lâu sau vì uất ức mà mất. Nguyện vọng đời ông là viết một bộ thông sử quán xuyến cổ kim nhưng chỉ vừa xong giai đoạn sưu tập tư liệu. Cảnh lâm chung của ông đã được Tư Mã Thiên, con trai ông, dùng bút ghi lại cặn kẽ ở chương cuối cùng của bộ Sử Ký. Theo đó thì Tư Mã Đàm biết mình khó lòng hồi phục bèn cho gọi Thiên đến bên giường, nắm lấy tay, thân ái cho biết sự cần thiết của việc tu chính sử sách. Tuy mình là quan Thái Sử nhưng chưa bắt đầu được việc ấy, khiến cho sự tích các vua giỏi tôi ngay đã phải mai một dưới lòng đất lạnh. Nói xong ông đã khóc òa vì thấy mình không đạt thành chí nguyện. “Khi ta mất đi thì chắc ngươi sẽ tiếp tục nhận nhiệm vụ này. Nếu trở thành Thái Sử thì ngươi chớ quên việc viết một cuốn sử như ta từng ôm ấp nhé !  Đây là cách tốt nhất để ngươi báo hiếu cho ta vậy”.  Nghe cha già lập đi lập lại những lời tâm huyết ấy, Thiên chỉ biết cúi đầu nhỏ lệ và thề rằng sẽ làm đúng lời ông.

          Hai năm sau ngày cha mất, Tư Mã Thiên đã thừa kế chức Thái Sử Lệnh của ông Đàm. Thiên sử dụng những tài liệu cha mình đã thu thập cả kho cũng như các tài liệu mật hãy còn tàng trữ trong hoàng cung, định bắt tay ngay vào công việc giống như thiên chức mà cha đã gửi gắm. Thế nhưng từ ngày được phong chức, ông liền bị lôi cuốn vào việc cải chính về lịch pháp và phải vùi đầu vào đó hết những 4 năm. Đến năm Thái Sơ nguyên niên, rốt cuộc việc ấy mới xong và ông lại bắt tay ngay vào việc biên soạn bộ Sử Ký. Lúc đó Thiên vừa 42 tuổi.

          Dàn bài cho quyển sử Thiên đã nghĩ xong trong đầu nhưng dàn bài ấy không hề giống một quyển sử nào có từ trước đến nay. Theo ông, nếu muốn phê phán theo tiêu chuẩn đạo đức, tất phải dựa vào Kinh Xuân Thu. Thế nhưng nếu mục đích là truyền bá lại những sự thực lịch sử cho đời sau thì cách viết ấy không ổn. Ông muốn phải có thêm nhiều sự thực hơn nữa. Mục đích của ông không phải dạy dỗ ai mà là trình bày sự thực !  Chính ra hai bộ Tả Truyện và Quốc Ngữ đều đã đưa ra nhiều sự thực khá thú vị. Cách thuật sự của Tả Truyện rất xảo diệu, khi đọc nó, ta không thể nào không cảm thán. Tuy nhiên trong cuốn sử đó, ông không thấy có sự tìm tòi về từng nhân vật một. Cho dù cách trình bày những sự kiện mà họ tham dự có hay ho đến mức nào, ông vẫn thấy thiếu lời giải thích về nhân thân là những điều đã đưa họ đến chỗ hành động như vậy. Đó là điều Tư Mã Thiên hãy còn chưa phục. Hơn thế nữa, trong đó, phần lớn người ta chép cái họ muốn cho người đương thời hiểu về quá khứ nhưng lại quá thiếu sót trong việc trình bày cho các thế hệ mai sau biết về những gì hiện đang xảy ra. Tóm lại, điều Tư Mã Thiên muốn đều không thấy có trong những bộ sử đã ra đời cho đến nay. Lần đầu tiên, Thiên khám phá ra rằng, nếu ông muốn thỏa mãn với những đòi hỏi mình đặt ra cho một cuốn sử, chắc ông phải tự tay mình viết một cuốn. Những điều ông đem ra thổ lộ phải là cái từng làm ông ray rứt và uất ức, nó còn ưu tiên hơn cả việc phê phán lối viết sử từ xưa đến bây giờ. Hay đúng hơn, cách phê phán nếu có phải được thể hiện bằng cách đưa ra một một sự thực mới. Nhưng ông cũng không chắc là cái cấu tưởng nhiều năm mình vẽ ra trong đầu có thể gọi là một thứ lịch sử mới hay chăng? Tuy nhiên, dù không thể gọi là lịch sử đi nữa, nó vẫn là điều mà ông tin rằng mình bắt buộc phải viết ra trước tiên (chẳng những cho người đời bây giờ, cho những thế hệ về sau và còn cho cả chính mình nữa).

          Ông đã mô phỏng phương pháp “chỉ kể lại như nó là chứ không thêm thắt” (thuật nhi bất tác) của Khổng Tử nhưng nội dung “thuật nhi bất tác” của ông có lẽ cũng có phần khác lối viết sử của Khổng Tử. Theo Tư Mã Thiên thì cách xếp đặt sự kiện theo lối biên niên một cách đơn thuần để trình bày sự kiện không thể gọi.là “thuật” được vì tác giả có thể đưa vào đó những chi tiết không ai cần biết, lại nữa, nó còn phương hại đến nhu cầu đi tìm những “sự thực thuần túy” mà đời sau cần biết. Còn như việc đem vào đó quá nhiều phán đoán có tính cách đạo đức thì tự thể thầy Khổng đã tạo ra một bộ phận gọi là “tác” (thêm thắt) mất rồi.

          Từ khi nhà Hán bình định thiên hạ, họ đã trị vì một trăm năm với năm đời vua. Kể từ thời Tần Thủy Hoàng thi hành chính sách hủy diệt văn hóa, những thư tịch từng được đem đi cất dấu giờ đây mới bắt đầu xuất hiện trở lại . Mọi người cảm thấy rằng nếu văn học hưng thịnh thì khí vận của đất nước cũng sẽ nở bùng lên. Không chỉ riêng một triều đình nhà Hán, cả thời đại đang có nhu cầu về sử. Đối với cá nhân Tư Mã Thiên thì mọi thứ từ sự cảm kích khi nhận được lời ủy thác của thân phụ, cho đến cái sở học phong phú, đôi mắt quan sát cũng như bút lực mạnh mẽ, đã làm dậy bên trong ông một chất men nồng có thể giúp ông hoàn thành một tác phẩm để đời. Ông đã có thể xúc tiến công việc của mình một cách khoan khoái, còn có thể nói là quá thoải mái nữa. Nói cách khác, phần đầu với Ngũ Đế Bản Kỷ cho đến Hạ Ân Chu Tần Bản Kỷ, ông chỉ làm công việc ghi chép chính xác và tinh mật như một kỹ sư vì đã biết phối hợp các tư liệu đã có trong tay. Thế nhưng qua Tần Thủy Hoàng Bản Kỷ rồi đến Hạng Vũ Bản kỷ chẳng hạn thì kỳ lạ thay, người kỹ sư kia bỗng đánh mất sự điềm tĩnh. Có lẽ bởi vì đôi khi Hạng Vũ đã hóa thân thành ông hay ông đã bị mê hoặc bởi Hạng Vũ :

          “Đêm đến, Hạng vương uống rượu trong trướng. Mỹ nhân ở cạnh bên. Nàng họ Ngu. Vương rất yêu, khi đi đâu cũng cho theo hầu. Tuấn mã tên Chuy, thường được ngài cưỡi. Lúc đó Hạng vương bi ca khảng khái, tự mình đặt lời và hát rằng : “Lực bạt sơn hề, khí cái thế. Thời bất lợi hề, Chuy bất thệ. Chuy bất thệ hề, khả nại hà. Ngu hề, Ngu hề, nại nhược hà ?”.  (Khí lực trùm đời sức nhổ núi. Thời vận hết rồi, ngựa chẳng chạy. Ngựa chẳng chịu chạy, hỏi làm sao. Ngu Cơ nàng ơi, biết thế nào ?). Ca xong vài lần, mỹ nhân bèn họa vận. Hạng vương thấy thế, vùng sa nước mắt. Hai bên tả hữu đều khóc theo và không ai dám ngước lên nhìn Ngài” . . .

          Viết như vậy, có được không nhỉ ?”. Tư Mã Thiên nghi ngờ tự hỏi. “Cách viết toát ra sự sôi nổi như thế có thích hợp cho sử hay không đây ?”.  Ông hết sức cảnh giác để mình khỏi phải rơi vào cái bệnh gọi là “tác”. Việc làm của mình cần triệt để tập trung vào việc "thuật" mới được. Ông chỉ muốn “thuật” lại sự thực mà thôi nhưng cách thuật sự của ông không hiểu sao lại hùng hồn, đầy sinh khí và kích động đến thế! Nếu không phải là một con người có một sức tưởng tượng mang tính thị giác dị thường, làm sao ông có thể ghi lại một cách sống động như vậy được. Đôi lúc Thiên e rằng mình đang “sáng tác” nên đã đem những đoạn đã viết xong ra thử đọc lại và sau đó xóa đi những câu chữ có thể khiến cho những nhân vật trong lịch sử bị hiểu lầm là đang múa may (yakudô) giống như các nhân vật hiện thực. Nhờ đó mà khi nhìn lại, ta thấy những nhân vật lịch sử ấy rốt cuộc đã bị cắt đứt cái hơi thở hào hùng của nó và như thế, Thiên không còn phải lo gì việc mình đem “sáng tác” vào bên trong lịch sử,. Tuy nhiên (Thiên lại nghĩ) nếu mình làm như thế, biết đâu Hạng Vũ sẽ không còn là Hạng Vũ nữa! Lúc đó, không khéo Hạng Vũ sẽ trở thành một con người như Thỉ Hoàng Đế hay Sở Trang Vương mất thôi. Kiểu thuật sự đem nhân vật này đánh đồng với nhân vật khác trong khi ghi chép sự việc, có xứng đáng được gọi là “thuật” hay không đây ?  Phải chăng muốn thuật sự một cách đúng đắn, trước tiên phải biết phân biệt cái khác nhau giữa những con người có nhân cách khác nhau ?  Nghĩ đến đó, Thiên mới thấy rằng mình cần phục hồi lại những câu chữ vừa bị tẩy xóa. Sau khi đã trả nó về với hình dáng cũ và đọc thêm một lần, rốt cuộc Thiên mới thấy yên tâm. Không chỉ mỗi mình mình thôi, Thiên còn nghĩ rằng những nhân vật lịch sử như Hạng Vũ, Phàn Khoái, Phạm Tăng, tất cả đều sẽ cảm thấy an tâm trong vị trí riêng biệt của họ.

          Khi trong người khoan khoái, Vũ Đế tỏ ra hết sức phóng khoáng, rộng lượng. Ông là bậc đế vương biết thông cảm nên hay bảo trợ các hoạt động văn hóa, giáo dục. Thêm vào đó chức Thái Sử Lệnh tuy khiêm tốn nhưng vẫn cần có một kỹ năng đặc biệt, Điều này đã giúp Thiên tránh xa thế giới bất ổn định của đám quan lại vốn chỉ biết kết bè kết đảng, lúc thì bao che nâng đỡ, lúc lại sàm báng và bức hại (địa vị lẫn sinh mệnh) của nhau.

          Trong nhiều năm, Tư Mã Thiên đã được sống một cuộc đời vui thỏa và hạnh phúc. (Đương thời, quan niệm về hạnh phúc vốn không giống với những gì con người hiện đại chúng ta định nghĩa nên nội dung hoàn toàn khác dù thời nay cũng như xưa, ai ai cũng theo đuổi nó). Thiên không đến nỗi thỏa hiệp với họ nhưng thường giỏi trong việc phản luận hòng đánh đổ lập trường của đối thủ, chung qui là bằng lý sự, nhiều khi xen lẫn giận dữ nhưng lắm lúc cũng tươi cười. Ấy thế mà sau những năm tháng hạnh phúc như thế, tai họa đã đến với ông.

          Căn phòng gọi là “phòng nuôi tằm” (tàm thất) tối tăm dành cho người vừa thụ án cung hình (hủ hình) để họ khỏi phải trúng gió, chỉ được sưởi ấm bằng lửa của một ngọn đuốc. Căn phòng giống như mật thất này là nơi mà kẻ sau khi bị thiến phải nằm nghỉ vài ngày. Nhân vì nó vừa tối vừa ấm như một căn phòng kín dành để nuôi tằm nên mới có tên là “tàm thất”. Vừa không có ai để trò chuyện vừa có đầu óc đang ở trong trạng thái hỗn loạn, Thiên chỉ biết ngồi tựa lưng vào vách tường và nhìn bâng quơ. Ông không chỉ phẫn kích mà còn cảm thấy ngạc nhiên. Nếu như được nhà vua ban cho tội chết (xử trãm) thì đó là việc từ xưa, vào những ngày thường, ông đã hình dung ra được. Ông có thể tưởng tượng cả cảnh mình lãnh án chém và ông cũng ý thức rằng khi làm trái ý nhà vua mà ca ngợi Lý Lăng như thế, mình có khả năng bị ghép vào tội chết. Cớ sao trong số không biết bao nhiêu là hình phạt, ông lại bị trúng vào cái hình phạt xấu xa ghê tởm nhất là cung hình. Bảo là mình không biết giữ mồm giữ miệng thì có thể đúng là như thế (nhưng ngoài cái án chém là điều mình đã dự tưởng, mình nào có nghĩ thứ hình phạt xấu xa ghê tởm này sẽ đột nhiên đến với mình đâu!). Thường ngày Thiên vẫn tin như một điều xác quyết là mỗi một con người đều gặp phải một tình huống phù hợp với bản chất của họ. Đó là một cách suy nghĩ đã được nuôi dưỡng trong ông qua những kinh nghiệm nghiên cứu các sự thực lịch sử. Ý ông muốn nói là, khi gặp cùng nghịch cảnh, kẻ sĩ khảng khái có thể phải chịu một sự đau khổ mạnh mẽ khốc liệt, trong khi kẻ nhu nhược yếu hèn thì chỉ phải trải qua một nỗi khố nhỏ bé nhưng nhầy nhụa và ghê tởm mà thôi. Cho dù buổi đầu thấy không có gì phù hợp cho từng người nhưng về sau, qua cách xử thế của họ, ta mới thấy mỗi người đều có một định mệnh phù hợp với lối sống của cá nhân mình. Tư Mã Thiên tin rằng ông là một trang nam nhi. Tuy ông chỉ là viên thư lại với mỗi cây bút lông trong tay nhưng giữa thời buổi tao loạn này, vẫn đáng mặt nam nhi chẳng thua kém đám võ biền. Nào chỉ riêng ông mới ý thức được chuyện đó! Riêng điều này thì ngay những kẻ không thích ông đi nữa cũng phải công nhận. Vì vậy, ông quyết giữ vững lập trường và đã vẽ ra trong trí hình ảnh mình bị “tứ mã phanh thây” (kurumazaki, một hình phạt đời Chiến Quốc). Nhưng cớ sao gần đến tuổi 50, mình còn phải hứng chịu hình phạt nhục nhã như thế này! Và ông thấy việc mình bị đưa vào trong “tàm thất” giống như cảnh tượng chỉ có trong mơ. Ông cũng mong đấy chỉ là một giấc mơ thôi nhưng khi mở mắt ra và nhìn bốn bức tường vây và khoảng không gian tối nhờ nhờ không chút sinh khí, thì hình ảnh hai ba người đàn ông đang ngồi đờ ra đó như kẻ mất hồn đã đập vào mắt ông. Khi nghĩ rằng hình ảnh của họ cũng là hình ảnh của mình bây giờ, có những tiếng nấc vì đau khổ và căm phẫn đang muốn xé vỡ yết hầu Thiên để thoát ra ngoài.

          Sau những ngày sống trong thống hận và phiền muộn, đôi khi tập quán của một học giả lại trở về với ông. Nó bắt ông phải suy xét và phản tỉnh. Ông tự hỏi không biết trong vụ việc này thì cái gì, những ai và bằng cách nào đã gây ra điều ác ?  Trên đất Hán, nơi cái đạo quân thần về cơ bản không giống như ở Nhật, đương nhiên người đầu tiên ông phải oán hận là Vũ Đế. Thực tế là lúc đầu ông chỉ tập trung lòng oán hận này và hoàn toàn không đủ sức để nhìn lại những vấn đề khác. Thế nhưng sau một thời gian để cho đầu óc quay cuồng, người sử gia trong ông đã mở bừng đôi mắt. Khác với Nho gia, ông cho rằng giá trị của các đấng “tiên vương” (các vua hiền cổ xưa như Tam hoàng Ngũ đế, NNT) dưới cặp mặt của nhà viết sử cũng cần phải được tương đối hóa, cho nên khi đánh giá một "hậu vương" (những vị vua trị vì sau thời đại hoàng kim đó) như Vũ Đế, người chép sử cũng không nên để sự oán hận cá nhân làm cho cách nhìn trở nên lệch lạc. Dù muốn dù không, Vũ Đế là một vị đại quân chủ. Tạm để Cao Tổ qua một bên, chứ một ông vua nổi tiếng nhân từ như Văn Đế hay một ông vua danh tiếng như Cảnh Đế, thì so với Vũ Đế, sự nghiệp hãy còn nhỏ bé. Dù vậy, những ông vua vĩ đại thì khi có khuyết điểm thì khuyết điểm đó cũng phải được mô tả xứng tầm với sự vĩ đại của họ và người viết sử không thể nào bỏ qua. Ngay trong lúc đang căm phẫn cực độ , Tư Mã Thiên vẫn không quên điều đó. Lối suy nghĩ cho rằng những việc vừa xảy ra giống như thiên tai kiểu mưa to, gió lớn hay sấm sét chỉ làm cho lòng ông thêm căm tức vì không biết phải làm gì. Mặt khác nó lại đẩy ông về hướng một trạng thái chấp nhận, cam đành (teikan). Biết rằng mình không thể oán hận vị quân chủ đó mãi được, ông bèn hướng sức mạnh đó về đám gian thần bên cạnh nhà vua. Đó là một bọn xấu xa, Đúng như vậy. Thế nhưng cái ác của chúng chỉ là một cái ác phụ thuộc vào một cái ác khác. Đối với một người có lòng tự trọng (jikyôshin) như ông thì bọn chúng chỉ là một lũ ti tiện, không phải là đối tượng để mình phải căm ghét. Hầu như trong đám những con người tự cho mình là lương thiện (hảo nhân vật) này, không một ai đáng để cho ông trút vào đó mọi sự căm tức. Bọn này còn khó trừ khử hơn cả lũ gian thần và khốc lại. Thế nhưng ít nhất là khi đứng bên cạnh và nhìn hành vi của chúng, không ai có thể nén nổi sự bất bình. Chúng có một thứ lương tâm dễ ru ngủ, ngoài ra để làm cho mình an tâm, chúng sẵn sàng có những hành vi xa rời đạo lý. Chúng không cần biện hộ và chẳng phản bác ai. Trong lòng, chúng chẳng bao giờ chịu phản tỉnh, cũng không biết tự trách. Chẳng hạn ông Thừa tướng Công Tôn Hạ là điển hình của lớp người này. Cũng vậy, trường hợp a dua, ăn theo đón ý, thì đã có Đỗ Chu (tên này mới đây đã thành công trong việc hất cẳng người tiền nhiệm là Vương Khanh để leo lên chức Ngự sử Đại phu). Bọn như Đỗ Chu nhất định là thừa hiểu việc chúng đang làm chứ vị thừa tướng “lương thiện” của chúng ta thì ngài còn không ý thức về điều đó nữa. Dù xem họ như những viên quan chỉ lo cho mạng sống và bảo vệ vợ con (toàn khu bảo thê tử) thế nhưng ai mà không căm tức khi giáp mặt những đối tượng này. Dù vậy, Thiên vẫn không thấy chúng là những kẻ đáng cho mình bày tỏ lòng oán hận.

          Lúc ấy Thiên mới tự hỏi mình phải chĩa cái lòng oán hận ấy về phía ai. Thực ra thì nếu phải chĩa mũi dùi ấy vào một người nào, kết cuộc ông chỉ còn thấy có mỗi đối tượng là chính mình. Thế nhưng cái ác nơi mình, nó nằm ở đâu vậy ?  Nghĩ đi nghĩ lại, việc mình đứng ra bênh vực Lý Lăng hoàn toàn không có gì sai trái !  Cả phương pháp lẫn cách thức đều không có gì vụng về. Có sao ông nói vậy, đâu có thể gọi là tán dương hay tâng bốc Lăng. Một khi nhìn lại mà vẫn không thấy điều gì đáng để bị trách cứ thì, trên nguyên tắc, kẻ sĩ phải biết hứng chịu hậu quả của hành vi mình làm, mặc cho hậu quả ấy là gì. Tiến trình của sự việc tất phải ăn khớp như thế. Do đó mà dù có thụ án phanh thây hay chém ngang lưng, mình đã định bụng là sẽ cam chịu . . . Thế nhưng Cung hình -và sự biến đổi hình dạng thân thể mà nó kéo theo – lại là một vấn đề khác. Tuy cùng là một hình phạt nhằm hủy hoại một bố phận trong thân thể nhưng nó hoàn toàn khác với việc chặt chân hay xẻo mũi. Nó không thể nào là một hình phạt áp đặt lên một con người có giá trị như kẻ sĩ. Chỉ có nhục hình này thì, bất luận nhìn từ một góc độ nào, đều thấy là vô cùng tàn nhẫn. Về điều này, không cần phải tô vẽ hay bàn thêm. Hơn thế nữa, trong khi một vết thương tinh thần có thể nguôi ngoai và lành lặn theo thời gian, cái vết tích xấu xa ghê tởm này sẽ tiếp tục tồn tại mãi trên thân thể mình cho đến lúc chết. Dù động cơ là thế nào đi nữa, kẻ bị đưa đến tình trạng này, cuối cùng sẽ phải thú nhận là mình “sai lầm” (warukatta). Thế nhưng ta đã “sai lầm” chỗ nào ?. Ta tìm mãi nhưng vẫn không thấy chỗ "sai lầm" đó. Chẳng những thế, ta chỉ đúng thôi. Nói trắng ra, ta đã "sai lầm" vì ta muốn sống trung thực với bản chất của mình (wareari).

          Đang ngồi thẫn thờ và đầu óc hầu như trống rỗng, bỗng Thiên bật người đứng dậy rồi bước vòng quanh gian phòng tối, ấm áp đó và gào lên như một con thú bị thương. Ông lập đi lập lại một cách vô thức cử chỉ ấy nhiều lần và ý tưởng của ông cũng chạy loanh quanh như thế chứ không thể nào qui kết về một điểm

          Ngoại trừ những lần đập đầu vào tường đến độ chảy máu mà không hay không biết, ông như muốn chống lại ý định tự sát. Ông muốn chết bởi vì chết, ông sẽ khỏe xác. So với sự sợ hãi đối với những sự sỉ nhục đang đuổi theo ông thì sự sợ hãi trước cái chết nào có nghĩa lý gì. Tại sao ông không muốn chết ?  Có thể là vì trong nhà ngục, ông không tìm ra một dụng cụ nào để làm chuyện đó. Tuy vậy, bên trong ông vẫn có một động cơ nào đó đã ngăn trở ông không làm việc đó. Lúc đầu, ông không để ý động cơ đó là gì. Chỉ có điều là, trong tình trạng cuồng loạn và phẫn khái như vậy, bao nhiêu lần ông đã nổi cơn tam bành và cảm thấy Thần Chết lên tiếng mời mọc, nhưng ngược lại, ông vẫn mơ hồ cảm thấy có một động lực khác muốn kéo ông thoát khỏi cám dỗ đó. Có thể nói ông đang ở trong tình trạng một người chắc chắn là mình đang quên một vật gì nhưng vẫn không sao hình dung ra được vật cụ thể đó

          Kể từ khi được phóng thích về nhà và sống trong sự kiểm soát một thời gian, ông đã quên khuấy đi rằng biên tu sử sách – một công việc phải gắn bó suốt đời - là cái đã cứu ông ra khỏi trạng thái điên loạn và hoang mang kéo dài trong một tháng trời kia. Tuy ngoài mặt làm như đã quên nhưng trong thâm tâm Thiên, mối quan tâm dành cho công việc vẫn tồn tại dù ông không hay biết và chính nó đã có nhiệm vụ âm thầm ngăn trở không cho ông tự sát.

          Cha ông đã cầm lấy tay ông mà nước mắt tuôn rơi. Lời nói ấy hãy còn văng vẳng bên tai. Ngày nay lòng ông vẫn nuôi mỗi nỗi đau thống thiết không ai hiểu được nên lý do khiến ông không thể dứt tình với việc biên tu sử sách không chỉ là lời trăn trối của cha mình. Nó còn nằm ngay ở ý nghĩa của công việc chỉnh sửa cách nhìn về lịch sử. Ông không yêu công việc này vì thấy nó thích thú hay lôi cuốn. Ngoài ra, dù ý thức việc biên tu sử sách là một sứ mệnh nhưng ông không bao giờ cậy vào nó để tự phụ về mình. Trước kia, ông đúng là một người đàn ông ngoan cường đến đáng sợ nhưng sự cố vừa rồi đã dạy cho ông thấm thía rằng mình không là cái gì cả. Giữa khi đang tự hào về lý tưởng và hoài bảo cho tương lai, té ra mình chỉ là một thứ sâu bọ bên vệ đường, cho trâu bò mặc tình dẫm nát. Tuy cái "Tôi" (Ngã) của ông bị chà đạp một cách thảm hại nhưng Thiên không hề nghi ngờ ý nghĩa của việc biên tu sử sách. Duy với cảnh thân tàn ma dại, lại đánh mất sự tự tin đối với bản thân cũng như năng lực, ông không còn tìm ra trong việc nán lại trên đời để đeo đuổi công việc, một chút hứng thú nào cả. Dù vậy, ông cảm thấy rằng đây là định mệnh của ông, như một tình cảm liên đới giữa con người với con người. Nó đã cản ông đến cùng là không được chặt đứt mối ràng buộc đối với công việc. Dù vậy, chưa bao giờ ông ý thức rõ ràng hơn lúc này là chính vì công việc biên tu mà ông (không vì tình cảm bổn phận nhưng là vì một sự gắn bó mang tính cách thân xác) sẽ không bao giờ tự kết liễu đời mình.

          Sau nỗi đau thể chất mù quáng làm ông gào thét như một “con thú” lúc ban đầu, bây giờ đến lượt một nỗi thống khổ có tính chất “con người” và ý thức hơn. Khổ thân cho ông là khi biết mình không thể nào tự sát, những khổ não và sỉ nhục (vì đã không tự sát) lại thi nhau kéo đến và ông không có cách nào lẩn trốn. “Có một ông Thái Sử Lệnh tên là Tư Mã Thiên đã “chết” đi vào mùa xuân năm Thiên Hán thứ ba, thế rồi, từ đó về sau, kẻ tiếp nối công việc của ông ta chỉ là một cái máy sao chụp không hồn”. Nếu Thiên không tự mình nhồi vào đầu ý nghĩ ấy, có lẽ ông không thể nào làm việc được. Dù ý nghĩ đó vô lý, Thiên đã suy nghĩ như vậy bởi vì công việc biên tu cần phải được nối tiếp. Đối với ông, đó là điều tiên quyết. Và để làm cho được công việc biên sử, thì dù cơ cực đến đâu, ông cũng phải duy trì sự sống. Để được sống còn, ông phải ghi khắc trong đầu là thân xác của mình không còn có nữa.

          Năm tháng trời sau vụ đó, Tư Mã Thiên đã cầm lại quản bút lông. Ông không thấy vui và cũng chẳng cao hứng, duy dồn hết tâm trí vào việc ghi chép. Ông chậm chạp lê quản bút trên trang bản khác như một lữ khách lê đôi chân què quặt từng bước trên đường. Lúc đó, ông đã bị bãi chức Thái Sử Lệnh nhưng có lẽ vì có chút hối hận nên một ít lâu sau, Vũ Đế đã thăng ông làm Trung Thư Lệnh (lo việc văn thư trong cung) nhưng những việc thăng giáng như thế này đã không còn ý nghĩa gì đối với ông nữa. Một người trước kia hùng biện như Tư Mã Thiên giờ đã im re. Ông không cười và cũng chẳng bao giờ tỏ ra giận dữ. Tuy nhiên, nhất định ông không phải là người đang buồn bã hay thối chí. Có thể vì mặt mũi lúc nào cũng lầm lầm lì lì, ông đã gây ra ấn tượng kinh hãi cho người chung quanh vì họ thấy ông giống như một kẻ đang bị ma ám. Ngay giữa đêm khuya, có lẽ vì tiếc thời gian, ông vẫn lúi húi làm việc. Ông làm cho người nhà có cảm tưởng ông đang vội vã hoàn tất bộ Sử Ký càng nhanh càng tốt để sau đó có thể rảnh tay chấm dứt đời mình.

          Sau một năm liên tục nỗ lực trong hoàn cảnh thê thảm như vậy, rốt cuộc con người từng đánh mất tất cả niềm vui cuộc sống nay đã phát hiện ra một niềm vui mới khi cố sống còn để có cơ hội diễn đạt. Dù vậy, lúc ấy Thiên vẫn chưa hoàn toàn phá vỡ được sự im lặng bao bọc ông bấy nay và nét mặt của ông cũng vẫn chưa được thư giãn. Trong lúc hành văn, ông đã nhiều lần phải chép lên bản thảo những từ ngữ như “hoạn quan”, (quan hoạn) “yêm nô” (kẻ bị thiến) và lúc đó bất giác ông phải gào khóc. Những lúc một mình ngồi trong gian phòng hay ban đêm nằm trên giường, bất chợt ông đã cảm thấy nỗi tủi nhục ấy nhô lên từ một nơi nào đó. Liền lập tức, ông thốt lên một tiếng “Ôi cha” như vừa đụng phải một thanh sắt nóng bỏng (yakigote). Cái nóng nhức nhối ấy chạy khắp toàn thân làm cho ông phải đứng bật dậy, la hét và chạy vòng vòng như một gã điên. Sau đó ông đã phải nghiến răng nghiến lợi để lấy lại sự bình tĩnh và quay về với công việc.

          Ba

          Lý Lăng bất tỉnh giữa đám loạn quân. Khi mở mắt, biết mình đang nằm trong màn trướng căn lều của Thiền Vu dưới ánh sáng của những ngọn đèn thắp bằng phân khô và mỡ động vật, ông thấy phải chọn ngay một trong hai thái độ. Một là sẽ cắt cổ tự vẫn để thoát cảnh nhục nhã, hai là tạm đầu hàng giặc và sau đó tìm cơ hội trốn thoát, đồng thời sẽ làm một hành động nào đó như món quà đền bù lại việc đã không làm tròn trách nhiệm của một tướng lãnh. Ngoài hai giải pháp đó ra, ông không thấy một hướng đi nào khác. Rốt cuộc, Lý Lăng đã quyết định chọn giải pháp thứ hai. .

          Thiền Vu tự tay cởi trói cho Lăng, sau đó ông còn đối xử với Lăng hết sức trân trọng. Ông tên là Thả Đê Hầu (Qiedihou), người em út của tiền Thiền Vu Cú Lê Hồ ((Goulihou). Là một trang nam nhi lứa tuổi trung niên, thân hình vạm vỡ, mắt sâu râu hung hung đỏ. Ông từng tòng quân theo nhiều vị Thiền Vu, bao phen đụng độ với quân Hán nhưng đã thành thực nói rằng mình chưa bao giờ gặp phải một đối thủ sừng sỏ như Lý Lăng. Trong khi ca ngợi tài chinh chiến của Lăng, ông cũng không quên nhắc lại oai phong của tổ phụ ông, Phi tướng quân Lý Quảng. Nào chuyển Quảng tay không đánh hổ, nào chuyện Quảng bắn tên xuyên qua cả đá, tất cả đều đã lan truyền đến tận đất Hồ. Sở dĩ Lăng được đối đãi trọng hậu, trước tiên vì ông là hậu duệ của trang dũng tướng đó, hai là bản thân ông cũng là người mạnh mẽ. Theo tục lệ Hung Nô thì khi chia phần ăn uống, những món ngon vật lạ đều được dành cho các chiến sĩ dõng mãnh, đám lính lão nhược chỉ được mỗi thức ăn thừa. Đặc biệt là ở đây, không ai có quyền coi thường những con người dũng cảm. Vì vậy, tuy là một hàng tướng nhưng Lý Lăng đã được đãi ngộ với chế độ tân khách, nghĩa là được chia cho một lều nhà vòm để ở và có hơn mười nô bộc theo hầu hạ.

          Như thế, cuộc sống kỳ lạ của Lý Lăng đã bắt đầu từ đấy. Nhà ông ở là một cái lều hình vòm bọc bằng da thú của dân du mục với màn nhung trướng gấm bên trong. Thức ăn là thịt dê sống, thức uống là sữa tươi hoặc sữa đã lên men lấy từ gia súc, còn quần áo là loại “chiên cừu” vốn khâu lại từ những bộ da sói hay da gấu. Ngoài những lần đi chăn súc vật, săn bắn hay lùng bắt kẻ đột nhập vào địa phận, hầu như người Hung Nô không có nhiều việc để làm. Nhìn chung quanh, trước tiên chỉ thấy những thảo nguyên ngút mắt, trải đến tận chân trời, nhưng cũng có những rặng núi, dòng sông, mặt hồ để ấn định ranh giới. Bởi vì ngoài phần lãnh thổ Thiền Vu trực tiếp cai quản, hãy còn có những khu vực do Tả Hiền Vương, Hữu Hiền Vương, Tả Cốc Lý Vương, Hữu Cốc Lý Vương và các vương hầu cấp dưới trông coi như lãnh địa ban bố cho họ. Việc di trú của các bộ tộc du mục chỉ hạn chế trong những phần đất ấy thôi. Đó là một quốc gia không có thành quách và cũng chẳng có ruộng nương. Xóm làng tuy có đấy nhưng do thời tiết, họ cũng phải dời đi để tìm cỏ và nguồn nước mới nên sau đó đều hóa thành bãi hoang.

          Lý Lăng không được ban đất đai. Ông chỉ có việc cùng với các tướng lãnh khác tháp tùng Thiền Vu mỗi khi ông này di chuyển. Trong đầu nhiều khi Lý Lăng nghĩ rằng, nếu có cơ hội mình sẽ tìm cách lấy đầu Thiền Vu, nhưng cơ hội đó không đến dễ dàng như thế. Việc giết Thiền Vu rồi cắp thủ cấp ông ấy trốn đi chẳng những khó lòng tạo ra cơ hội mà hầu như không có khả năng. Cho dù sự kiện đẫm máu như thế có xảy ra đi nữa, nhất định là vì danh dự của họ, khi cơ sự còn chưa vỡ lỡ, người Hung Nô sẽ dấu nhẹm và tin tức đó vĩnh viễn không về tới đất Hán. Dù sao, Lăng vẫn nhẫn nại chờ đợi cái cơ hội hầu như vô vọng ấy.

          Ngoài Lý Lăng ra thì dưới trướng Thiền Vu hãy còn một số Hán nhân đến qui hàng. Trong bọn họ, có người tên Vệ Luật nhưng ông này không phải là quân nhân. Dù vậy, ông là người Hán được Thiền Vu trọng dụng hơn cả vì đã được phong đến chức Đinh Linh Vương. Cha Vệ Luật vốn là người Hồ nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt, ông đã sinh ra và lớn lên ở kinh đô nhà Hán. Ông đã có thời phụng sự Vũ Đế nhưng gần đây vì lo sợ bị liên lụy trong vụ án Hiệp Luật Đô Úy Lý Diên Niên nên đã trốn về đất Hung Nô. Nhờ cùng huyết thống, ông đã làm quen với lối sống người Hồ một cách nhanh chóng, trở nên giàu có và thường được tham dự các cuộc hội nghị bí mật do Thiền Vu Thả Đê Hầu (Qiedihou) tổ chức để đưa ra sách lược. Trước tiên đối với Vệ Luật, sau đến các kẻ qui hàng khác trong đám, Lý Lăng không bao giờ chịu mở miệng nói chuyện. Nói như thế cũng để hiểu rằng cùng là người Hán và sống chung cảnh ngộ nhưng giữa họ vẫn cảm thấy có gì thiếu tự nhiên nên không tìm cách đi lại với nhau.

          Có lần Thiền Vu đã vời Lý Lăng đến để hỏi về sách lược quân sự. Vì nó có liên quan đến cuộc chiến với bộ tộc Đông Hồ nên Lý Lăng đã thoải mái hiến kế. Tiếp đến, Thiền Vu lại cho mời ông đến nhưng lần này là để hỏi về cách đối phó với quân Hán thì Lý Lăng liền có thái độ bực dọc ra mặt và không chịu hé môi. Thiền Vu cũng không vì thế mà ép ông phải trả lời. Thế rồi khá lâu sau, khi họ đang cần có một vị tướng để đưa quân xuống miền Nam thám thính hai vùng đất của Hán là Đại và Thượng Quận và chiêu mộ ông. Lúc đó ông đã thẳng tay từ chối, cho biết mình không thể xuất trận nếu phải đánh lại quân Hán. Từ đó, Thiền Vu cũng chẳng đòi hỏi ông phải làm việc ấy thêm lần nào cả và không hề thay đổi cách đãi ngộ với ông. Không phải vì chúa Hung Nô muốn để dành ông cho một mục đích khác, chẳng qua là cách đãi ngộ của một tráng sĩ đối với một tráng sĩ Dù sao, cho tới bấy giờ, Lý Lăng bao giờ cũng cảm thấy rằng Thiền Vu này là một người đáng mặt nam nhi.

          Tả Hiền Vương, người con trai cả của Thiền Vu, bắt đầu có một mối thiện cảm đặc biệt đối với Lăng. Bảo là thiện cảm nhưng hẳn là một tình cảm gần với sự kính trọng. Cậu ta vừa bước qua tuổi đôi mươi, tuy còn thô vụng nhưng đã chứng tỏ mình là một thanh niên dũng cảm và đứng đắn. Lòng ngưỡng mộ những con người dũng mãnh nơi cậu thật là trong sáng và mạnh mẽ. Ban đầu cậu đã đến gặp Lăng để xin học về kỵ xạ (cưỡi ngựa bắn cung). Gọi là kỵ xạ nhưng thật ra thì về chuyện cưỡi ngựa (kỵ), phải nói là cậu ta đã rất thành thạo. Đặc biệt là kỹ thuật cưỡi ngựa không yên thì cậu ta qua mặt cả Lăng. Do đó, Lăng chỉ hướng dẫn cậu về xạ (thuật bắn cung). Tả Hiền Vương trẻ này đã trở thành một đệ tử sốt sắng của Lăng. Khi Lăng bàn đến tài thần tiễn của tổ phụ Lý Quảng, thì đôi mắt của chàng thanh niên phiên tộc ấy đã sáng lên rờ rỡ như sẵn sàng thu nhận những chiêu thức tuyệt kỹ ấy vào lòng.

          Hai thầy trò thường đi săn bắn với nhau. Chỉ đem theo vỏn vẹn vài kẻ tùy tùng, họ đã phóng ngựa như tên bắn vượt qua những cánh đồng cỏ rộng đế săn những con mồi như chồn, sói, linh dương, chim điêu, chim trĩ . . . Có lần khi chiều xuống và đã bắn hết tên, ngựa của hai người lại bỏ đám tùy tùng đằng sau thật xa, bỗng họ bị một đàn chó sói bao vây. Họ đã phải ra roi quất ngựa chạy hết tốc lực xuyên qua đám thú dữ hòng thoát hiểm. Thế nhưng lúc đó, một con sói đã bay lên và chụp lấy mông ngựa của Lăng. May mắn là vị Tả Hiền Vương trẻ tuổi đang ruỗi ngựa theo sau đã vung chiếc đao cong (loan đao, wantô)chém ngọt nó thành hai đoạn. Sau đó nhìn lại, hai người mới thấy chân ngựa của họ đã bị lang sói cắn nát thành những vết thương máu ra lai láng. Sau một ngày mệt nhọc và đầy cảm xúc như thế, ban đêm khi trở về lều, vừa thôi phù phù lên bát đồ hầm nóng nấu với những con thịt chiến lợi phẩm rồi húp lấy húp để, Lăng thấy lòng mình bỗng nẩy sinh một tình cảm tựa hồ tình bạn đối với chàng tuổi trẻ, con trai của Phiên vương, người mặt đang ửng hồng lên vì ánh lửa.

          Mùa thu năm Thiên Hán thứ ba, một lần nữa, quân Hung Nô lại xâm phạm Ngọc Môn Quan. Để đáp trả, năm sau (Thiên Hán thứ tư), nhà Hán đã cử Nhị Tướng Quân Sư Lý Quảng Lợi thống suất một đại binh gồm 6 vạn kỵ binh và 7 vạn bộ binh ra khỏi đất Sóc Phương. Ngoài ra Cường Nỗ Đô Úy Lộ Bác Đức cũng dẫn một đoàn quân đánh bộ 1 vạn người đi theo tiếp ứng. Thêm vào đó, lại có Nhân Vu Tướng Quân Công Tôn Ngao thống lĩnh một đạo quân 1 vạn kỵ và 3 ván lịnh đánh bộ từ Ngọc Môn Quan, Du Kích Tướng Quân Hàn Duyệt mang 3 vạn bộ binh từ vùng Ngũ Nguyên tiến ra. Đó là một chuyến Bắc phạt lớn chưa từng thấy trong những năm gần đây. Nghe tin cấp báo, Thiền Vu bèn cho tất cả người già, phụ nữ và trẻ em, gia súc cùng mọi thứ tài vật tản cư lên vùng phía Bắc Dư Ngô Thủy (sông Kerulen) còn mình thị tập hợp 10 vạn chiến sĩ kỵ binh để tranh phong với đạo trung quân nhà Hán của Lý Quảng Lợi và Lộ Bác Đức trên vùng đại thảo nguyên ở phía nam sông đó (Thủy Nam). Nhiều trận đánh khốc liệt đã xảy ra suốt mười ngày trời và cuối cùng quân Hán đã buộc lòng phải lui binh. Trong khi đó, người học trò của Lý Lăng là vị Tả Hiền Vương trẻ tuổi đã dẫn một đội binh khác tiến về phía Đông để nghênh chiến binh đoàn hữu dực của tướng Nhân Vu (Công Tôn Ngao) và phá nó không còn manh giáp..Đạo tả dực của tướng Hán là Hàn Duyệt cũng không lập được công lao gì, đành triệt thoái. Cuộc Bắc chinh của nhà Hán hoàn toàn thất bại. Như thông lệ, Lý Lăng không ra mặt trong một trận đánh nào với quân Hán và lui về phía Bắc con sông (Thủy Bắc) . . . Từ xa, ông đã cố ý kín đáo theo dõi chiến công của Tả Hiền Vương, người học trò mới của mình, mà không khỏi kinh ngạc. Nói chung, việc ông mong cho quân Hán thắng và Hung Nô thất bại là chuyện dĩ nhiên, riêng Tả Hiền Vương thì hình nhu Lăng lại không muốn thấy cậu ta phải thất bại. Khi nhận ra trong nội tâm mình có sự biến chuyển đó, ông đã giận dữ tự trách mắng mình.

          Tướng Công Tôn Ngao, người bị Tả Hiền Vương đánh xang bang xất bất, chẳng những không lập được chiến công nào mà còn hao binh tổn tướng, khi về đến kinh đô, bị nghị tội và trói giam vào ngục. Ông ta đã tự biện hộ một cách kỳ quặc. Ông bảo một tù binh người Hồ đã cho ông hay rằng sở dĩ quân Hung Nô mạnh ra là vì bên trong họ, vừa có một tướng quân họ Lý, sau khi về đầu hàng, đã hiến nhiều mưu mô sách lược để giặc có thể chỉnh đốn quân sĩ. Tuy nhiên những lời trên không được xem là bằng cớ để xóa đi sự thất bại của Nhân Vu nên Tướng Quân Công Tôn Ngao vẫn không thể chạy tội, nhưng mặt khác, nó đã làm cho trận lôi đình của Vũ Đế hướng cả về phía Lăng. Gia quyến của Lăng, trước kia bị bắt nhưng đã được phóng thích một lần rồi nay bị tống giam vào ngục trở lại và lần này, từ người mẹ già của Lăng cho đến vợ con và cả đứa em trai, đều đã bị sát hại. Khinh bạc là thói thường ở đời, đương thời những sĩ đại phu đồng hương Lũng Tây với Lăng (họ Lý của gia đình Lăng vốn xuất thân từ đất Lũng Tây) đã họp nhau và ra một thanh minh nhằm kết án gia đình Lăng vì đã có những hành động hoen ố thanh danh của họ.

          Những tin tức như vậy mãi đến nửa năm sau với lọt vào tai Lăng từ cửa miệng một tên lính nhà Hán bị người Hồ bắt cóc ở gần quan ải. Khi nghe tin dữ, Lăng đã đứng bật dậy, túm lấy ngực áo của người đưa tin và lay đi lay lại dữ dằn như muốn kiểm tra một lần nữa xem có phải nó là sự thực hay không. Khi biết rằng tin đó hoàn toàn chính xác, ông ta đã nghiến răng nghiến lợi và bất ngờ vận sức vào hai nắm tay. Bỗng thân thể người đàn ông kia quính quíu lại và hắn chỉ bật ra được một tiếng ằng ặc. Bởi lẽ trong lúc không làm chủ được mình, hai bàn tay Lăng đã vô tình bóp nghẹt yết hầu người lính. Khi Lăng vừa buông tay thì người lính đã đổ sụm xnống rồi lăn kềnh dưới đất. Chẳng thèm nhìn lại cảnh vừa xảy ra, Lăng đã phóng ra khỏi lều.

          Lăng lang thang trên cánh đồng cỏ mà chẳng biết mình đi đâu. Sự căm phẫn quay cuồng trong đầu ông như tạo ra một vũng nước xoáy. Nghĩ đến mẹ già và con thơ, lòng ông đau như xé nhưng đôi mắt ông vẫn ráo hoảnh. Có lẽ vì ông quá giận dữ, những giọt lệ ấy đã khô cạn mất rồi.

          Đâu chỉ có chuyện mới xảy ra lần này. Từ trước tới giờ, cả gia tộc Lăng đã bao phen bị nhà Hán đối xử tàn nhẫn như thế rồi. Lăng nhớ lại giây phút lâm chung của ông nội mình là Lý Quảng (cha của Lăng tên là Đương Hộ đã chết mấy tháng trước khi Lăng ra đời). Có thể nói Lăng là đứa con cha để sót lại trong bụng mẹ (di phúc chi nhi). Do đó, kẻ đã nuôi dạy Lăng từ những ngày thơ ấu không ai khác hơn là ông nội. Danh tướng Lý Quảng đã bao lần Bắc chinh và lập được đại công trên chiến trường nhưng vì bọn gian thần cạnh vua ngăn chặn nên chưa bao giờ được ân thưởng. Các tướng bộ hạ của ông hết người này đến người khác đều được phong Hầu, chỉ có ông tướng liêm khiết này là chưa bao giờ đạt đến tước vị đó. Suốt đời ông đã cam chịu kiếp sống thanh bần. Cuối cùng giữa ông và Đại tướng Vệ Thanh lại xảy ra một cuộc xung đột. Tuy tướng Vệ Thanh cũng có lòng ưu ái đối với viên lão tướng tài ba nhưng một tên bộ hạ dưới trướng Thanh đã mượn oai hùm của chủ để lăng nhục Quảng. Vì quá căm phẫn nên viên lão tướng này đã tức thời rút đao tự vẫn ngay giữa doanh trại. Lăng hãy còn nhớ rành mạch cái ngày nghe tin ông nội mất, khi nghe tin, ông đã không thốt ra được một lời.

          Chú của Lăng tức Lý Cảm (người con trai thứ của Quảng) thì chết như thế nào? Cảm vì uất ức trước cái chết của cha là Lý tướng quân đâm ra oán hận Vệ Thanh nên đã tự mình đến tư dinh của viên chỉ huy làm cho ra lẽ. Người cháu (gọi bằng cậu) của Thanh lầ Phiêu Kỵ Tướng Quân Hoắc Khứ Bệnh lấy đó làm tức giận nên trong một buổi đi săn ở ly cung Cam Tuyền đã bắn chết Cảm.Vũ Đế dù biết chuyện nhưng vì muốn bao che cho Phiêu Kỵ Tướng Quân (cũng là cháu trai của Vệ Hoàng Hậu, NNT) nên công bố rằng Cảm khi đi săn đã vướng phải sừng nai mà chết ! . . .

          Khác với trường hợp của Tư Mã Thiên, tâm trạng Lý Lăng đơn giản hơn. Tất cả chỉ là một sự phẫn nộ (ngoại trừ chút tiếc nuối là tại sao mình đã không sớm thực hành ý định lấy đầu Thiền Vu rồi trốn khỏi đất Hồ) nhưng vấn đề của ông chỉ là không biết cách nào bày tỏ nó ra. Ông nhớ lại lời người lính kia vừa nói khi nãy: "Khi nghe bên đất Hồ có một hàng tướng họ Lý đã bày mưu tính kế cho địch quân để chống lại quân Hán thì hoàng thượng đã hết sức giận dữ vv..." Ông nghĩ tới một sự việc ăn khớp với câu nói trên. Ông chắc chắn mình không phải là người làm chuyện đó nhưng biết rằng trong quân có một tướng Hán tên gọi Lý Chư. Nguyên lai, ông này là mang chức Tái Ngoại Đô Úy có nhiệm vụ phòng thủ thành Khê Hầu. Ông ta đã đầu hàng Hung Nô, thường huấn luyện và hiến kế cho quân Hồ. Mới nửa năm trước đây thôi, Lý Chư đã tháp tùng Thiền Vu (tuy không phải để đánh đạo quân Công Tôn Ngao vừa nhắc đến) nhưng cũng là giao chiến với quân Hán. Lăng thầm nghĩ có lẽ là nhân vật này rồi. Vì Lý Chư cũng được gọi là “Lý tướng quân” nên nhất định là lý do đó đã đưa đến sự nhầm lẫn giữa hai người.

          Tối hôm đó, Lăng bèn một mình đển căn trại nơi Lý Chư ở, không nói một lời và không để cho Chư thốt được một tiếng mà chỉ bằng một nhát kiếm, đã kết liễu đời ông ta.

          Ngày hôm sau, Lăng bèn xin đến trước mặt Thiền Vu để thú hết mọi sự. nhưng Thiền Vu lại bảo ông không phải lo lắng gì cả. Hiềm nỗi câu chuyện có chút liên quan đến người mẹ của ông là Thái hậu họ Đại Yên nên hơi phức tạp. Thực ra thì tuy tuổi đã cao nhưng nghe nói bà này có tư tình với Lý Chư. Thiền Vu cũng biết chuyện xấu xa đó nhưng đành chấp nhận như vậy. Theo phong tục của người Hung Nô thì khi một người cha chết, tất cả phụ nữ dù là vợ hay tì thiếp đều trở thành vật thừa kế của trưởng nam. Tất cả bọn họ sẽ là thê thiếp của anh ta ngoại trừ người mẹ đẻ ra anh. Trong xã hội nam tôn nữ ti đến mức cực đoan này, người sinh mẫu vẫn còn được họ cho hưởng một sự tôn kính. Do đó Thiền Vu mới khuyên Lăng hãy lên ẩn nấp ở trên miền Bắc, đợi đến khi tình hình “sôi động” ở đây lắng dịu, ông sẽ sai người đón Lăng về. Lăng bèn y theo lời ông, đem vài kẻ tùy tùng lên vùng núi Đâu Khảm Sơn trong rặng Ngạch Lâm Đạt Ban Lĩnh phía Tây Bắc, sống dưới chân núi, để tạm lánh mặt Thái Hậu một thời gian.

          Chẳng bao lâu, Thái Hậu họ Đại Yên trong vụ lộn xộn này đã lâm trọng bệnh mà qua đời. Khi được Thiền Vu gọi về triều đình, con người của Lăng lúc đó đã trở nên khác hẳn. Có nghĩa là nếu cho đến nay, ông tuyệt đối không chịu dự phần vào chuyện bày mưu hiến kế chống lại quân Hán thì bây giờ ông đã tự mình xin tham gia và lên tiếng trong những cuộc họp bàn với họ. Thấy có sự thay đổi nơi ông, Thiền Vu rất đỗi vui mừng. Ông ta bèn phong Lăng chức Hữu Hiệu Vương và gả cho một trong những người con gái của mình. Thực ra thì chuyện gả công chúa thì trước đây Thiền Vu đã nhiều lần ướm hỏi nhưng Lăng vẫn tiếp tục từ chối. Thế mà bây giờ ông lại nhận lời không chút chần chờ. Nhân lúc đó Hung Nô muốn gửi một đạo quân xuống vùng Tửu Tuyền Trướng Dịch để thăm dò tình hình ở biên giới, Lăng đã tự mình xin được tòng chinh. Thế nhưng con đường hành binh về phía Tây Nam này nhiều lúc phải băng qua chân ngọn Tuấn Kê Sơn, quả cảm như Lý Lăng mà cũng phải chạnh buồn khi đứng trước cảnh vật.Vừa bước trên mặt cát mà ngày xưa các thủ hạ của mình đã đổ máu, vùi xương, vừa nhìn lại thân thế mình,. Lăng bèn cáo bệnh và một mình một ngựa quay về hướng Bắc.

          Qua năm sau, Thả Đề Hầu Thiền Vu (Qidiehou) tạ thế. Người lên nối nghiệp là vị Tả Hiền Vương mà Lăng có mối giao tình trọng hậu. Vị vua mới được biết với danh hiệu Hồ Lộc Cô Thiền Vu (Hulugu).

          Cho đến lúc đó, tuy đã là Hữu Hiệu Vương của Hung Nô nhưng lòng của Lý Lăng vẫn còn đôi chút phân vân. Tuy khắc ghi mối thù diệt tộc (mẹ già và vợ con đều bị sát hại) vào tận xương tủy nhưng qua kinh nghiệm mới đây, ông thấy mình vẫn không thể nào xua quân đi đánh Hán. Đã thề rằng không bao giờ còn dẫm chân lên đất Hán thế nhưng ông tự hỏi một đời mình có thể vui lòng bị Hồ hóa hay không? Cho dù vị Thiền Vu mới có lòng ưu ái nhưng Lăng thấy mình vẫn chưa đủ tự tin để hòa nhập vào xã hội người Hồ. Ông vốn là người không ưa suy nghĩ nên mỗi khi cảm thấy căng thẳng, chỉ biết phóng ngựa chạy như bay trên thảo nguyên rộng lớn. Bên dưới bầu thời thu xanh ngắt một màu, tiếng vó câu dồn dập, ông ra roi phóng như điên dại, không kể gì đó là đồngcỏ hay là đồi núi. Sau khi đã chạy một mạch hết mấy chục dặm, cả người và ngựa đều đã mệt đứt hơi, ông mới đi tìm một dòng suối nhỏ nằm giữa cao nguyên và xuống bên bờ cho ngựa uống nước. Sau đó ông bèn nằm lên bãi cỏ, ngửa mặt nhìn bầu trời trong xanh cao rộng và chờ cho nỗi mệt nhọc tan đi. .Ông cảm thấy cái Ngã nhỏ nhoi của mình như hòa vào trong khoảng thiên địa vô cùng. Có lúc ông không còn phân biệt đâu là Hồ đâu là Hán nữa. Nghỉ ngơi được một lúc, ông lại lên ngựa ra roi phóng tiếp, lòng không còn vướng bận gì nữa. Sau một ngày trời ruổi ngựa như thế, chiều đến, khi những đám mây vàng tắm mình trong ánh tà dương, ông mới quay về doanh trại. Cái mệt mỏi của một ngày dài, ngược lại, đã đem đến cho ông một sự cứu rỗi.

          Đã có người thông tin cho Lăng biết là Tư Mã Thiên vì bênh vực ông mà phải chịu nhục hình. Nhưng đối với việc đó, ông không hề nghĩ mình phải cám ơn hay tỏ lòng thương xót viên sử quan ấy. Tuy hồi còn ở trong triều Lăng có biết mặt Thiên, gặp nhau thì cũng đôi lần chào hỏi nhưng hai bên chưa từng kết giao. Có thể Lăng còn xem Thiên là một kẻ khó ưa, lúc nào cũng thích nghị luận lôi thôi. Hiện tại Lý Lăng còn phải cật lực đối đầu với những nỗi thống khổ của cá nhân mình, làm gì lo toan cho ai khác được. Lăng không đến nỗi xem hành động của Thiên như vô nghĩa nhưng tình thực, ông đã không bày tỏ lòng thương cảm đặc biệt gì đối với Thiên.

          Ban đầu, Lăng thấy tục lệ của người Hồ nói chung là hạ đẳng và buồn cười nhưng sau khi tìm hiểu thêm bối cảnh phong thổ, khí hậu và sinh hoạt của họ, ông mới thấy nó không có gì đáng gọi là lạ lẫm hay phi lý. Dần dần Lăng đã hòa mình vào trong nếp sống của họ. Nếu ông không mặc Hồ phục tức áo dày làm bằng da thú thì dễ gì chịu nổi cái buốt giá của mùa đông vùng Sóc Bắc, nếu ông không ăn đủ thịt thà như họ thì làm sao trữ được tinh lực trước thời tiết lạnh lẽo của đất Hồ. Ngay việc họ không cất những ngôi nhà cố định tất nhiên cũng vì tuân theo hình thái sinh hoạt du mục. Từ người trên cho đến kẻ dưới, không ai phê phán về việc bỏ chỗ ra đi như thế. Những ai muốn gìn giữ cho được nếp sinh hoạt của người Hán, e rằng sẽ không trụ nổi - dù chỉ một ngày - trên đất Hồ.

          Lý Lăng hãy còn nhớ một câu nói của Thả Đề Hầu (Qiedihou), vị Thiền Vu đời trước: Ông ta từng bảo :  “Người Hán là những kẻ nhị ngôn mà dám chê bai dân Hung nô của ta là không hiểu lễ nghĩa liêm sỉ, hành động chẳng khác cầm thú. Thế thì lễ nghĩa của người Hán là gì nào ?  Không phải là dấu đi những chuyện xấu xa bằng cách dùng mỹ từ để tô điểm bên ngoài cho đẹp đẽ hay sao ?  Người Hồ và người Hán, hỏi bên nào thích lợi lộc và ganh tỵ người khác hơn nhỉ ?  Còn chuyện đam mê sắc dục, tham lam tài vật thì bên nào mới trội hơn ?  Nếu lột bỏ mặt ngoài đi, nhất định bên trong, hai giống người không có gì là khác nhau cả. Chỉ có điều là người Hán giỏi tô vẽ, còn dân tộc ta thì không biết cách đó”.  Khi Thiền Vu đưa ra ví dụ như việc cốt nhục tương tàn qua những cuộc nội loạn và cảnh giết hại công thần vào buổi đầu nhà Hán, thì Lý Lăng đã phải cứng họng, không có nổi một lời đáp trả. Thực ra thì Lăng là con nhà võ nên xưa nay vẫn hoài nghi giá trị của Lễ vì ông thấy đã nhiều lần nó chỉ mang đến sự phiền phức. Theo ông thì phong tục người Hồ tuy thô thiển nhưng lại chính trực nên ông thích nó nhiều hơn việc người Hán dùng sự hoa mỹ để đôi khi dấu diếm những điều hiểm ác bên trong. Dần dần Lăng ý thức được rằng việc xem phong tục Hoa Hạ là đúng và Di Địch là sai mà mình mang bấy lâu nay chỉ đến từ thiên kiến của tộc Hán. Chẳng hạn như việc mọi người sinh ra vừa có một cái tên (danh) và tuyệt đối phải có thêm một cái tên tự (azana) nhưng Lăng thấy không có gì chứng minh cho sự cần thiết của cái tên tự ấy cả.

          Người vợ của Lăng là một phụ nữ hết sức nhu mì, cho đến nay, khi ra trước mặt chồng, bao giờ cũng khép nép và ít nói. Thế nhưng cậu con trai sinh ra giữa hai người thì không hề sợ bố, hễ có dịp là leo lên gối và sà ngay vào lòng Lăng. Khi nhìn mắt cậu bé, ông không thể nào không nhớ lại đứa con trai mà ông đã bỏ lại Trường An mấy năm về trước. Rốtcuộc, cậu đã bị sát hại một lượt cùng với mẹ và bà nội. Mỗi lần hình bóng đứa con phảng phất trước mắt, lòng của Lăng không khỏi thẫn thờ.

          Khoảng chừng một năm trước khi Lăng đầu hàng Hung Nô, đã có chuyện chức Trung Lang Tướng (chức quan giữ cung điện) nhà Hán là Tô Vũ bị câu lưu trên đất Hồ,

          Nguyên lai, Tô Vũ là một sứ giả sang thương thuyết hòa bình [5]. Sứ tiết của ông được gửi đi là để dàn xếp việc trao đổi tù binh giữa hai bên. Rủi thay cho ông là viên phó sứ họ Mỗ đôi khi lại can dự vào việc tranh chấp nội bộ triều đình Hung Nô cho nên tất cả đoàn đi sứ đã bị tống giam vào ngục. Thiền Vu không vội giết mà chỉ giam giữ và uy hiếp để bắt tất cả phải đầu hàng. Trong bọn chỉ có mỗi Tô Vũ là khăng khăng không chịu và vì muốn tránh sự nhục nhã, có lần đã lấy kiếm tự mình đâm vào người để tự sát. Khi ông ngã xuống hôn mê nhưng y sĩ người Hồ đã dùng mổ chước hết sức lạ để cứu mạng ông. Họ cho đào một cái hố dưới đất và nung lửa để lấy hơi ấm rồi đặt người bị thương nằm lên rồi dẫm trên lưng ông ta cho đến khi máu độc ra hết. Điều này đã được chép lại trong Hán Thư. Lối trị liệu hoang dã này thế mà lại có kết quả. Khổ cho Tô Vũ là sau nửa ngày hôn mê như vậy, ông đã bắt đầu thở lại.Thiền Vu Thả Đề Hầu có vẻ bằng lòng với thái độ trung nghĩa của ông. Vài tuần sau khi thân thể của Tô Vũ đã bắt đầu hồi phục, Thả Đề Hầu đã gửi người cận thần và cũng là hàng tướng là Vệ Luật đến thăm, hết lòng khuyên ông qui hàng. Thế nhưng Vệ Luật đã phải hứng lấy những lời mạ lỵ gay gắt từ phía Vũ nên hổ thẹn mà rút lui. Sau đó Tô Vũ đã sống u bế trong một cái hang. Câu chuyện ông đã phải nhúng chăn len (chiên mao) vào tuyết để ngậm hòng dằn cơn đói khát, cũng như câu chuyện người ta bắt ông phải lên bờ Bắc Hải (hồ Baikal) để chăn một đoàn dê đực và sẽ được tha về khi dê có sữa, truyện ông suốt 19 năm trời vẫn giữ cây cờ tiết của sứ thần (thập cửu niên trì tiết) . . .   đều là những giai thoại quá nổi tiếng nên không cần nói thêm ở đây. Trong lúc Lý Lăng đi đến chỗ quyết định gửi tấm thân tàn nơi đất Hồ thì Tô Vũ từ lâu vẫn một mình một thân chăn dê bên bờ Bắc Hải . . .

          Đối với Lý Lăng, Tô Vũ là một người bạn ông quen biết từ 20 năm nay. Xưa kia họ đã có một thời gian cùng giữ chức Lang Trung. Lăng biết Vũ có lối suy nghĩ độc lập và có phần ngoan cố nhưng vẫn xem ông ta như một bậc sĩ quân tử. Năm Thiên Hán nguyên niên, sau khi Vũ bị đày lên miền Bắc chăn dê thì chẳng bao lâu, ở quê nhà, mẹ của Vũ đã mất vì bệnh. Lăng đã đến Dương Lăng để tiễn biệt bà. Trước khi Lăng đang chuẩn bị cho cuộc Bắc chinh thì ông đã nghe người ta đồn đãi cái tin vợ Tô Vũ, vì tuyệt vọng với việc ngày chồng về nước nên đã bỏ đi làm dâu nhà khác. Lăng nhớ ông đã phẫn uất biết mấy khi hay tin bạn mình đã bị người đàn bà ấy phụ bạc.

          Thế nhưng ông cũng không lường nổi việc sau khi mình đầu hàng Hung Nô, đã không còn muốn gặp lại Tô Vũ. Việc Vũ bị đày lên miền Bắc xa xôi, khỏi phải giáp mặt nhau, đối với Lăng, có khi lại là một sự ổn thỏa. Đặc biệt là từ khi gia tộc bị tru diệt, Lăng không còn muốn trở về đất Hán nên ông lại càng muốn tránh mặt “cái tên chăn dê không chịu rời lá cờ tiết” ấy !

          Sau khi Thiền Vu Hồ Lộc Cô (Hulugu) kế nghiệp cha trị vì được mấy năm, chợt có tin hiện nay không biết Tô Vũ sống chết như thế nào. Hồ Lộc Cô bèn nhớ lại viên sứ giả nhà Hán, người mà vua cha của ông đã không thể khuất phục. Ông muốn biết tin ấy có đúng hay không và nếu như Tô Vũ còn sống sót, tại sao không kiếm cách thuyết hàng ông ta thêm lần nữa? Do đó ông đã nhờ Lý Lăng làm công việc này. Cũng vì ông cũng nghe nói Lăng với Vũ vốn là hai người bạn. Vì không thể thoái thác nên Lăng đã phải lên miền Bắc.

          Sau khi đi ngược lên đến chỗ dòng Chí Cư Thủy (Guqie) hợp lưu với dòng Cô Thả Thủy (Zhiju), Lăng còn phải băng qua những cánh rừng bạt ngàn của miền Tây Bắc. Suốt mấy ngày trời đi dọc theo bờ sông mà đây đó vẫn còn những mảng tuyết chưa tan, cuối cùng ông mới nhận ra màu xanh như ngọc bích của nước Bắc Hải hiện ra phía bên kia những rừng cây con và những cánh đồng cỏ. Những người thuộc tộc Đinh Linh (Dingling) sống ở đây đã làm nhiệm vụ chỉ đường và đưa đoàn của Lý Lăng đến một căn nhà nhỏ đìu hiu làm bằng những súc gỗ thô. Chủ nhân ngôi nhà có lẽ vì ngạc nhiên khi nghe tiếng người lạ nên đã thủ một cây cung và chạy ra xem. Nhìn khuôn mặt râu ria rập rạp của một người rừng trùm từ đầu xuống một bộ quần áo làm bằng da thú, tất cả trông giống như con gấu, tuy Lý Lăng nhận ra đó là hình bóng của Tô Tử Khanh, chức Lang Trung ngày xưa trông coi tàu ngựa của hoàng đế nhưng người phía bên kia phải mất cả một đỗi mới nhận ra rằng vị đại quan đang mặc Hồ phục đứng trước mặt mình là người từng được biết như viên Kỵ Đô Úy Lý Thiếu Khanh. Cũng bởi vì Tô Vũ không hề hay biết chuyện Lý Lăng đang phụng sự người Hồ.

          Niềm cảm động đang dâng lên trong người Lăng đã áp chế được nỗi tị hiềm khiến cho đến nay, ông muốn tránh gặp mặt Tô Vũ. Lúc đầu hai người hầu như không biết nói gì. với nhau. Đám tùy tùng của Lăng phân chia chỗ ở trong vài túp lều mái vòm (kyuuro) bên cạnh mà họ vừa dựng lên. Từ một chỗ vắng vẻ không có ma nào bất chợt đã trở nên nhộn nhịp. Họ bèn khuân rượu và thức ăn đã chuẩn bị sẵn vào bên trong ngôi nhà gỗ. Lâu lắm rồi trong rừng đêm mới vẳng lên những tiếng cười nói vui vẻ làm kinh sợ cả đám điểu thú. Rồi như thế, đoàn người đã lưu lại ở đấy vài hôm.

          Lý Lăng muốn kể lể cho bạn nghe sự tình tại sao mình lại phải mặc trang phục của người Hồ mà lòng không khỏi cay đắng. Tuy nhiên Lăng chỉ kể lại các chi tiết một cách trung thực chứ không ngầm có ý biện hộ. Tô Vũ cũng thành thực trình bày cho bạn biết cuộc sống hiên tại của mình như thế nào. Hình như nó không đến nỗi ảm đạm cho lắm, nhất là trong mấy năm gần đây. Trước đó một hoàng thân Hung Nô tên là Ư Kiền Vương (Yuchen) tình cờ ghé qua đây trong một lần đi sắn đã có thái độ thương cảm đối với hoàn cảnh của Tô Vũ.Trong ba năm liên tiếp, ông đã gửi lương thực và quần áo đến tiếp tế cho Vũ. Thế nhưng từng ngày vị tiểu vương này qua đời, Vũ đã phải đào hố trong tuyết giá ngoài thảo nguyên, bắt lũ chuột đồng (nonezumi) ăn để khỏi bị chết đói. Nếu có tin không biết ông hiện sống chết như thế nào và chuyện đàn gia súc ông chăn đã bị bọn đạo tặc cướp mất không còn một con chắc chỉ đến từ lời đồn đại vô căn cứ. Lăng chỉ báo cho Vũ hay việc lão mẫu của Vũ qua đời nhưng không đành lòng kể chuyện người vợ đã bỏ rơi con và ôm cầm sang thuyền khác.

          Lý Lăng lấy làm quái lạ. Ông không hiểu người đàn ông đó sống như vậy vì mục đích gì. Hay là ông ta sống với hy vọng có ngày trở về đất Hán ?  Đằng sau những lời Vũ phát biểu, Lăng đoán là ông không hề có ý đó. Nếu không, cớ sao ông lại chấp nhận tiếp tục chịu đựng cuộc sống thê thảm ở đây ?  Chỉ cần lên tiếng qui hàng Thiền Vu, ông sẽ được trọng dụng ngay, nhưng từ đầu, Lăng đã biết chắc Vũ sẽ không bao giờ hành động như vậy. Lăng chỉ thắc mắc tại sao Vũ lại không tự kết liễu tính mạng cho sớm. Trong cuộc sống không có ngày mai, bản thân Lăng vì dùng dằng không tự sát, nên không biết tự lúc nào đã bắt rễ trên đất Hồ này. Điều đó cũng vì ông đã chịu một số ơn huệ, tình thương mến của họ và cũng vì đạo lý. Hơn nữa, giờ đây ông có chết đi thì cũng chẳng đền đáp được gì cho nhà Hán. Tô Vũ thì khác. Đối với đất này, ông không có sự ràng buộc nào. Còn nói về lòng trung tín đối với nhà Hán thì giữa việc cầm lá cờ mao của người đi sứ và mãi mãi sống đói khát giữa thảo nguyên hay việc đốt nó ngay đi rồi dùng dao cứa cổ, có thể được Vũ xem là không có gì khác nhau. Khi vừa mới bị bắt, ông cũng đã tư đâm vào ngực mình đấy chứ, cho nên không thể bảo rằng cái tình cảm sợ chết bỗng nhiên manh nha trong ông. Lý Lăng hãy còn nhớ ngày còn trẻ, Tô Vũ là một người ngoan cố, ông ta nhẫn nhịn giỏi đến mức độ buồn cười chỉ để giữ gìn khí tiết. Ngày nay thì trong cảnh ngộ khốn cùng của ông, Thiền Vu bao nhiêu lần đã đưa cái bả vinh hoa ra để thử mồi chài. Đừng nói chi việc dính vào cái mồi đó, ngay cả việc vì không chịu nổi kham khổ, đâm ra tuyệt vọng và tự sát đi nữa, đều chứng tỏ là Vũ đã thất bại trước Thiền Vu (hay một tượng trưng nào khác của định mệnh). Lăng tự hỏi không biết đó có phải là lối suy nghĩ của Vũ chăng? Tuy nhiên hình ảnh một Tô Vũ bị xâu xé giữa định mệnh và khí tiết giờ đây không còn làm cho Lý Lăng thấy có gì là khôi hài và làm mình phải nhịn cười nữa. Nếu như giữ khí tiết là sống ngang nhiên và mỉm cười trước những thống khổ, đọi khát, lạnh lẽo và cô độc ngoài sức tưởng tượng thì nó phải là một hành động bi tráng đến ngần nào. Thái độ nhẫn nhịn đến ngang bướng của Vũ mà ngày xưa Lăng xem là có phần nào ấu trĩ, nay ông mới thấy nó đã trưởng thành để biến thành một sự kiên trì đáng kính khiến cho ông không khỏi tấm tắc. Thế nhưng chưa chắc những việc ông làm sẽ được người Hán biết tới. Do đó, ông không hề mơ tưởng đến ngày quay về đất Hán mà chỉ nghỉ làm sao để chiến đấu được tân khổ và tiếp tục sống còn trên mảnh đất Hồ hoang vu này. Cũng không mong có ai báo tin về mình cho chúa Thiền Vu, đừng nói chi đến vua Hán. Điều đó có nghĩa là ông chỉ mong sao có thể mỉm cười vui thỏa với số phận trong cái ngày cuối cùng của cuộc đời, sống cô độc và chết trong cô độc mà không cần ai chứng kiến. Ông cũng không màng dù không ai biết tới sự tích của mình. Xưa kia Lăng từng nuôi ý tưởng sẽ lấy đầu Thiền Vu đời trước và cắp thủ cấp của ông ta trốn khỏi đất Hung Nô, nhưng sau nghĩ lại, cho dù giết được kẻ địch, ông cũng khó lòng thoát khỏi nơi đây. Chuyện đó hóa ra công cốc mà triều đình nhà Hán chưa chắc đã biết tới. Vì lo ngại như thế nên Lăng đã bỏ. rơi việc thực hành ý định. Đứng trước một con người xem thường việc được ai biết đến hay không, khi nghĩ đến, Lăng đã có lần toát mồ hôi lạnh vì cảm thấy mình đã nghĩ sai.

          Sau khi sự cảm động buổi đầu đã qua đi, qua đến ngày thứ hai rồi thứ ba, Lăng cảm thấy trong lòng mình có một nỗi lo âu mà ông không tài nào gạt bỏ. Dù nói thế nào đi nữa, quá khứ của mình và quá khứ của Vũ, nếu đem so sánh thì mới thấy nó khúc mắc ở từng điểm một.Tuy không đến nỗi nghĩ rằng Vũ là người trung nghĩa còn mình là kẻ bán nước, nhưng trước sự khắc khổ Vũ rèn luyện được sau bao năm trầm tư giữa rừng xanh, đồng cỏ và sông suối, thì hành vi của mình đã bị nó hoàn toàn áp đảo. Lăng không thể nào không cảm thấy là sự thống khổ ông chịu đựng cho đến nay không có gì đáng kể để đem ra biện minh cho hành vi của mình. Hơn thế nữa, không hiểu vì sao mà cùng với thời gian, Lăng bắt đầu cảm thấy khi tiếp xúc với mình, Vũ đối lại có thái độ giống một kẻ giàu có trước một kẻ nghèo, nghĩa là thái độ ưu việt và khoan thứ. Bằng cách nào thì Lăng không biết nhưng Lăng thấy thái độ đó càng ngày rõ rệt. Tuy ăn mặc lam lũ nhưng trong ánh mắt của Vũ lại ánh lên những tia nhìn nhìn đầy xót thương tội nghiệp, trong khi đó, ông Hữu Hiệu Vương Lý Lăng, với bộ y phục xa hoa làm bằng da báo, chỉ toát ra mỗi một vẻ sợ sệt trước ánh mắt đó . . .

          Sau khi ở đấy được mươi hôm, Lý Lăng từ giã người bạn cũ, buồn bã trở về Nam. Ông đã để mọi thứ lương thực và y phục cần thiết lại căn nhà bằng gỗ thô đó, đủ cho Tô Vũ dùng.

          Vì ngượng nghịu nên Lăng đã không mở lời cho Vũ biết ý định Thiền Vu muốn cậy miệng ông để thuyết Vũ qui hàng. Thế nhưng việc gì ông phải khuyên bảo Vũ khi biết thừa rằng câu trả lời của Vũ sẽ rất rõ ràng và nó chỉ làm tủi hổ Vũ cũng như khiến ông nhục nhã mà thôi. . . .

          Dù đã trở về Nam, hình ảnh của Vũ mỗi ngày đều ám ảnh Lăng. Mỗi lần ông nghĩ là đang đuổi được nó đi thì hình ảnh ấy lại hiện ra với cái nhìn còn nghiêm khắc hơn nữa.

          Tuy Lăng không bao giờ nghĩ rằng việc mình đầu hàng Hung Nô là cái gì chính đáng nhưng khi đặt lên bàn cân những công lao mà mình đã hiến cho cố quốc và cách đối xử tồi tệ mà đất nước dành cho mình, thì ngay một vị quan án vô tình cách mấy chắc cũng phải nhìn nhận là ông đã chọn một giải pháp “bất khả kháng” (yamu wo enai). Thế mà ở đây lại có một người đàn ông khác, trước một hoàn cảnh hết sức “bất khả kháng”, vẫn không chịu cho phép mình hành sử một cách “bất khả kháng” như vậy.

          Đối với người đàn ông này, những nổi thống khổ như đói khát, lạnh lẽo, cô độc, sự thờ ơ lãnh đạm của người trong nước cũng như cái thực tế là không mấy ai biết đến mình đang chịu khổ để giữ gìn tiết tháo, đều không là những yếu tố làm nên một sự thể “bất khả kháng” đủ thay đổi cái tiết tháo mình vẫn giữ đau đáu lúc bình sinh.

          Đối với Lăng, sự tồn tại của Vũ vừa là một bài học đáng tôn quí vừa là một cơn ác mộng quấy rầy ông. Đôi khi ông có gửi người lên để dò la tin tức của Vũ, gửi tặng thực phẩm, bò dê và áo ấm chăn lông. Tình cảm muốn gặp Tô Vũ và ý định muốn tránh xa người bạn xưa này thường xuyên xung đột trong ông

          Một vài năm sau, Lý Lăng lại có cơ hội lên đến bờ Bắc Hải và đến thăm ngôi nhà làm bằng những súc gỗ thô của bạn. Trên đường, ông tình cờ gặp một đám vệ binh đang tuần thú phía Bắc Vân Trung. Ông được nghe họ kể rằng, dạo sau này quan bình nhà Hán ở vùng biên cảnh, từ cấp bậc Thái Thú trở xuống đám quan lại cho đến dân thường đều mặc quần áo trắng. Lăng nghĩ trường hợp mọi người phải để tang như vậy chỉ có thể chứng tỏ là thiên tử đã băng hà. Lăng biết tin Vũ Đế chết bằng một cách gián tiếp như vậy. Khi in ấy tới được Bắc Hải, Tô Vũ đã quay đầu về Nam, phủ phục và khóc rống. Khóc tha thiết đến nỗi sau đó vài ngày ông đã mửa cả máu. Nhìn thấy cảnh đó, tuy không nói gì nhưng Lăng cũng thấy lòng mình trở nên u ám và buồn rười rượi. Dĩ nhiên Lăng tin rằng tiếng khóc ai oán của Vũ phát ra từ một tấm lòng chân thực và không khỏi động lòng trước cảnh tượng bi thương ấy nhưng phần Lăng, ông không thể nào nhỏ lấy một giọt nước mắt. Tuy gia đình Vũ không gặp cảnh bị thảm sát như gia đình Lăng nhưng một người anh của Vũ vì vô ý gây một tai nạn giao thông trong một đám diễu hành của thiên tử, cũng như một người em của Vũ do để sổng một tên tội phạm, cả hai đều bị đàn hặc về trách nhiệm của họ và đi đến chỗ phải tự sát. Như thế, không thể nói là triều đình nhà Hán đã đối xử tử tế với gia đình Vũ. Biết rõ chuyện đó rồi, nay lại thấy trước mắt cảnh Vũ đang gào khóc một cách chân thành, Lăng mới hiểu rằng bên dưới cái vẻ ngang bướng ngày xưa của Vũ là cả một tình yêu thanh cao và thuần khiết không gì so sánh của ông đối với đất Hán, nơi quê hương xứ sở (nó không bị ảnh hưởng của tiết nghĩa vốn là những thứ bị áp đặt từ bên ngoài, nhưng đó là một tình cảm tự phát cho dù Vũ có muốn dằn cũng không dằn được) . . .  Đây là lần đầu tiên Lăng mới thấy những giọt lệ nóng và thanh khiết đó tuôn ra như vỡ bờ,

          Lý Lăng đã va phải một trở ngại cơ bản, nó đã ngăn ông với người bạn cũ. Nó đã khiến ông khó chịu và bắt buộc ông, dù muốn hay không, cũng phải quay lại nhìn chính bản thân với cặp mắt hoài nghi đen tối.

          Từ chỗ ở của Vũ đi về Nam thì vừa đúng lúc, đoàn sứ thần Hán đình gửi sang vừa đến nơi... Họ cho biết Vũ Đế đã băng, Chiêu Đế vừa nối ngôi và đang mong muốn kết ước hòa bình với Hung Nô. Thường những quan hệ hữu hảo giữa hai bên không bao giờ kéo dài hơn một năm nhưng dù sao họ cũng là những sứ giả với thiện chí ấy. Tình cờ không ngờ sứ thần được gửi đến lại là bọn ba người trong đó có Nhiệm Lập Chính, bạn cố tri của Lăng thời ở Lũng Tây . . .

          Năm đó, sau khi Vũ Đế băng hà, Thái tử Phật Lăng năm đó mới 8 tuổi đã được lập lên để nối ngôi. Theo di chiếu, chức Thị Trung Phụng Xa Đô Úy là Hoắc Quang được lãnh chức Đại Tư Mã Đại Tướng Quân để phò tá nhà vua mới tức vị để điều hành chính trị. Hoắc Quang xưa vốn gần gũi với Lý Lăng. Chẳng những thế, chức Tả Tướng Quân là Thượng Quan Kiệt cũng không phải kẻ xa lạ với ông. Hai người này đã bàn luận với nhau là sẽ gọi Lăng về triều. Nếu như lần này họ chọn một sứ thần vốn là bạn cũ của Lăng thì cũng không ngoài mục đích đó.

          Sau khi qua phần nghi lễ như một sứ bộ trước mặt Thiền Vu, họ cùng nhau tham dự một tiệc rượu vừa được bày ra.. Mọi lần, Vệ Luật mới là người được Hung Nô chỉ định để thù tiếp nhưng lần này, trong sứ bộ có người bạn của mình nên Lăng cũng được mời đến để tham dự bữa tiệc Nhiệm Lập Chính đã nhìn thấy Lý Lăng nhưng trước mặt bá quan văn võ người Hồ, ông không thể rủ rê Lăng về Hán. Ông ngồi cách bạn một khoảng và chỉ đưa mắt làm hiệu, lâu lâu lại vuốt ve vào vòng cái bội đao tùy thân (tôkan=đao hoàn) để kín đáo bày tỏ ý kiến (dưới một tự dạng khác, hoàn còn có nghĩa là về, NNT). Lăng đưa mắt nhìn và cũng hiểu được phần nào lời bạn muốn nói. Thế nhưng không biết mình phải dùng cử chỉ (shigusa) nào để trả lời.

          Khi tiệc rượu đã vãn, chỉ còn mỗi Lý Lăng và Vệ Luật ngồi lại với họ, chơi trò đánh bạc phạt rượu sữa trâu (gyuusake bakugi) để thù tiếp các sứ giả người Hán. Lúc đó họ Nhiệm mới có dịp quay sang cho Lăng hay là hiện nay nhà Hán đã ban lệnh đại xá trong thiên hạ để vạn dân có thể sống trong một thời đại hòa bình nhân chính. Tuy đương kim chúa thượng hãy còn thơ ấu nhưng đã có những bậc đại thần cố cựu như Hoắc Tử Mạnh (Quang) và Thượng Quan Thiếu Thúc (Kiệt) phù bật để trông coi việc trong thiên hạ. Đối với Nhiệm Lập Chính, Vệ Luật đã hoàn tòan là một người Hồ mà thực tế cũng có thế thật, do đó trước mặt Luật,ông không dám giãi bày hơn thiệt để thuyết phục Lăng. Ông chỉ khơi gợi hai cái tên Hoắc Quang và Thượng Quan Kiệt để giúp Lăng yên trí. Lăng vẫn ngồi yên không trả lời. Chỉ sau khi nhìn thẳng vào mắt Lập Chính một đỗi như dò hỏi, Lăng mới đưa tay lên mân mê mái tóc của mình. Mái tóc ấy không còn búi tó theo phong cách Trung Nguyên nữa . Được một lúc sau thì Vệ Luật phải rời bàn tiệc để đi thay áo (cánh y = ý nói đi nhà vệ sinh, NNT) nên phải tạm rời chiếu tiệc. Lần đầu tiên giữa Lập Chính và Lăng không có gì ngăn cách nữa nên Lập Chính mới đổi lối xưng hô và gọi Lăng bằng tên tự. “Này Thiếu Khanh, chúng tôi biết bấy lâu nay bạn chỉ nếm toàn mùi tân khổ. Hoắc Tử Mạnh và Thượng Quan Thiếu Phủ có nhờ tôi chuyển lời hỏi thăm bạn đấy !”.  Sau khi nghe Lăng trả lời bằng cách thăm hỏi lại hai người nhưng lời lẽ của ông không có gì sốt sắng mà còn hàm ý trách móc, Lập Chính lại bảo tiếp :  “Thiếu Khanh ạ !  Về đi thôi. Không cần phải bàn đến chuyện đãi ngộ và vinh hoa phú quý. Đừng nói gì hết, hãy về nước cho tôi. Vừa mới ở nơi Tô Vũ về nên những lời tha thiết của bạn không phải không khiến cho lòng Lăng chùng lại. Thế nhưng suy nghĩ lại, bây giờ mọi sự hầu như đã muộn màng. “Chuyện về thì dễ thôi nhưng về để tiếp tục nhìn thấy những điều tủi hổ à ?  Ta biết làm sao đây !”.  Lăng đang nói giở chừng thì Vệ Luật đã trở về chỗ ngồi. Hai người từ đó nín thinh.

          Khi tiệc tan, ai nấy đều sắp sửa ra về, Nhiệm Lập Chính làm như vô tình tiến lại bên Lăng, hạ giọng để hỏi thêm lần nữa xem Lăng có muốn về không ?  Lăng bèn lắc đầu. Ông chỉ trả lời rằng trượng phu không bao giờ để bị hạ nhục một lần thứ hai. Câu nói ấy chỉ lí nhí thôi, làm như ông ngại nó sẽ lọt vào tai Vệ Luật.

* * * * *

          Năm năm sau, vào mùa hạ năm Thủy Nguyên thứ sáu đời Hán Chiêu Đế, sứ thần Tô Vũ, người mà không còn ai biết đến sự tồn tại, tưởng như đã chết trong cảnh cùng khổ ở vùng Bắc Hải xa xôi, ngẫu nhiên lại trở về đất Hán. Câu chuyện nổi tiếng về việc thiên tử nhà Hán một hôm dạo chơi trong Thượng Lâm Uyển đã bắt gặp một bức thư viết trên lụa bạch và gắn vào chân chim nhạn v. . v. . . chắc đã được dựng ra để phản bác chủ trương của Thiền Vu rằng Tô Vũ đã chết từ lâu.Thực ra Thường Huệ, người 19 năm trước từng tháp tùng Tô Vũ nhập Hồ, về sau lại có dịp gặp vị sứ giả nhà Hán và loan báo tin ông còn sống sót cho triều đình để họ nghĩ cách cứu ông. Người ta kể lại rằng câu chuyện tuy láo khoét nhưng khéo vẽ vời này chẳng ngờ lại là cái cớ giúp cho Tô Vũ thoát thân. Do đó mà Hung Nô đã tức tốc gửi thủ hạ lên Bắc Hải và đem Tô Vũ về triều đình Thiền Vu. Sự cố này khiến cho tâm lý của Lý Lăng bị dao động mạnh. Ông thấy chuyện về Hán hay không về Hán thật ra không phương hại gì đến sự vĩ đại của Tô Vũ, nhưng đối với Lăng, ông vẫn là một tên tội phạm của nhà Hán nên quyết định của Lăng không có gì thay đổi.Tuy vậy ý tưởng "ông Trời có mắt" đã tác động lên ông một cách mạnh mẽ và thấm thía. Cái mà con người không nhìn thấy, ông Trời đã nhìn thấy hết. Lăng chỉ biết im lặng và sợ hãi. Tuy cho đến bây giờ, Lăng không thấy quá khứ của mình có điều gì khiến ông phải hối tiếc, nhưng vì có một con người như Tô Vũ với những thành quả phi thường ông ta đạt được sẽ làm nổi bật những chỗ kém cỏi của mình mà thật ra thì mình cũng chẳng đến nỗi tệ. Và cái khổ tâm hơn hết của Lăng là tình cảm thèm thuồng khi thấynhững những đức tính của Vũ được người trong nước thi nhau biểu dương . . .

          Đến ngày tiễn đưa Vũ, Lăng bèn bày một tiệc rượu. Chuyện muốn nói thật không kể xiết thế nhưng ông chỉ bày tỏ cho bạn nghe là lúc đầu hàng Hung Nô thì cái chí nguyện của ông nằm ở chỗ nào. Thế mà trước khi thành tựu được sở nguyện thì ở quê nhà, cả gia đình đã bị tru diệt, khiến ông lâm vào bước đường cùng vì không còn lý do nào về lại quê hương. Thế nhưng, nếu nói ra những lời đó, Lăng e rằng Vũ sẽ xem mình là một thằng ngốc nên rốt cuộc, ông đã không thốt một câu nào. Duy đến lúc ngà ngày say, ông không còn nhịn nổi nên đã đứng dậy múa và cất tiếng ca rằng :

          Kinh vạn lý hề độ sa mạc,

          Vị quân tướng hề phấn Hung Nô.

          Lộ cùng tuyệt hề, thỉ nhận tồi,

          Sĩ chúng diệt hề danh dĩ đồi,

          Lão mẫu dĩ tử. Tuy dục báo ân tương an qui.

          (Trải nghìn dặm hề vượt sa mạc,

          Vì vua vì nước hề, chọi Hung Nô.

          Bước đường cùng hề, tên hết, lưỡi đao gãy,

          Quân sĩ chết cả hề, danh tàn rồi.

          Mẹ già đã mất, tuy muốn báo ơn cũng không cách nào về !).

          Nghe nói rằng trong khi đang hát, giọng Lăng bỗng nghẹn ngào, nước mắt đầm đìa trên má. Tự trách mình ủy mị nhưng không biết làm sao hơn.

          Còn Tô Vũ thì, sau 19 năm trời, cuối cùng đã trở về cố quốc.

          Về sau Tư Mã Thiên vẫn còn cần mẫn viết tiếp về sự tích của họ.

          Người đã từ bỏ thế gian như ông đã làm sống lại những nhân vật đó đó qua sách vở. Vì trong thực tế, ông không còn có thể phát ngôn nên Thiên đã mượn đầu lưỡi những người như Lỗ Trọng Liên để phun ra những ngọn lửa bỏng cháy của lòng căm phẫn. Hoặc giả ông đã biến mình thành Ngũ Tử Tư để xin được móc mắt treo ngoài cửa thành, muốn làm Lạn Tương Như để mắng nhiếc vua Tần, hay cùng với Thái Tử Đan khóc tiễn Kinh Kha, cùng với Khuất Nguyên nước Sở viết lên những lời bi phẫn. Khi trích dẫn một đoạn dài trong bài phú Hoài Sa (Nhớ Trường Sa) mà họ Khuất đã để lại trước khi trầm mình dưới sông Mịch La, phải chăng Thiên đã tâm đắc với áng văn đó nếu không xem nó như sáng tác của mình?

          Từ ngày bắt tay vào bản thảo, mười bốn năm đã trôi qua. Cũng là tám năm sau ngày ông chịu hủ hình. Lúc đó ở kinh đô lại xảy ra vụ đại ngục dùng yêu thuật để hãm hại Vũ Đế khiến Vệ Hoàng Hậu và thái tử bị nghi ngờ rồi đưa đến tấn bi kịch của đời cậu con trai. Tác phẩm đời cha truyền xuống đời con mà Thiên chấp bút hầu như sắp hoàn thành đúng như dự kiến viết một cuốn thông sử của buổi ban đầu đã phải mất thêm nhiều năm nữa để tăng bổ và tu chính. Một trăm ba mươi chương (bách tam thập quyển) của Sử Ký dàn trải trong năm trăm hai mươi sáu nghìn năm trăm dòng chữ (ngũ thập nhị vạn lục thiên ngũ bách tự) đã được hoàn thành vào cuối thời gian Vũ Đế trị vì.

          Tư Mã Thiên gác bút ở cuối phần 70 trong Liệt truyện vốn là một tự truyện đề cập đếnThái Sử Công (Tư Mã Thiên tự xưng, NNT).Lúc đó, ông dựa người vào án thư, đầu óc trống vắng và không khỏi cất một tiếng thở dài vốn đến từ một nơi thật sâu trong lồng ngực. Mắt ông đôi khi nhìn ra những lùm cây hòe mọc rậm rạp ngoài sân nhưng kỳ thực ông không để tâm vào cái gì cả. Dù đôi tai đã lãng nhưng ông vẫn có cảm tưởng mình vừa nghe không biết từ đâu một tiếng ve thật trong thanh đang vọng lại. Đáng lý điều ấy phải làm cho ông vui mới phải, nhưng không, trước tiên nó chỉ đem đến cho ông một nỗi buồn nhè nhẹ kèm thêm một nỗi lo âu bàng bạc..

          Tác phẩm hoàn thành đã được đem nạp cho quan nhưng mọi sự chỉ xong xuôi thực sự khi sách được quan trên phê chuẩn và khi ông đã đến báo cáo bên mồ của cha mình. Thế nhưng sau thời diểm đó, bỗng nhiên có một sự cố bất chợt xảy đến cho ông. Người ông bỗng mất hết sức lực như một bà đồng nằm mệt lả sau khi hồn ma đã thăng. Mới có sáu mươi mà Thiên cảm thấy mình vừa già thêm mười tuổi. Không thể nói rằng cái chết của Vũ Đế cũng như triều đại mới của Chiêu Đế đã có ảnh hưởng gì trên trạng thái tinh thần và vật chất suy sụp của viên Thái Sử Lệnh Tư Mã Thiên !

          Như đã cho biết, sứ bộ Nhiệm Lập Chính khi sang đất Hồ đã có cơ hội gặp gỡ Lý Lăng. Nhưng khi phái đoàn này về đến kinh đô thì Tư Mã Thiên đã khôngcòn ở trên dương thế.

          Còn về Lý Lăng thì sau lần gặp gỡ Tô Vũ, không thấy có một ký lục chính xác nào chép về hành tung của ông nữa, ngoài cái tin ông đã chết trên đất Hồ vào năm Nguyên Bình nguyên niên (74 B.C.)

          Thiền Vu Hồ Lộc Cô (Hulugu), người bạn thân thiết của Lăng, hãy còn chết trước đó nữa, chuyển qua thời đại của con trai ông là Thiền Vu Hồ Diễn Đề (Huyandi) chẳng ngờ cuộc nối ngôi này đã sinh ra mâu thuẫn giữa ông ta và Tả Hiền Vương cùng Hữu Cốc Lý Vương để xảy ra cảnh nồi da xáo thịt. Dù lòng không muốn, Lý Lăng bắt buộc phải chọn một phía và trở thành kẻ địch của Vệ Luật và Hoàng Hậu.

          Sách Hán Thư trong Hung Nô Truyện cho biết là sau đó, một người con trai của Lăng sinh trong đất Hồ đã ủng hộ viên tướng Ô Tịch Đô Úy và lập làm Thiền Vu nhưng phe này đã bị Thiền Vu Hô Hàn Nha (Huhanye) đánh bại. Chuyện nói trên xảy ra vào năm Ngũ Phượng thứ hai đời Hán Tuyên Đế và Lý Lăng đã chết mười tám năm trước đó. Người ta chỉ nói là “người con của Lý Lăng” nhưng tên là chi thì không sách nào nhắc tới.

          Dịch ngày 20/10/2024

          Văn bản :

          Nakajima, Atsushi, Riryô (Lý Lăng) trong Tuyển tập bỏ túi Riryô, Sangetsuki (Lý Lăng, Sơn Nguyệt Ký) do Kadokawa Bunko, Tokyo, xuất bản lần đầu tiên năm 1968. Bản sử dụng là bản tái bản lần thứ 62 năm 2011.Nguyên tác Nhật ngữ.

          Nakajima Atsushi, Riryô (Li Ling), Bản dịch sang Pháp văn của bà Véronique Perrin, in trong Trois Romans Chinois (Ba tiểu thuyết với đề tài Trung Quốc) do Editions Allia (Paris) xuất bản, 2011. Bản ngoại văn tham chiếu.

          Bên lề tác phẩm :

          Nakajima Atsushi (1909-1942) là một  “quỉ tài” của văn học Nhật. Cách mệnh danh trên xưa kia đã được dùng để chỉ Lý Hạ (790-816), nhà thơ tài cao nhưng vắn số đời Trung Đường.

          Truyện Lý Lăng vốn là một truyện cũ viết lại (cố sự tân biên) nhưng ở đây, Nakajima Atsushi không theo phong cách của người tiền bối khả kính là Akutagawa Ryuunosuke. Vì sao ?  Bởi vì ông dựa nhiều vào sử thực hơn hư cấu. Ít nhất, câu chuyện tân biên này đã dựa vào hai văn bản chính là “Lý Lăng Truyện” của Ban Cố (trong Hán Thư),  “Báo Nhiệm Thiếu Khanh Thư” của Tư Mã Thiên (trong Văn Tuyển) trong nhiều chi tiết, không nói đến những kết quả của các cuộc tìm tòi khác của nhà văn, người đồng thời là một học giả Hán văn uyên bác.

          Trái với điều chúng ta có thể nghĩ, theo những gì Nakajima trình bày, Tư Mã Thiên không phải là bạn cũ của Lý Lăng. Do đó việc Tư Mã Thiên bênh vực Lý Lăng là một hành động Thiên làm vì công tâm của người viết sử.

          Trong truyện, Nakajima đã đề cập đến nhiều vấn đề thiết thân của con người như ă thái độ của người trí thức đứng trước cường quyền qua tương quan giữa Hán Vũ Đế và Tư Mã Thiên (b) ý nghĩa của lòng trung thành và sự phản nghịch (Tô Vũ, Lý Lăng) cũng như đối chiếu văn minh với man dã (Hán,Hồ) để xem bên nào mới gần gũi với nhân tính hơn.

          Trong khi Mishima Yukio và Romain Gary đã chuẩn bị cái chết bằng cách đưa bản thảo mới viết xong cho nhà xuất bản, cái chết đã ập tới Nakajima quá nhanh (dù ông có tiền sử yếu phổi) vào lúc ông từ vùng đảo Nam Thái Bình Dương trở lại Tokyo và định dành hầu hết thời gian cho việc trước tác. Do đó, số lượng “di cảo” của ông phải nói là khá nhiều, trong đó có những tác phẩm làm nên tên tuổi ông như Meijinden (Cao thủ / Kẻ đạt đạo), Teishi (Đệ Tử) và Riryô (Lý Lăng). Sinh ngày 5 tháng 5 năm 1909, ông mất ngày 4 tháng 12 năm 1942 khi chưa đầy 34 tuổi.

 __________________________________________

          [1] - Nhị Sư là tên một cái thành ở vùng Trung Á trên bước đường viễn chinh của Lý Quảng Lợi.

          [2] - Chuyện xảy ra dưới thời Thừa tướng Lữ Gia.

          [3] - Thành đắp lên để nhận lời thề đầu hàng của vua Hung Nô.

          [4] - Nhị Sư Lý Quảng Lợi lại là anh Lý Phu Nhân, thiếp yêu của Vũ Đế.

          [5] - Sứ bộ của Tô Vũ ngày đi có đến 100 người nhưng khi về chỉ còn có 9.

 

 

 

Những Tin Cùng Chủ Đề Đã Qua:
Tình người nơi chiến địa
Anh lính nghĩa quân gác cầu ông Đụng
Công viên buồn
Ăn Của Rừng - Rưng Rưng Nước Mắt
Máu trong tôi máu của bao người
Cổ Xưa Bánh Bác, Bánh Bó Mứt, Mãng Cầu
Sắc màu của cái chết
Chuyện hẹn hò
Bữa cơm và cơm bữa
Con dã tràng và Con kiến
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
TỔ ĐÌNH TỪ ĐÀM HẢI NGOẠI
615 N Gilbert Rd Irving TX 75061 - 6240 ĐT:(972)986 - 1019
Bạn là người online số:
5281075
Có 0 Khách Đang Online