Hồi Ký Đặc Biệt (Kỳ 3) : Chùa Khánh Anh Sau 30 Năm
Tác giả Hòa thượng Thích Minh Tâm
07/11/201408:26 (Xem : 2349)
* * * * * * * * *
Chùa Khánh Anh sau 30 năm (bài số 3)
Giai đoạn thành lập 1969-1976 (phần 2 = 1973-1976)
Thế là tôi trở lại Pháp vào ngày 18/4/1973 trong một chuyến đi không chờ đợi và cũng không mấy gì thích thú như kỳ trước. Đi để mà đi, vì không biết phải đi đâu trong lúc này. Trong đầu cũng có loé lên một vài ý tưởng an ủi. Nếu trường hợp đến Pháp lần này không có gì thích hợp thì biết đâu chừng đây chỉ là trạm dừng chân đầu tiên để tìm qua một xứ khác.
Nhưng rồi tính đến nay (2006) đã hơn 33 năm qua tôi vẫn còn ở lại xứ Pháp. Chẳng những ở Pháp mà còn nhập quốc tịch, rồi còn lập hội, xây chùa tại Pháp, mặc dầu không thích gì mấy đời sống ở Pháp.
Thế có lạ lùng chưa ? Có phải do cái nghiệp nào đưa đẩy bắt buộc chăng ? Có người đã đặt câu hỏi như vậy. 30 năm lập chùa Khánh Anh mà tôi đã sống ở Pháp trên 33 năm rồi thì quả là có nhiều điều để nói, để kể lại. Đủ thứ buồn vui chất chứa trên trời dưới đất, trong nhà ngoài ngõ. Làm sao mà kể cho hết bây giờ. Tạm thời, xin phép chia ra nhiều đoạn nhỏ và chỉ kể những gì có liên hệ xa gần đến sinh hoạt của chùa Khánh Anh thôi, không có ý bàn sâu tán rộng chuyện bên ngoài. Họa hoằn lắm, tránh né không được, thì chỉ nói qua sơ lược theo cái nhìn cá nhân không phải là quan điểm của tập thể. Lại càng không phải quan điểm của Giáo Hội. Mong quý vị và bà con thông cảm mà hoan hỉ cho.
Phần 2 của giai đoạn thành lập chùa Khánh Anh từ 1973 đến 1976, xin được chia ra nhiều đoạn nhỏ dựa trên những sự kiện: Quyết định lập chùa, tìm nơi làm chùa, ra mắt Niệm Phật Đường Khánh Anh và sau cùng là lập hội chùa Khánh Anh vào đầu năm 1976.
Nghe đến đây có người hỏi liền: Thế thì từ trước đến năm 1976, chùa Khánh Anh sinh hoạt trong khuôn khổ nào? Như có đề cập ở bài trước và cũng sẽ kể thêm một vài chi tiết sau đây để thấy rằng chùa Khánh Anh từ lúc khởi đầu nằm trong khuôn khổ của Phân bộ Hải Ngoại Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhứt. Cho đến tháng 3/1976 mới chánh thức thành lập Hội Phật giáo (chùa) Khánh Anh. Coi như từ dấu mốc thời gian này không còn liên hệ gì với Phân bộ hải ngoại nữa. (Và dường như Phân bộ này từ lúc đó trở về sau không thấy sinh hoạt gì nữa).
a/. Quyết định lập Chùa tại Pháp.
Sau khi đến Pháp lần thứ 2 (vào giữa tháng 4/73) với một tâm trạng như trên đã nói, chẳng có gì là phấn khởi. Nhưng theo tinh thần văn thơ của Viện Hóa Đạo "thuyên chuyển" đến, thì cũng phải bắt tay vào việc, nghĩa là hằng ngày tôi phải có mặt tại văn phòng "phái đoàn" để sắp đặt lại hồ sơ và học hỏi kinh nghiệm để chuẩn bị "tiếp quản".
Nhưng một thời gian không lâu sau đó, có tin chính thức cho biết vị trưởng phái đoàn không được chiếu khán (visa) trở về nước, nên từ đó, tôi không còn tiếp tục công việc "chuẩn bị tiếp quản" nữa mà có thì giờ đi lang thang vào các thư viện Pháp rồi ghi danh vào trường Ecole des Hautes Etudes (thuộc Collège de France) vào cuối cùng làm thêm một chức vụ mới nữa là...cúng đám.
Nói là "mới" thực ra không có gì mới, mà chỉ vì bỏ lâu quá bây giờ "mới" trở lại. Số là ngày còn nhỏ, xuất gia trong ngôi chùa làng, hàng ngày ngoài các thời khóa tụng niệm tại chùa, còn được phép theo hầu Thầy. . . . cúng đám.
Lớn lên, đi học trường này, trường nọ, từ làng ra tỉnh, từ tỉnh vào thủ đô Sàigòn lúc đó, rồi trở về Trung làm thầy giáo, làm việc Giáo Hội cho đến ngày nhảy lên tàu bay ra ngoại quốc (1967), ít khi trở lại làm nghiệp vụ . . . . cúng đám. Bởi một điều cũng dễ hiểu là các chùa Việt Nam trong nước, rất đông Tăng chúng, do đó mỗi người, mỗi việc. Cho nên công tác cúng đám, cúng tuần, tiếp dẫn, độ vong, làm chay, làm thất . . . . luôn luôn trong chùa có một ban chuyên trách. Ban này thường thường gồm nhiều Thầy "chuyên môn" và chúng điệu mới xuất gia theo học cộng với một ban phật tử hộ niệm đông đảo. Còn các ban ngành khác rất ít người và còn đòi hỏi phải có khả năng nội cũng như ngoại điển (tức là giáo lý bên trong cộng với văn hóa bên ngoài). Chẳng hạn : Giảng sư (thầy giảng dạy giáo lý) giáo sư hay giáo viên cho các trường Trung Tiểu học Bồ Đề. Và sau này còn được phép học theo các ngành y khoa hay khoa học nữa. Và các ngành này đòi hỏi phải có khả năng văn hóa cũng như bằng cấp tương ứng.
Bởi vậy, khi từ giã ngôi chùa làng, tôi bị cuốn theo cơn lốc trên đây đi qua khắp cả các trường lớn, trường nhỏ, quốc nội, hải ngoại, rồi quên hẳn mình cũng xuất thân từ chỗ...cúng đám như ai. Bây giờ qua Tây, đi lang thang, gặp các đồng hương mời đi đưa đám mới nhớ lại gần 20 năm về trước, mình cũng đã từng làm nghiệp vụ này một cách... say mê rồi.
Thế là, thỉnh thoảng trong tuần, tôi xách gói đi cúng đám. Trước ít sau nhiều. Trước lạ sau quen. Nhưng chỉ là thuộc lòng, nhớ đâu làm đó. Bởi lẽ không có đem theo một quyển nghi thức thiền môn nào để tham khảo hay đối chiếu.
Bí lối, tôi đành phải viết thơ về Việt Nam, cầu cứu quý Thầy quen biết ở nhà, xin "viện trợ" cho những tài liệu cần thiết (không phải để làm luận án, luận văn gì mà là để độ vong, cúng tuần, cúng thất. . . .). Quý Thầy ở nhà lúc đầu cũng ngạc nhiên, không hiểu nổi. Chẳng biết vì nguyên nhân gì mà qua Tây rồi. . . . đổi nghề, chuyển nghiệp kỳ lạ như vậy. Hay là hết chuyện khôi hài mới sinh ra tật chọc quê người ở nhà? Tôi phải học nhiều bài kiên nhẫn nói đi nói lại cho cạn lời hết lý. Rồi từ đó trở đi mới nhận được một ít tài liệu từ trong nước "viện trợ" ra...làm cơ sở để ứng phó.
Nhân đây, cũng xin phép chư Tôn Đức và bà con xa gần để nói lên một quan niệm hết sức sai lầm (tôi nghĩ có nhiều vị cũng giống như tôi) đó là quan niệm xem thường pháp môn "ứng phú đàn tràng", nói nôm na là cúng đám, độ vong . . . . Bây giờ, sau 30 năm ở hải ngoại, tôi mới dám nói một cách cả quyết rằng đây là một pháp môn phương tiện nhiệm mầu mà chư vị Tổ sư đã dày công nghiên cứu để ứng cơ hóa đạo, nhất là trong thời đại chúng ta ngày nay.
Nhiều người đến với đạo Phật sau một thời gian học hỏi nghiên cứu tìm tòi qua các kho kinh sách, sử liệu lâu đời. Đây là trường hợp của các học giả, trí thức. Có những vị đến với đạo Phật nhờ nghe những bài giảng thâm thúy như rót vào lòng những lời giải thích cặn kẽ đánh tan những thắc mắc ưu tư, cởi mở những hiểu lầm xưa nay về Phật Pháp. Đó là trường hợp những phật tử có nhân duyên gần gũi các bậc thiện hữu tri thức.
Còn đại đa số dân chúng đâu có ở vào những trường hợp nêu trên, nhất là ở nước ngoài. Lâu lâu lắm (hay rủi ro lắm) mới xảy ra một trường hợp có người thân qua đời. Trong hoàn cảnh mất mát ở đất khách quê người, hết sức lúng túng. Cho nên sự nương tựa tinh thần trong lúc này rất ư là cần thiết. Họ mong bất cứ giá nào, để rước cho được một Thầy về tụng kinh siêu độ, và tiếp dẫn người thân rồi đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng. Chính đây là cơ duyên thích hợp để họ mở tâm tỉnh trí nhớ nghĩ đến Phật pháp, thâm thía về lẽ vô thường với kiếp nhân sinh tạm bợ khổ đau chồng chất. Họ bắt đầu lắng nghe vài câu đạo lý và bắt đầu làm quen với một ít công tác Phật sự. Rồi dần dần trở thành những người phật tử thuần thành lúc nào không hay. Đây là trường hợp của phần đông phật tử hiện nay ở hải ngoại mà cụ thể trước mắt là tại chùa Khánh Anh hơn 30 năm qua. Chính vì thế mà bây giờ tôi rất trân quý phương pháp "ứng phú đàn tràng" coi như là một trong những phương tiện hoằng pháp hữu hiệu nhất ở hải ngoại, không dám xem thường . . . .
Trở lại câu chuyện mở đầu chùa Khánh Anh. Đó là giai đoạn tôi đi lang thang...cúng đám. Trước lạ sau quen. Trước ít sau nhiều như trên đã nói. Người này truyền cho người khác rằng : Hiện nay ở Paris có một Thầy cúng đám. "Thỉnh" đi đâu cũng đi không có điều kiện gì cả !
Cũng xin nói thêm một tí cho rõ: Không phải ở Paris (hay ở Pháp) lúc đó (1973) không có Thầy nào. Xin thưa đã có rất nhiều. Theo chỗ tôi nghe kể lại, chỉ có cụ Chân Thường (Hòa Thượng chùa Quan Âm sau này) thỉnh thoảng đi tiếp dẫn độ vong. Nhưng lúc này, cụ đi hành hương Ấn Độ một thời gian dài. Còn các cụ khác ở đây ít chịu đi đám. Mỗi người có một lý do riêng. Do đó mà còn lại chỉ một mình tôi (vì chưa dính vào việc gì) mới được nhiều người "chiếu cố".
Tôi đi tiếp dẫn ra nghĩa địa, vào lò thiêu hay đến nhà thương, nhà xác. Có khi xuống tận các tỉnh như Grenoble, Marseille, Toulouse... Sau khi đưa đám, tôi còn được "thỉnh" về nhà để cúng thất, cúng tuần tại gia, vì lý do ở đây chưa có chùa ! Còn "chùa" của tôi hiện tại chỉ là một căn gác trọ nằm trên lầu thượng trong khu ổ chuột vừa dơ dáy vừa bất an (thuộc quận 18, Paris) khiến cho nhiều người đến thăm một lần rồi lần sau không dám đến nữa. Lý do phải chọn nơi bất an, bất tịnh này chỉ vì tiền thuê nhà ở đây không quá đắc mà lúc đó tôi chỉ sống nhờ vào một cơ quan từ thiện Đức (bánh mì cho thế giới: Brood fur die Welt) trợ cấp khoảng 400 quan Pháp mỗi tháng (gần 80 đô).
Cho nên, sau nhiều lần đi đám xong rồi về lại tư gia làm lễ an sàng, nhiều tang quyến tỏ ý muốn kêu gọi xây dựng một ngôi chùa để có chỗ an toàn thờ cúng hương linh và sớm hôm tụng niệm siêu độ cho người mất. Đây chính là nguyên nhân gần nhất thúc đẩy việc xây dựng một ngôi chùa (thứ 2) tại Pháp. Tôi đem ý này bàn với một vài vị trong Phân bộ. Và nói thêm, nếu Phân bộ quyết định thành lập một ngôi chùa trong vùng Paris, tôi sẽ là người đứng ra chịu trách nhiệm lo liệu cho ngôi chùa đó, ít nhất trong giai đoạn đầu.
Đề nghị này trở thành đề tài chánh trong một phiên họp của Phân bộ hải ngoại vào giữa tháng 10/1973. Và kết quả, hội nghị biểu quyết thông qua gần như đa số tuyệt đối.
b/. Tìm nơi làm chùa.
Thế là tôi được giao nhiệm vụ tìm một nơi để làm chùa. Theo tinh thần buổi họp hôm đó, tôi được phép tìm mua 1 ngôi nhà nhỏ, giá cao nhất là 200.000 quan Pháp (khoảng 40.000 đô la Mỹ) với điều kiện thuận đường giao thông cho bà con người Việt, nhất là các vị cao niên thường sử dụng phương tiện công cộng như xe điện ngầm (Métro) hay xe buýt.
Hằng ngày tôi cố gắng tìm xem trong các nhật báo nơi mục "bán đất, bán nhà", cố tìm cho ra "ngôi nhà lý tưởng" như mọi người mong ước. Nhưng từ tháng 10/73 đến tháng 3/74, gần 6 tháng, vẫn chưa tìm thấy đâu cả. Thứ nhất, có thể do mình thiếu tu thiếu phước, nên không gặp được thuận duyên. Thứ hai, những điều kiện khách quan cho thấy không dễ dàng tìm ra một ngôi nhà, hội đủ những điều kiện như trên. Xin kể lại sơ sơ một hai trường hợp.
Lâu lâu mới "thăm" được một ngôi nhà tương đối "vừa mắt", khấp khởi trong lòng. nhưng đâu dám quyết định ngay, vì đây là "ngôi nhà chung dùng làm chùa", ắt phải có sự đồng ý của nhiều người trong hội. Mà ai ai cũng đi làm suốt tuần (đâu phải rảnh rang lang thang như tôi). Cho nên cứ hẹn đến cuối tuần để mọi người đi xem lại lần chót trước khi lấy quyết định. Nhưng khi đến nơi mới biết chủ nhà, gặp mối khá hơn, đã bán mất rồi. Thế là trở lại từ đầu. Có khi gặp nơi khác, khá hơn, mọi người đi xem đều đồng ý nhưng chưa đủ tiền đặt cọc 10% như thủ tục. Lại hẹn kỳ tới. Phần tôi trở về, chạy tất tả ngược xuôi, thúc hối những người đã hứa cúng, xin đóng tiền ngay. Còn thiếu chút đỉnh thì lo vay mượn thêm cho đủ số 10%. Xong đâu đấy trở lại chỗ cũ thì hay tin chủ nhà không chờ được, gặp mối khác họ lại bán rồi. Thế là uổng công toi cả tháng đi tìm. Và còn nhiều trường hợp khác, chẳng hạn hàng xóm xung quanh không đồng ý có một ngôi chùa bên cạnh hoặc là địa điểm rất tốt nhưng là vùng đất sắp sửa bị giải tỏa v.v... Rốt cuộc gần 6 tháng trôi qua, vẫn chưa có một nơi nào khả dĩ lọt vào vòng . . . . chung kết.
Từ đó, bà con trong hội mới nảy ra một ý kiến khác, có thể nhanh chóng vào thực tế hơn. Họ chủ trương rằng, một mặt cứ cố gắng tìm xem nơi nào hợp ý, vừa túi tiền, sẽ từ từ tính sau, còn mặt khác, phải gấp rút thuê ngay một nơi làm Niệm Phật Đường để có chỗ lễ bái, quy tụ bà con Phật tử, nhất là Đại lễ Phật Đản sắp tới nơi, chỉ còn 2 tháng nữa thôi.
Do đó mới có một phiên họp "khẩn" của Phân bộ tại quán ăn của một thành viên trong ban chấp hành. Nếu trí nhớ tôi chưa đến nỗi lú lẫn thì đó là Quán Nghệ Sĩ - Restaurant des Artistes ở Paris, quận 17. Hôm ấy, đa số thành viên trong ban "Vận động lập chùa" đều có mặt, góp ý hăng hái. Cuối cùng đồng thuận bật đèn xanh cho tôi đổi kế hoạch từ "mua chùa" thành "mướn chùa".
c/. Niệm Phật Đường Khánh Anh ra đời.
Kế hoạch "mướn chùa" đưa ra chỉ trong vòng một tháng là có kết quả. Đó là phần trên của một ngôi nhà riêng ở số 27ter av Paul Doumer 94110 Arcueil, ngoại ô Nam Paris, có tàu điện RER, ga La Place. Đúng ra người chủ nhà này muốn xây cất dành cho một người con khi trưởng thành, có gia đình và có thể "sống riêng bên cạnh cha mẹ". Nhưng vào lúc bấy giờ (1973) người con chưa lập gia đình nên chủ nhà dùng tầng trên cho thuê kiếm chút lợi tức. Bởi vậy mà lối xây cất căn nhà này có phần đặc biệt gồm có một phòng khách tương đối khá rộng (double-séjour chừng 20m2) có thể dùng làm Chánh điện tạm thời. Bên cạnh là 1 phòng ngủ, khi có lễ biến thành phòng ăn tập thể (khoảng 20 người). Phía bên kia là phòng bếp. Tất cả biệt lập không dính liền với nhà nào. Chỉ có điều là ở bên trên chủ nhà, nên sau này, vào những ngày lễ bái đông đảo, bà con ta, lên xuống cầu thang rầm rập, tha hồ tâm sự, cãi vã thoải mái... khiến chủ nhà chịu hết nổi phải tìm mọi cách... "mời" mình đi nơi khác. Nhưng đó là những chuyện về sau này vào những năm 76-77.
Tôi xin kể lại những nỗi vui mừng khôn tả của bà con Phật tử (và kể cả tôi) khi vừa thuê được nơi đây làm Niệm Phật Đường rồi "thỉnh" pháp hiệu của Tổ Khánh Anh làm tên gọi. Niệm Phật Đường Khánh Anh ra mắt vào dịp Đại lễ Phật Đản 2518 -1974. Tiền thuê hàng tháng là 1.000 quan Pháp, không kể điện, nước, gaz, tính theo đồng hồ riêng. Sau khi ra mắt, liền sau đó, chúng tôi họp lại, lập ngay Ban Hộ Trì Tam Bảo. Ban này có mục đích cụ thể là kêu gọi đóng góp (nhiều hay ít, tùy tâm) để trả tiền "thuê chùa" mỗi tháng. Tôi nghĩ rằng có lẽ đây là Ban Hộ Trì Tam Bảo đầu tiên trên thế giới có mục đích "lạ đời" như vậy. Nói vắn tắt Niệm Phật Đường có "thọ" hay không, không phải là do giảng sư hoằng pháp hay đối tượng hoằng pháp mà chính là do "hầu bao thoi thóp" của Ban Hộ trì Tam Bảo này. . . .
Như trên đã nói, nguyên nhân gần nhất thúc đẩy tôi thành lập chùa chính là nhu cầu cần có chỗ để thờ phụng hương linh người quá cố cũng như có chỗ để kinh kệ sớm hôm cầu nguyện. Cho nên khi có "chùa" rồi, nhiệm vụ thiêng liêng của tôi dĩ nhiên là tiếp tục một cách có quy cũ hơn. Có ban hộ niệm, có lễ cầu siêu từ sơ thất đến chung thất, đến bách nhựt (100 ngày). Rồi Tiểu tường (1 năm), Đại tường (2 năm, xả tang...). Đó là những điều mà từ trước đến nay học qua đủ thứ chương trình từ Đại học này đến Đại học khác từ trong nước ra hải ngoại, chưa bao giờ tôi nghĩ tới các mục này.
Rồi tiếp theo, còn có cúng giỗ tại chùa, có ban trai soạn lo liệu. Và sau này còn thêm "hương linh có hậu" tức là thờ vĩnh viễn tại chùa. Con cháu về chùa cúng giỗ hàng năm như về ngôi từ đường của giòng họ ở quê nhà . . . .
Những gia đình xưa nay chưa biết đạo Phật là gì, hay biết một cách qua loa, vì sinh ra ở ngoại quốc hoặc rời Việt Nam quá sớm. Bây giờ, vì có người thân qua đời, họ có dịp quây quần về chùa cầu nguyện, cúng bái. Và đây chính là cơ hội cho họ biết rõ hơn về Phật pháp và văn hóa VN rồi dần dần tham gia vào các hoạt động của chùa một cách tích cực.
Mặt khác, về phía chúng tôi, cũng nhờ cơ hội này mà hiểu rõ hơn đời sống tâm linh của người Việt ở nước ngoài, nhất là ở Pháp. Rồi từ đó rút ra những bài học quý giá về phương pháp truyền bá Phật pháp ở hải ngoại, có phần không giống với phương pháp thực hiện trong nước.
Nhìn về đất nước VN vào quãng cuối năm 74 đầu 75, tình hình rất ư là đen tối. Hằng ngày báo chí truyền thông loan tải những tin tức những hình ảnh chiến tranh bùng phát khốc liệt nhiều nơi, mặc dầu ai ai cũng nghe nói đến "Hiệp định Paris" chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình. Rõ là quá ư mâu thuẫn. Về phía Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhứt trong nước cũng chẳng có gì tươi sáng, mà ngược lại còn rối rắm thêm, sau khi Đức Đệ Nhứt Tăng Thống Thích Tịnh Khiết và Hòa Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Thiện Hoa lần lượt viên tịch (71-72).
Phần tôi vào những ngày tháng cuối năm 74 lại lâm vào một trận bệnh khá nặng phải đưa vào nhà thương giải phẫu. Đó là chứng "ulcès bao tử" (loét bao tử, nếu để lâu có thể thành ung thư), tích lũy nhiều năm, kể từ ngày còn nhỏ ở các Phật học đường, Phật học viện trong nước. Giờ đây đến giai đoạn cuối cùng, phải nhập viện gấp, cắt bỏ 2/3 bao tử, mới có thể cứu sống, đó là theo lời bác sĩ. Mà thực vậy, qua cơn giải phẫu lúc đó cho đến bây giờ, cơn bệnh nan y không còn tái diễn, hoành hành hung tợn như trước nữa.
Tuy nhiên, không có cái may mắn nào mà không hàm chứa những rủi ro. Chính trong thời gian tôi vắng mặt vì phải nhập viện, giải phẫu rồi đi dưỡng bệnh (convalescence) mất gần 3 tháng, thì tại Niệm Phật Đường Khánh Anh lại xảy ra nhiều cơn biến động tưởng chừng có thể đưa "ngôi chùa bé nhỏ sơ khai" đến chỗ tan thành mây khói.
Hôm nay, ngồi viết những dòng này để nhớ lại những "biến cố lịch sử" của ngôi chùa Khánh Anh lúc khởi đầu, tôi không bao giờ quên công đức của những vị lúc đó giúp tôi nhiều ý kiến tích cực và hỗ trợ hết mình để cho ngôi chùa vượt qua những cơn sóng gió và còn đứng vững cho đến ngày nay. Thật tình mà nói, khi từ bệnh viện trở về "chùa" trong những ngày cuối năm 74, sau cơn giải phẫu khá nguy hiểm, tinh thần tôi xuống rất thấp, chỉ muốn buông xuôi theo cơn lốc cho rồi.
Nhưng được bà con vực dậy, dắt đi chập chững với những bước khó khăn. Thế rồi 30 năm trôi qua với bao nhiêu thăng trầm để tiến lên và tồn tại. Đó là do đâu? Trước tiên, tôi nghĩ đến sự nhiệm mầu linh diệu của chư Phật, chư Bồ tát và Long thiên Thánh chúng thể hiện qua những bàn tay hộ trì đắc lực của chư Tôn Đức và bà con Phật tử xa gần.
Tôi nghĩ đến chư Thánh tử đạo và Lịch đại Tổ sư Việt Nam từ xa xưa cho đến bây giờ. Quý Ngài đã vì sự tồn vong của xứ sở và dân tộc, đã khéo léo tôi luyện Phật giáo Việt Nam 2000 năm nhập cùng sinh mệnh của đất nước khiến ngôi chùa Việt Nam trở thành nơi "che chở hồn dân tộc" và gìn giữ "nếp sống muôn đời của tổ tông". Ngày nay ngôi chùa Việt không phải chỉ có ở trong nước mà vì một biến cố lịch sử đã theo chân đoàn lưu dân tỵ nạn, hiện diện nhiều nơi trên thế giới. Hàng triệu người Vi ệt Nam bỏ xứ ra đi, trong đó đa số có tín ngưỡng đạo Phật. Thời gian càng dài, bản chất càng dễ bị nhạt phai. Thay vì "hòa nhập" lại mau chóng "hòa tan". Cho nên nhiệm vụ của ngôi chùa Việt lại càng khó khăn hơn nếu nghĩ đến vai trò đích thực của nó.
Bởi vậy, tôi mạo muội tâm niệm rằng: Lịch đại Tổ sư Việt Nam và chư Thánh tử đạo luôn luôn hiện diện trên đầu trên cổ chúng ta để soi xét rồi gia tâm, hỗ trợ cho đàn con cháu, hậu duệ của quý Ngài đang cố gắng thể hiện phần nào sứ mệnh mà quý Ngài đã truyền trao trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt không mấy gì thuận lợi cho lắm, ở hải ngoại này. "Trồng sen trên tuyết" là hình ảnh được tượng trưng cho công việc hoằng pháp khó khăn hiện nay ở các xứ Âu Mỹ. Nhưng với các Ngài, còn cho một hình ảnh siêu đẳng hơn: Đoá sen hồng nở trong lửa đỏ (hoả diệm hóa hồng liên). Với một hình ảnh sống động, vô úy như thế cho phép chúng ta có thể tin rằng: Không một nơi nào, không một lúc nào mà các Ngài không hiển hiện bên cạnh đàn con cháu để che chở, và dìu dắt cho chúng tiến lên.
Mặt khác, tôi cũng nhớ đến những bà con trước đây không lâu, sau khi đến nước ngoài, có cuộc sống tương đối ổn định, đã nghĩ tới những sinh hoạt tâm linh, tiếp tay với quý Thầy gây dựng những ngôi chùa trong buổi sơ khai thiếu thốn từng viên gạch, từng miếng ngói, chấp nhận mọi chướng duyên trở lực, xem thường những lời dèm pha phỉ báng. Có thể lúc ở quê nhà, quý vị chưa biết gì nhiều về đạo Phật, chưa thiết tha gì mấy về con đường phát triển tâm linh, văn hóa dân tộc. Bỗng phút chốc, nổi trôi đến xứ lạ quê người, tự cảm thấy có bổn phận tìm về nguồn cội, gìn giữ gia phong. Đấy là điểm khởi đầu rất tốt của quý vị quyết tâm hỗ trợ xây dựng cho được một ngôi chùa Việt Nam và từ đó có cơ duyên học hỏi Phật pháp. Nhưng tiếc thay, thời gian không bao lâu, tuổi cao sức yếu, quý vị đã phải ra đi theo luật vô thường. Nhưng quý vị đi đâu, về đâu ?
Tôi có cảm tưởng quý vị vẫn còn ẩn khuất đâu đây vì ý nguyện chưa hoàn tất. Công đức của quý vị rất nhiều, tuy chưa được giải thoát ra ngoài ba cõi nhưng với phước báo đó có thể sinh vào hàng Chư thiên (lục dục thiên), hoặc có công đức mà còn nhiều nóng nảy, có thể trở thành A-tu-la hay làm nhiều việc thiện đời này mà nghiệp ác đời trước chưa dứt hẳn, nên thác sinh vào hàng Dược xoa. Tuy bề ngoài có vẻ hung tợn, cục mịch, thô động, nhưng tất cả đều mang nhiều thiện ý cố tâm xây dựng và bảo vệ ngôi Tam Bảo mà khi sinh tiền quý vị hằng lo lắng.
Thiên, A-tu-la, Dược xoa đẳng
lai thính pháp giả ưng chí tâm
ủng hộ Phật pháp sử trường tồn..
Khi tụng bài kệ này trong thời kinh khuya, tôi cảm thấy như quý vị ẩn hiện đâu đây trong ngôi chùa để hỗ trợ, để bảo vệ, để khích lệ con cháu quý vị nối gót theo cũng như để tống khứ những kẻ ác tâm có ý đồ gây lũng đoạn trong sinh hoạt của ngôi chùa . . . .
Tôi viết những dòng này để một lần tri ân tất cả với ý nghĩ 30 năm qua, ngôi chùa còn tồn tại và phát triển, nếu không có nguồn yểm trợ linh thiêng mầu nhiệm này luôn luôn đi bên cạnh thì chắc chắn ngôi chùa khó mà đứng vững lâu dài.
Kỳ sau (bài số 4) Giai đoạn thành lập chùa Khánh Anh phần 2d: 1975-1976.
* * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *
Lịch Khánh Anh Đinh Hợi - 2007, đã có phát hành tại chùa
Lịch tử vi 15 Âu kim
Lịch treo tường 9 Âu kim
Gởi đi Pháp và Âu châu (kể cả cước)
Lịch tử vi 20 Âu kim
Lịch treo tường 13 Âu kim
Gởi đi Mỹ - Á - Úc châu (kể cả cước)
Lịch tử vi 24 Âu kim
Lịch treo tường 17 Âu kim
(Tiếp tục phần 3)