Vu Lan Thắng Hội tại Từ Đàm

01 giờ30 chiều Chủ nhật, ngày 18 tháng 08 - 2024,

Xem tiếp...
<November 2024>
SunMonTueWedThuFriSat
272829303112
3456789
10111213141516
17181920212223
24252627282930
1234567
Cỡ chữ:  Thu nhỏ Phóng to
Những Mẫu Chuyện Rút Ra từ Luật tạng
Tác giả:

Những Mẫu Chuyện Được Rút Ra từ Luật tạng

 

* * * * *

LỜI GIỚI THIỆU 

 

          Dưới đây là một vài mẩu chuyện được rút ra từ Luật Tạng (Ðại Luật), khi Ðức Phật còn tại thế, Ngài tùy theo đại chúng phạm lỗi như thế nào, từ đó, Ngài mới tùy duyên chế luật.  Ðại luật thì có sáu vị gọi là Lục-Quần Tỳ-kheo, Tiểu luật thì có Lục-Quần Sa-di trợ duyên để Ðức Thế-Tôn chế luật.  

 

          Chúng tôi xin đưa lên đây để quý Phật-tử đọc và tùy duyên hành trì.

 

9 LỜI NGUYỆN CỦA  BÀ TỲ-XÁ-KHƯ 

 

          M Lộc-Tử Ty-Xá-Khư là một cận sự nữ rất mực sùng mộ đức Thế-Tôn. Ngày ấy bà cho thiết lễ trai phạn để thỉnh Phật và chư Tăng đang lưu trú trong thành Xá Vệ để cúng dường. 

 

          Hôm ấy như sắp giao mùa, giông tố nổi lên rồi trút mưa xối xả, như có cánh tay lực sĩ nào đó liên tục trút nước ầm ầm từ trên trời xuống. Khắp nơi trong thành nước lênh láng tưởng chừng như một bát nước đầy tràng nhưng nước lại rút ngay vào lòng đất như những giọt dầu thấm vào đống cát nóng. Trong tịnh-xá Kỳ-Hoàn, đức Phật bảo các Tỳ-kheo : 

 

          -.  Xem trận mưa trong Kỳ-Hoàn hôm nay thì rõ được sức mưa cả Diêm-Phù-Đề cũng vậy. Các ông có thể tranh thủ đi tắm đi. Đây là trận mưa cuối mùa ở đâu cũng thế cả. 

 

          Các Tỳ-kheo mình trần trùng trục ùa ra tắm mưa. Trong lúc ấy, vì trai phạn đã thiết lễ xong, bà Ty-Xa-Khư sai nô tỳ đến Kỳ-Hoàn mời. Đến nơi thấy một số đông người đang lõa thể để tắm mưa, lòng ái ngại, nghĩ rằng :  Đây là ngoại đạo chứ không phải Tỳ-kheo. Cô ta thôi không vào mời mà quay trở về báo lại cảnh mắt thấy nơi Kỳ-Hoàn. Tỳ-Xá-Khư có ý nghĩ :  

 

          -.  Chắc là Tỳ kheo tắm giữa đất trống, đứa tớ ngu không biết cho đó là ngoại đạo. Bà lại bảo : 

 

          Mi đến cửa Kỳ-Hoàn thưa lớn như thế này :  “Thưa, thức ăn đã sửa soạn xong, mời quí Ngài đến thọ trai”. 

 

          Lúc nô-tỳ quay trở lại Kỳ-Hoàn thì các Tỳ-kheo đã tắm xong các vị về lại phòng mình.  Chẳng thấy có ai, muốn thưa lớn nhưng lại e ngại, nghĩ bụng :  Vừa rồi, trong sân đầy cả ngoại đạo, bây giờ chẳng thấy mống nào thôi khỏi mời về trình lại là ổn. 

 

Nghe nô-tỳ báo như vậy, Tỳ-Xá-Khư nghĩ :  Chắc tắm xong, các Tỳ-kheo vào phòng nghỉ ngơi.

 

Bà lại sai nô-tỳ : 

 

Mi đến một lần nữa, có thể vào trong cửa, đứng giữa sân thưa lớn lời bà đã dặn. 

 

Đứa nô-tỳ làm y như lời chủ dạy và đức Phật nghe rõ. Ngài bảo các Tỳ-kheo :

 

          -.  Tỳ Xá Khư mời thọ trai. Các ông nên mặc y, mang bát đến phó trai. 

 

Các Tỳ-kheo vâng lời, tập hợp nơi giảng đường. Nô-tỳ đến trước giảng đường bạch Phật : 

 

          -.  Trai bàn đã thiết cúng xong, xin cung thỉnh quí Ngài đến dự. 

 

Đức Phật bảo người đầy-tớ gái : 

 

-.  Ngươi có thể về trước, Chư Tăng sẽ đến sau. 

 

          Bấy giờ, đức Thế-Tôn và các Tỳ-kheo trong thoáng chốc nhanh như cánh tay có duỗi của lực-sĩ đã biến mất khỏi giảng-đường rồi xuất hiện tại nhà bà Tỳ-Xá-Khư, đâu đó ngồi vào tòa ngồi một cách thứ lớp mà y phục không ướt. Tỳ-Xá-Khư chứng kiến hình ảnh này lòng bà đầy cảm phục, thầm nghĩ :  Ta được nhiều thiện lợi nên được cúng dường đầy đủ bậc Thánh-sư và đệ-tử Thánh-sư.  Các Ngài đến trong mưa lớn mà không hề ướt y-phục. Bà rất lấy làm vui mừng và toại nguyện. Bà đích thân mời Phật và chư Tăng dùng cơm và hầu ăn một cách trân trọng đúng phép. 

 

Ăn xong bà dâng nước rồi kính cẩn chấp tay đứng qua một bên, bạch Phật : 

 

          -.  Cúi xin đức Thế-Tôn cho con được phép nói lên lời ước nguyện ! 

 

Đức Phật bảo Tỳ-Xá-Khư : 

 

          -.   Phật đã vĩnh viễn rời bỏ mọi ước nguyện của thế gian. 

 

Tỳ-Xá-Khư lại thưa : 

 

-.  Cúi xin Ngài cho con phát những lời nguyện thanh tịnh. 

 

Đức Phật dạy : 

 

-.  Rất lành thay !

 

          Tỳ-Xá-Khư bạch Phật, bà trình bày lý-do Chư Tăng tắm lõa hình như ngoại đạo mà nô-tỳ đã chứng kiến sáng nay, bà thưa: 

 

          -.  Tại sao các Tỳ-kheo phải lõa hình tắm trước Hòa-Thượng, A-Xà-Lê ? !  Cho nên cúi xin đức Thế-Tôn cho phép các Tỳ-kheo sử dụng y tắm mưa. Con nguyện trọn đời cung cấp y tắm mưa cho các Tỳ-kheo trong thành Xá-Vệ này. 

 

Bà lại thưa : 

 

          -.  Gần đây, con có chút việc đến nơi sống A-Di-La, thấy các Tỳ-kheo-ny loã hình tắm rửa trong dòng sông. Khi ấy, có người thấy hình ảnh này đều chê cười rằng :  Người nữ mặc áo che thân còn coi không được huống là người nữ xuất-gia mà lại loã thể.  Cúi xin Phật cũng cho Tỳ-kheo-ny sử dụng y tắm. Con nguyện trọn dời cung cấp y tắm cho các Tỳ-kheo-ny trong thành Xá-Vệ này.  Đức Phật dạy có ba loại bệnh :   

 

-.  Một loại uống thuốc hay không uống thuốc cũng chết. 

 

-.  Loại thứ hai uống thuốc hay không uống thuốc đều thoát khỏi bệnh.

 

-.  Loại thứ ba, uống thuốc thì sống, không uống thuốc thì chết.  

 

          -.  Cúi xin Phật cho phép các Tỳ-kheo được uống các thứ thuốc.  Con cũng xin nguyện trọn đời cung cấp thuốc cho các Tỳ-kheo trong thành Xá-Vệ này. 

 

Bà lại thưa :  Đức Phật dạy có ba loại bệnh.  

 

          -.  Một loại :  Tùy theo bệnh được ăn thức ăn hay không được ăn thức ăn, tuỳ theo bệnh đều chết.  

 

          -.  Loại thứ hai :  Tùy theo bệnh được ăn thức ăn hay không được ăn thức ăn, tuỳ theo bệnh đều sống.  

 

          -.  Loại thứ ba :  Tùy theo bệnh được ăn thức ăn thì lành, không được ăn thức ăn, tuỳ theo bệnh chết.  

 

          -.  Cúi xin Phật cho phép các Tỳ-kheo được ăn thức ăn tuỳ theo bệnh.  Con nguyện xin trọn đời cung cấp thức ăn tuỳ theo bệnh cho các Tỳ-kheo tại thành Xá-Vệ này. 

 

          Bà lại thưa : 

 

          -.  Người nuôi bệnh, nếu phải đi khất thực thì không chu toàn việc chăm sóc người bệnh. Cúi xin Ngài cho phép các Tỳ-kheo nuôi bệnh được ăn thức ăn để nuôi bệnh.  Con cũng nguyện trọn đời cung cấp thức ăn cho các vị nuôi người bệnh trong thành Xá-Vệ này. 

 

Bà lại thưa : 

 

          -.  Khách Tỳ-kheo từ các nơi xa xôi đến đây quá mệt mỏi, hơn nữa không biết chỗ nào để khất thực.  Cúi xin Ngài cho phép các Tỳ-kheo nhận thức ăn từ nơi con để Tỳ-kheo khách dùng trong thời gian nghỉ ngơi vì mệt mỏi và chưa biết chỗ khất thực.  Con nguyện trọn đời cung cấp cho quí Tỳ-kheo khách trong thành Xá-Vệ này. 

 

Bà lại thưa : 

 

          -.  Nếu có Tỳ-kheo nào đi xa mà phải vào thôn khất thực nên không theo kịp bạn đồng hành hoặc gặp phải bọn giặc tháng Tám, hay bị lạc đường. Con cúi xin Phật cho phép các Tỳ-kheo đi xa nhận thức ăn đi xa của con. Con nguyện trọn đời cúng dường lương thực đi đường xa cho các Tỳ-kheo trong thành Xá-Vệ này. 

 

Bà lại thưa : 

 

          -.  Con nghe đức Thế-Tôn cho phép các Tỳ-kheo ở nước A-Na-Tần-Đầu ăn cháo.  Cúi xin Ngài cho phép các Tỳ-kheo được dùng cháo nơi con cúng dường. Con cũng xin nguyện trọn đời cúng dường cháo cho các Tỳ-kheo trong thành Xá-Vệ này. 

 

Bà lại bạch Phật : 

 

          -.  Nguyện đức Thế-Tôn, trọn đời nhận y phục, ẩm thực, thuốc thang của con. 

 

Đức Phật hỏi bà Tỳ Xá Khư : 

 

          -.  Với hiểu biết ý nghĩa lợi lạc như thế nào mà bà phát chín lời nguyện như trên ? 

 

Tỳ-Xá-Khư thưa : 

 

          -  Với đất nước này luôn luôn có các Tỳ-kheo ở khắp nơi về vấn an, thăm hỏi đức Thế-Tôn, hoặc có trường hợp Tỳ-kheo nào đó ở địa phương nào đó qua đời mà đắc quả Tu-Đà-Hoàn, Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm, A-La-Hán, con sẽ tìm hiểu hỏi xem Tỳ-kheo ấy đã từng về thành Xá-Vệ này không ?  Nếu được trả lời rằng vị ấy đã từng đến đây thì trong con sẽ có suy nghĩ như vầy :  Vị Tỳ-kheo ấy chắc chắn đã từng nhận nơi con, ít nhất là một món cúng dường.  Chỉ chừng ấy thôi cũng đủ để con vui mừng với căn lành con đã gieo được đơm hoa kết trái. 

 

Với thiện tâm như vậy, đức Thế-Tôn nói với bà Tỳ-Xá-Khư rằng : 

 

          -.  Cho phép con thực hiện 8 lời nguyện, còn một lời nguyện sau cùng là không thể chấp nhận được. 

 

          Liền khi ấy, bà Tỳ Xá Khư lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước đức Phật, đức Phật vì bà nói bài Kệ tuỳ hỷ : 

 

          Lòng vui ẩm thực cúng

          Cúng dường Phật, Thánh Tăng

          Phước lập xan tham diệt

          Thọ báo lại an vui

          Sanh cõi trời trường thọ

          Sanh cõi trần lòa ô (nhiễm)

          Pháp cúng dường, quả lớn

          Ở đâu cũng mãi vui. 

 

          Tiếp theo, đức Thế-Tôn lại nói về các diệu pháp. Tỳ-Xá-Khư rất đổi vui mừng vì các điều thiện đầy lợi lạc được tiếp thu một cách trọn vẹn. 

 

          Nội dung 8 lời nguyện này, sau đó về lại Kỳ-Hoàn, đức Phật đã chế thành giới điều, qui định một cách chặt chẽ.

 

 

* * * * * * * * * *

ĂN CHẬN CỦA TĂNG

 

          Lúc bấy giờ có một số đông Cư-sĩ trong thành Vương-Xá muốn thỉnh Phật và Tăng chúng để cúng dường nhân đó để được nghe pháp. Tại một địa điểm thuận lợi, họ chia nhau công việc, người bữa củi, kẻ xách nước, người quét dọn rưới nước nước làm sạch sẽ không bụi, kẻ trải toạ cụ, người rải hoa, trải phụ cụ, ở tòa ngồi nhất là lực lượng trai soạn rất đông đảo…

 

          Buổi sáng sớm hôm đó, Bạt-Nan-Đà đắp y, bưng bát đến trước ngôi nhà mà mọi người đang chuẩn bị mọi việc để cung thỉnh Phật và Tăng. Tuỳ theo công việc của mỗi người mà Bạt-Nan-Đà khéo lời tán dương, cổ vũ. Bạt-Nan-Đà tán thán như vầy : 

 

Việc làm của quí vị hôm nay rất tốt, là điều thiện là niềm vui, quí vị thật xứng đáng là người Phật-tử. 

 

 Mọi người như khoe nói : 

 

          -.  Chúng tôi thật lấy làm vui mừng với việc làm cúng dường này. Ngoài việc cúng dường đồ ăn, thức uống, thứ nào cũng đặc sắc thơm ngon, chúng con còn cúng dường y vật cho chúng Tăng nữa. 

 

          Bạt-Nan-Đà nghe thế lại bảo : 

 

          -.  Các vị làm việc dư thừa, y vật của chúng Tăng được nhiều người cúng dường qua thừa thải rồi. Các vị cúng tiếp nữa thì hoá ra chất thành đống trong kho, có ai ngó ngàn đến đâu, có quí cũng trở thành vô dụng, không còn tác dụng phước đức nữa !  Ư nhĩ !  Sao quí vị lại không cho tôi !  Nếu cho tôi, tôi thường đắp đổi mặc bên mình, nhìn thấy y là liền nhớ nghĩ đến quí vị để rồi sự ốm đau, việc quan yếu lại được cùng nhau lo liệu giải quyết. 

 

Mọi người nghe thấy hữu lý quá nên họp lại lấy ý kiến, có người nói :  

 

-  Nếu Tăng không cần thì nên cho vị này để sự cúng dường của chúng ta có tác dụng phước đức. 

 

Có người lại phản đối : 

 

-.  Với bản nguyện của chúng ta cúng cho Chúng Tăng, tại sao nay lại tập trung cúng cho một người ? ! 

Bàn qua tính lại, cái số đông cúng cho một người chiếm đa số. Toàn bộ y vật được trao cúng cho Bạt-Nan-Đà. 

 

Bấy giờ, Bạt-Nan-Đà vác cả một bao nặng y vật trở về trú xứ Tỳ-kheo, các thầy khen : 

 

-.  Thầy là người có phước đức !  Xin hỏi mới ra đi có một lát mà sao đầy thắng lợi như thế ? 

 

Bạt-Nan-Đà trả lời rất thực như vầy : 

 

-. Khéo miệng mới được chứ chẳng phải do phước đức nào cả.  

 

          Bạt-Nan-Đà liền kể lại cái khéo miệng của mình mà cười một cách đắc chí với chuyện ăn chận của Tăng đã xảy ra. 

 

          Chuyện bị Tăng quở trách đối với Bạt-Nan-Đà xảy ra như cơm bữa và bao giờ Bạt-Nan-Đà cũng điều thành thật với chính mình trước Tăng chúng. 

 

          Trở lại chuyện thỉnh Phật và Tăng. Sau khi thiết dọn trai bàn đầy đủ đâu vào đấy. Các Cư-sĩ trong ban tổ chức cho người đến thỉnh Phật. Đức Thế-Tôn mặc y, trì bát đi giữa Tỳ-kheo Tăng về địa điểm thiết lễ cúng dường kia… Ngài và Tăng, uy nghiêm ngồi vào toà. Tiếp theo nghi thức tác bạch cúng dường và trong khi thọ thực, các Cư-sĩ đích thân hầu hạ thật chu đáo. An xong, Chư Tăng nhận nước dùng đáng ra có vật cúng dường thì cũng được dâng cúng luôn song phần này bị hụt hẩng…. Sau đó, số người lúc trước không đồng ý cho Bạt-Nan-Đà y vật họ có vẻ thất vọng bảo nhỏ với nhau rằng: Bữa cơm cúng dường hôm nay, đâu phải chúng ta không chuẩn bị đầy đủ, tại các người ấy không xét kỹ y vật định cúng cho Tăng lại nhẹ dạ đem cúng riêng cho một người nên mới xảy ra tình huống đáng hổ thẹn và thiếu phước đức này. 

 

          Chuyện đã qua nhưng dư âm vẫn còn. Các Tỳ-kheo hỏi kỹ lại thì được các Cư-sĩ nói rõ chuyện đã xảy ra. 

 

          Lần nữa Bạt-Nan-Đà nhận chịu sự quở trách ngu si. Đức Phật kiết giới cấm Tỳ-kheo tìm cách xoay sở vật cúng cho Tăng về cho riêng mình. Giới này đức Phật nói tại thành Vương-Xá.

 

*

*      *

BÀI HỌC VỀ XIN XỎ

 

            Lúc bấy giờ, đức Phật lưu trú tại thành Xá-Vệ. Ở vùng cận thành có ấp A-Trà-Bệ. Tạm trú ở ấp này, các Tỳ-kheo tự động đi xin các nguyên vật-liệu để làm phòng-xá. Họ đến các nhà cư-sĩ để xin :  Xin xe-cộ hoặc trị-giá bằng xe-cộ, xin nhơn-công hoặc trị-giá bằng nhơn-công, gỗ cây, tre trúc nói khác thứ gì dùng được cho xây dựng là xin, tranh thủ xin cho được. Cư-sĩ chán ngấy việc xin này của các thầy, họ đâm ra tránh né. Hễ nhìn thấy Tỳ-kheo là họ tránh xa.

 

          Đi vào ngõ cụt, các Tỳ-kheo xoay xở hết ra vật-liệu, phải tự lực chặt cây, phát cỏ, đào đất .v.v…  Có một Tỳ-kheo tự mình chặt cây của một vị thần.  Con của vị thần cây này đang vui chơi ở đây bị Tỳ-kheo chặt phạm đứt mất một ngón tay. Thần cây đau khổ vô cùng, ác ý nổi dậy muốn đánh chết Tỳ-kheo song thần kịp nghĩ lại :  “Tỳ-kheo này có oai đức lớn, nếu ta phóng tay đánh chết thì chắc phải nhận bao khổ não miên trường nơi địa ngục”. Vị thần lại sực nhớ ra: Hiện giờ đức Thế-Tôn ở tại thành này, ta nên đến trình bày việc này, đức Phật dạy sao ta trân trọng làm theo thế ấy. 

 

          Vị thần liền bay đến Kỳ-Hoàn trình bày lên Phật việc đã xảy ra một cách tường tận. Đức Phật liền tán thán vị thần cây:

 

          Hay thay! Hay thay !  Ông có được niệm thiện như thế! Quả thật Tỳ-kheo ấy có oai đức, nếu đánh, ắt phải nhận lấy khổ báo. 

 

          Sau đó, đức Phật lại hướng dẫn vị Thọ thần này, Phật dạy : 

 

          -  Nơi vùng ấy có một cây rất lớn chưa thuộc về ai, Ong có thể đưa người của Ong đến đó để nương tựa. 

 

          Vị Thọ thần cáo từ và thực hiện đúng như lời chỉ giáo của Phật . 

 

          Với sự việc như thế, trên đường du hành, đức Phật thư thả đi về ấp A-Trà-Bệ. 

 

          Sáng sớm hôm ấy, Trưởng-lão Đại-Ca-Diếp y, bát trang nghiêm vào thành khất thực. Thực tế, ở đây cư sĩ thấy hình bóng Tỳ-kheo thì lánh mặt là rành rành nhưng Đại-Ca-Diếp vẫn hỏi người đi đường về lý-do của vấn-đề. Họ bảo rằng : 

 

          -.  Các Tỳ-kheo ở ấp ấy, xin vật-liệu để làm phòng-xá không biết thế nào là đủ. Xin riết, cư-sĩ đâm ra khổ tâm và tốt nhất là họ tránh đi. Họ tránh Ngài là thế. 

 

          Đại-Ca-Diếp sau khi thọ thực trở về lại chỗ đức Phật lưu trú, trình bày sự việc lên Ngài.  Nhân việc này, đức Phật cho tập hợp toàn thể Tỳ-kheo ở đây và trước Tăng, sự thật của sự việc được xác định lại rõ ràng. Các Tỳ-kheo ấp A-Trà-Bệ thú nhận lỗi xin xỏ thái quá kia. Đức Phật quở trách, Ngài dạy : 

 

          -.  Các thầy nên tu hạnh ít ham muốn, biết vừa đủ, không nên cầu xin nhiều, cầu xin không biết chán ngán là sao ? ! 

 

          Và để làm rõ việc xin xỏ làm ai cũng ghét, Ngài dẫn chứng câu chuyện cũ, Ngài nói: 

 

          -.  Vào đời quá khứ, có một Tiên-Nhơn ở trong hang đá bên bờ sông Hằng. Bấy giờ, hằng ngày từ dưới nước xuất hiện lên, Long-Vương đến nhiễu quanh vị Tiên-Nhơn bảy vòng rồi đưa đầu lên xuống để bày tỏ sự cung-kính. Sau đó, vị Tiên-Nhơn du-hành trong nhân-gian. Ở lại trông nom cái hang là người đệ-tử của Tiên-Nhơn.  Hằng ngày, con rồng vẫn đến hang để bày tỏ sự cung-kính như trước. Cứ mỗi lần rồng đến hang, người đệ-tử càng phát khiếp. Nỗi lo sợ hãi hùng này khiến người đệ-tử suy nhược tinh thần đến nghiêm trọng. Lúc ấy, Ta đang hành Bồ-Tát đạo, du hoá ven sông Hằng, chứng kiến sự việc này và người học-trò của Tiên-Nhơn cũng đã thố lộ với Ta nổi kinh khiếp ấy. Ta lại hỏi : 

 

          -.  Nay ông không muốn thấy con rồng này đến đây nữa phải không ? 

 

          Người đệ tử trả lời :

 

          -.  Đúng như  vậy, thưa Bồ-Tát. 

 

          Ta hỏi : 

 

          -  Ong thấy dưới cổ con rồng có những vật báu gì không ? 

 

          Người đệ tử đáp : 

 

          -.  Có hạt Ma-Ni-Châu. 

 

          Ta bảo người đệ tử : 

 

          -.  Khi con rồng đến, ông chấp tay hướng về nó, nói lên ý muốn như vầy: Nay tôi cần hạt Ma-Ni-Châu dưới cổ của ngươi, xin ngươi cho ta. 

 

          Người đệ tử ghi nhận lời chỉ bảo này. Sau đó, con rồng đến hang. Người đệ tử kính-cẩn ngỏ lời xin hạt Ma-Ni của rồng. Con rồng nghe lời cầu xin này thì sửng cả thân, đứng lặng thinh. Người đệ-tử Tiên-Nhơn lại vì Long-Vương nói lên lời Kệ này : 

 

Long-Vương, nay cần ngươi

Cho hạt Châu dưới cổ.

Lòng nào được không vui !

Cớ sao lặng cả người ?   

          Con rồng liền đáp Kệ rằng :

Tất cả chỗ ta cần

Đều được từ Ngọc Châu

Nay ông cầu xin nó

Vĩnh viễn ta cáo từ

Như tiếng lửa vỡ bùng

Khiến lòng người khiếp sợ

Nay ta nghe ông cầu

Hoảng hốt lo đau đáu. 

 

Bấy giờ dẫn tích xưa, Thế-Tôn lại nói Kệ :

 

Người xin không ai ưa

Xin mãi bị oán ghét

Long-Vương nghe cầu xin

Một đi không trở lại. 

 

          Đức Phật bảo các Tỳ-kheo :  Long-Vương vì thọ nghiệp báo tự-nhiên mà không còn hoan-hỷ khi nghe lời cầu xin. Nay các cư-sĩ làm ăn vất vả, khốn khổ mới có được của tiền. Tại sao các ông không biết được điều đó, lại cứ lần lựa cầu xin ? 

 

Đức Phật lại dẫn một câu chuyện khác : Ngài bảo các Tỳ-kheo : 

 

-.  Xưa kia, một thời Ta ở tại thành Xá-Vệ, có một Tỳ-kheo, sau khi an cư, về chỗ Ta, nhân đó Ta hỏi : 

 

-.  Thầy an-cư ở đâu? An-cư có được an ổn không ?  Khất thực có dễ được không ? Đi đường có vất vả lắm không ? 

 

Tỳ-kheo kia trả lời : 

 

          -.  Con an-cư trong khu rừng cạnh sườn núi Tuyết, an-cư được an ổn, khất thực dễ được, trên đường đi không mấy vất vả. Tuy vậy cũng không ít tránh khỏi một ít chướng ngại, đó là nạn chim, ban đêm chúng phát tiếng kêu ồn ào lắm, làm xáo trộn việc chuyên niệm trong khi con tọa thiền tư duy ! 

 

Ta hỏi Tỳ-kheo ấy : 

 

-.  Nay thầy còn muốn vui với khu rừng đó nữa không ? 

 

Bạch Thế-Tôn con rất thích, Tỳ-kheo ấy thưa. 

 

Ta nói : 

 

          -.  Thầy về lại nơi đó, đợi lúc xẩm tối, muôn chim bay về, thầy chấp tay hướng đến đàn chim nói :  “Nay ta cần những cánh lông của các ngươi, các ngươi có thể cho ta. Giữa đêm, sau đêm thầy cũng nói lời cầu xin ấy”. 

 

          Tỳ-kheo ấy, sau đó làm y theo lời ta bảo. Đàn chim ấy suốt đêm bàn bạc :  Nay Tỳ-kheo nầy xin ta đôi cánh lông, chúng ta có nên cho hay không ?  Cả đàn đều bảo: Không thể cho được. Thế là cả đàn bay đi mất, không còn trở lại nữa. 

 

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo : Loài chim còn không muốn nghe đến lời cầu xin huống chi là con người. 

 

Đức Phật lại dẫn chuyện tiếp theo, Ngài bảo các Tỳ-kheo : 

 

          -.  Thuở quá khứ, có Quốc-Vương tên là Ca-Di, ưa làm việc bố-thí, cung cấp cho người nghèo khổ. Khi ấy, có Phạm-Chí được nhà Vua rất mến trọng nhưng chưa bao giờ Phạm-Chí đến cửa Vua xin thứ gì. Thế rồi giữa Vua và Phạm-Chí có cuộc đối thoại bằng lời Kệ với nhau : 

 

Vua Kệ hỏi :

 

Phương xa, ngươi đều đến

Khắp nơi đến ta xin

Nay sao ông gần ta

Không xin, có ý gì ? 

 

Phạm-Chí đáp Kệ :

 

Người xin không ai thích

Không cho còn oán giận

Không xin, im lặng vậy

Đâu sợ mất thân tình. 

 

Nhà Vua lại nói Kệ :

 

Người trí nào ghét xin

Lắng vọng nghe tiếng cầu

Huống ông, tình thân ái

Bao dung luôn sẵn lòng

Cam nghèo thẹn cầu xin

Chỗ đáng nhận không nhận

Mất người rộng lòng phước

Lại tự khổ lấy thân

An bần thẹn thùng xin

Nhận đi chỗ đáng nhận

Vun xới thiện cho người

Cho tự thân an lạc

Đức hạnh xin được tròn

Cũng chẳng lỗi miệng, thân

San sẽ giữa có, không

Cớ sao lại chối từ ! 

 

Phạm-Chí lại đáp Kệ :

 

Người hiền không nói xin

Nói xin chẳng phải hiền

Im lặng không cầu xin

Đại nhân ấy người hiền. 

 

          Nhà Vua nghe Kệ về Hiền-Nhân, tâm Vua rất hoan-hỷ liền cho lấy một con trâu chúa và 1000 con trâu khác biếu cho Hiền-Nhân Phạm-Chí. 

 

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo : 

 

          -.  Mối quan hệ giữa nhà Vua với Phạm-Chí tuy rất thân tình song còn khó xảy ra việc xin xỏ nhờ vả, huống chi các cư-sĩ đối với các thầy đâu có mặn mà gì cho cam mà cầu xin nhiều như thế ? !  Đức Phật lại dẫn chuyện để được rõ hơn bài học về xin xỏ, Ngài nói :

 

          -.  Xưa kia có một người thuộc hàng vọng-tộc, danh-giá, tên là La-Tra-Ba-La được cha mẹ rất mực yêu quý, chiều chuộng nhưng từ khi La-Tra-Ba-La xuất-gia, không hề xin cha mẹ bất cứ thứ gì. Ngạc nhiên, cha mẹ bằng lời Kệ hỏi con :

 

Xa xôi người tìm đến

Khắp nơi đến xin ta

Con là con yêu quý

Không xin có ý gì ? 

 

La-Tra-Ba-La Kệ đáp :  

 

Người xin, không ai ưa

Đã không cho còn ghét

Con đã xuất gia rồi

Không nên lại cầu xin. 

 

          Này các Tỳ-kheo, La-Tra-Ba-La được cha mẹ yêu quý còn viện cớ xuất-gia, không trở về xin một vật gì huống chi các cư-sĩ đối với các thầy đâu có gần gũi mặn mà gì mà lại xin họ nhiều đến thế ư ? 

 

          Đức Phật nghiêm khắc quở trách lỗi lầm xin xỏ kia rồi Kiết giới cấm về vấn đề này.

 

*+*+*+*+*+*+*+*

CAM VIỆC MAI MỐI LƯU LÀ

 

          Lúc bấy giờ, đức Phật lưu trú tại thành Xá-Vệ.  Ca-Lưu thuộc nhóm Lục-quần Tỳ-kheo. Trước khi xuất-gia ông là Trưởng-giả của thành này. Bẩm chất Ca-Lưu rất thông minh, có khả năng giải quyết mọi rắc rối cho thiên hạ. Người trong thành, hễ ai có việc gia-đạo, kể cả việc hôn-nhân là đều tìm đến Ca-Lưu để hỏi ý kiến hay nhờ vả giải-quyết việc này, việc nọ.   

 

Nếu việc có kết quả tốt thì bổn-đạo nói :  

 

             -.  “Nhờ Ca-Lưu nên họ mới được thế này nên làm thế nào để Ca-Lưu cũng vui với chúng ta”.   

 

Còn nếu kết quả xấu thì họ nói :  

 

             -.   “Do Ca-Lưu nên ta mới ra nong nổi này, làm sao phải cho Ca-Lưu chịu chung nổi khổ như ta”.   

 

          Như vậy, tiếng khen, tiếng chê, điều tốt, việc xấu đồn vang Ca-Lưu khắp cả nước.  Được một thời gian, sau đó với lòng tin Phật-pháp, ông xuất-gia học đạo. Bấy giờ, bổn-đạo của Ca-Lưu càng lúc càng đông, đông hơn lúc xưa nhiều, thậm chí Vua Ba-tư-nặc cũng đích thân đến Ca-Lưu hỏi việc nước. Tuy nhiên điều vui mừng, sự phẩn-nộ đến với Ca-Lưu cũng được nhân lên gấp bội. 

 

          Thế rồi có một quả-phụ rất tự-hào về người con gái của mình là hoa-khôi thiên hạ. Rất nhiều người đến cầu-hôn, song bà đều không nhận lời. Bà ta nói:  

 

           -.  “Nếu người nào muốn cưới con gái bà thì phải ở rể luôn, bà mới gả”.  

 

Khi ấy, có người Bà-la-môn giàu có, tiền của không sao kể xiết, nói với bà quả phụ rằng :  

 

           -.  “Cho con trai tôi cưới con gái bà thì sự sống chúng nó ắt có nhiều hạnh phúc”.  

 

 

* * * * * * * *

CẤM LÀM CHIM XANH 

 

            Bấy giờ các tay hào-phú trong thành Xá-Vệ muốn mua vui cái dục-lạc, họ nhờ những mụ lớn tuổi làm con “Chim xanh”. Các con chim xanh này lại biết hổ-thẹn không dám nói lời móc-nối làm việc mua dâm hộ cho các tay nhà giàu, quyền-thế kia. Do vậy, họ không tìm kiếm được gái. Không biết họ nghĩ sao? Có thể họ biết rõ cái “tài” của Lục-quần Tỳ-kheo nên các con chim xanh này đánh bạo đến nhờ cái nhóm trời đất ấy. Họ nói với các Tỳ-kheo này rằng:  

 

          -.  Thầy có thể làm giúp cho tôi việc ấy, cần chi tôi lo liệu đầy đủ cho thầy. Một ngày, một đêm hay chỉ một lần giao-hợp giá là bao nhiêu ?   Các tay hào phú đâu kể số gì tiền. Thầy giúp mối lái cho nhé ! 

 

          Con chim xanh đậu đúng ngay trên của miệng Tỳ-kheo Lục-quần. Thầy ta đến với những người nữ bắn tiếng mối lái việc tư-thông kia với những lời đề nghị béo-bỡ mà không chút ngượng-ngùng e ngại. 

 

          Chẳng những không được gì mà còn mang tiếng dữ-dội về hành-động không đạo-lý này. Thiên-hạ đồn đãi rằng :  

 

          -.  Sa-môn Thích-tử tịnh tu phạm-hạnh, tại sao, nay lại đi làm cái ác nghiệp này. Chỗ nhục-nhã là cấu-kết, hợp-tác với bọn tà-dâm mà không phải cư-sĩ. Các Sa-môn này chẳng còn chút xấu-hổ nào cả, thật đồi bại làm sao ! 

 

          Việc này đến tai các Trưởng-lão. Các Trưởng-lão quở trách nghiêm-khắc Lục-quần, rồi trình sự việc lên đức Phật . 

 

          Trước toàn thể Tăng, Lục-quần thú-nhận tội-lỗi của mình. Đức Phật  cấm làm việc tư-thông, bổ sung cho điều giới làm mai-mối.

 

 

*

*       *

CẤM NI GIẶT NHUỘM Y CHO TỲ KHEO

 

          Ngày ấy, lúc trời vừa sáng, Tỳ-kheo Bạt-Nan-Đà mặc y, bưng bát đến chỗ cư-trú của Tỳ-kheo-ni Thâu-La-Nan-Đà.   Cách ngồi bất-cẩn của ni cô này để lộ ra chỗ kín. Bạt-Nan-Đà nhìn thấy, hứng dục quá đổi, đến nổi xuất bất-tịnh. Tỳ-kheo-ni biết, lại khẻ bảo: 

 

-.  Trưởng-lão, thay y cho tôi giặt . 

 

           Bạt-Nan-Đà trao y thay cho cô ni.  Nhìn thấy thứ bất-tịnh này, cô ta lại có tác ý không nghiêm, lấy thứ bất-tịnh đặt vào âm-hộ của mình. 

 

          Lại có Tỳ-kheo khác đưa y cho Tỳ-kheo-ni giặt, nhuộm, đập. Việc này làm ảnh-hưởng lớn đến việc tu-tập, vì thời-gian đọc tụng, tọa thiền, hành đạo của chư ni bị phí lảng vào việc giặt giũ kia.  Người thế-gian thấy thế lại lắm lời chê trách, mĩa-mai: 

 

          -.  Các Tỳ-kheo-ni lấy việc giặt, nhuộm, đập y làm sự-nghiệp, người tu-hành với kẻ tại-gia đâu có khác gì nào ? ! 

 

          Vào dịp ấy, Tỳ-kheo-ni Ma-ha-ba-xà-ba-đề cùng với 500 Tỳ-kheo-ni đến chỗ của đức Phật ở trong thành Xá-Vệ.  Sau khi đầu, mặt đảnh lễ sát chân Ngài, Chư-ni ngồi lui sang một bên. Đức Phật hỏi Cù-Đàm-Di: 

 

-.  Tại sao tay chân của các vị Tỳ-kheo-ni lại dính đầy sắc màu nhuộm như thế ? ! 

 

Chư-ni, nhân đó bạch lên Phật vấn đề Tỳ-kheo sai giặt, nhuộm y làm lãng phí việc tu học. 

 

Đức Phật vì họ nói diệu pháp xong bảo họ trở về lại trú xứ. 

 

           Sau đó đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng. Trước Phật và Tăng Tỳ-kheo đương sự thú-nhận việc sai ni giặt, nhuộm y là sự thật và sự thật về Bạt-Nan-Đà nhân đó cũng được làm sáng tỏ. Đức Phật đã nghiêm-khắc quở-trách Tỳ-kheo vi phạm là kẻ ngu-si, sau đó người kiết giới cấm Tỳ-kheo-ni giặt, nhuộm y cho Tỳ-kheo. Về sau có Tỳ-kheo già, yếu bệnh tật nhờ Tỳ-kheo-ni bà con trong thân tộc giặt, nhuộm. Việc này cũng được trình lên Phật và vì là thân-tộc nên đây là trường hợp ngoại lệ đức Phật cho phép

 

*

*      *

CẤM SỬ DỤNG VẬT DỤNG BẰNG TƠ TẰM 

 

           Bây giờ đức Phật đang lưu-trú tại Ap-Trà-Tỳ. Đây là ấp trồng dâu nuôi tằm nên sản-xuất nhiều tơ tằm. Do ưu thế đó, các Tỳ-kheo sử dụng tơ tằm để làm nhiều việc. Để có ngọa cụ bằng tơ tằm dệt, có Tỳ-kheo đích thân làm nhiều công đoạn… Tự mình gánh kén cũng khiến người khác gánh kén, đích thân nấu kén cũng sai bảo người khác nấu … Các Cư-sĩ thấy thế, nói như vầy: 

 

          -.  Chúng ta ươm kén kéo tơ, Tỳ-kheo cũng ươm kén kéo tơ. Sa-môn Thích-tử với chúng ta có khác chi đâu nào ? !  Họ không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. 

 

           Lại có một Tỳ-kheo tự mình quay tơ dệt rồi nhờ Tỳ-kheo khác may ngọa cụ. Vì thiếu tơ nên Tỳ-kheo đến nhà người sản-xuất tơ nói : 

 

-.  Tôi đang may cái ngọa cụ mà thiếu tơ, ít nhiều có thể cho tôi xin được chứ ? 

 

Người ấy nói: 

 

-. Tôi chưa ươm thành tơ. 

 

Tỳ-kheo lại nói : 

 

-.  Có thể vì tôi mà ươm cho vậy ! 

 

           Người ấy nghe thế liền nấu kén trước mặt Tỳ-kheo. Tiếng nhọng khua động trong kén làm trồi kén lên mặt nước đang nóng dần. Tỳ-kheo thấy thế bảo người kia nhận nó xuống nước sôi. Người ươm tơ tỏ vẻ bực mình, liền mắng : 

 

          -.  Thầy thường nói không sát-sanh, mà nay lại bảo người sát-sanh, không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn… 

 

Đức Phật cấm Tỳ-kheo không sử dụng vật dụng gì bằng tơ tằm là vậy 

 

 

*+*+*+*+*+*+*+*+*

CHUYỆN ĂN TRỘM GỖ

 

          Chuyện này xảy ra lúc đức Phật đang ở thành Vương-Xá. Khi ấy có Tỳ-kheo tên là Đạt-Ny-Ca xuất thân từ con nhà làm đồ gốm truyền-thống. Ong ta nắm vững bí-quyết nhồi đất xét và nung gốm rất tuyệt. Tỳ-kheo Đạt-Ny-Ca làm cái am bằng vật-liệu thô-sơ : Cây, lá, tranh, tre để tu lại núi Ất-la. Khốn nỗi, mỗi lần đi khất thực về lại phải tu sửa am vì kẻ hái củi phá am lấy củi đem đi. Không phải một mà đến ba lần như vậy. Tỳ-kheo Đạt-Ny-Ca hết kiên nhẫn, giận lắm. Cùng thì phải biến và cái biến ấy nằm trong ý nghĩ này của Đạt-Ny-Ca : Cái nghề tinh nhồi đất sét là cái nghề của ta, tại sao ta không làm cái am bằng gạch nung để ở, tránh khỏi cái họa phá nhà lấy củi này”. 

 

          Từ ý nghĩ dẫn đến hành-động. Đạt-Ny-Ca thực-hiện ngay ngôi nhà mà bản vẽ nằm trong ý nghĩ: Toàn bằng đất sét từ vách, cột, đòn tay, rui, mè, mái lợp, cửa sổ, cửa cái… đến hệ thống âm-thanh của tiêu, sáo được cài đặt rất khoa-học. Ngôi nhà sơ chế đã khô cứng, ổn định, Đạt-Ny-Ca khéo đặt củi để nung. Màu đỏ tươi càng hiện ra khi lửa nung lụi tàn. Ngôi nhà càng đẹp đáo để khi bàn tay nghệ-thuật của Đạt-Ny-Ca đã trổ hết tài hoàn chỉnh. Cái đẹp làm ngẩn ngơ thiên-hạ. Gió luôn đi qua hệ thống âm-thanh thổi lên tiếng tiêu, tiếng sáo vi-vu. Phải chăng đây là ngôi nhà lý tưởng của một Đạt-Ny-Ca dẫn đi từ một cái am tranh bị phá ? ! 

 

           Đức Phật ở trên núi Kỳ-Xà-Quật, nhìn thấy cái am màu đỏ được vẽ vời đẹp-đẽ ở xa kia. Hình như Ngài đã biết hết diễn-tiến của no, song Ngài vẫn gọi Anan để hỏi  

 

-.  Cái nhà đỏ kia là của ai vậy ?  

 

Thưa Thế-tôn, Đạt-Ny-Ca tự-lực làm cái am bằng đất nung ấy. 

 

Đức Phật bảo Anan :  

 

          -.  Đạt-Ny-Ca làm điều phi pháp !  Tại sao người xuất-gia lại làm ác nghiệp, tổn thương đến mạng sống sinh-vật, làm mất đi lòng từ? Trước đây Ta, bằng nhiều hình-thức khác nhau, nói về pháp từ-mẫn, tại sao Tỳ-kheo   lại đánh mất đi lòng từ của mình ?  

 

Sau đó, bằng sự khéo-léo, đức Phật quở trách rồi bảo các Tỳ-kheo : 

 

-.  Các ông đến phá bỏ cái nhà ấy đi. 

 

Thừa lệnh, các Tỳ-kheo đến am của Đạt-Ny-Ca làm việc triệt hạ. Từ trong am bước ra, hỏi các Tỳ-kheo : 

 

-.  Tôi không xúc phạm quý vị, tại sao quý vị rủ nhau đến phá nhà tôi ? 

 

Các Tỳ-kheo trả lời :  

 

-.  Chẳng phải chúng tôi tự ý làm mà chúng tôi làm theo lời dạy của Phật. 

 

Đạt-Ny-Ca nói :  

 

-.  Đức pháp-vương ra lệnh phá thì chúng tôi đâu dám nói gì. 

 

          Các Tỳ-kheo liền phá bỏ toàn bộ rồi đưa Đạt-Ny-Ca đến trước Phật và trình-bày đầy đủ diễn-tiến sự việc lên Ngài. 

 

          Trước toàn thể Tăng được triệu tập, sự việc Đạt-Ny-Ca được bên bị, bên cáo xác-định lại rõ-ràng. Đức Phật quở trách Đạt-Ny-Ca và qui-định rõ trước Tỳ-kheo lời dạy này : 

 

          -. Từ nay, Tỳ-kheo nào làm nhà bằng đất nung, phạm Thâu-lan-giá, tự mình thi thố công xảo phạm Đột-kiết-la. 

 

Không dừng lại ở đây, Đạt-Ny-Ca suy nghĩ :  

 

          -.  “Trước đây ta làm am tranh thì bị tiều-phu phá để lấy củi, còn làm bằng đất nung thì trái với thể thống người xuất-gia của đấng Pháp-vương. Nay ta có thể tìm gỗ làm một cái nhà lớn sao cho được bền chắc, khỏi phải cái nạn khổ não, rầy rà”.  

 

           Đạt-Ny-Ca nghĩ ngay đến người bạn học cũ hiện trông nom cây gỗ trong thành Vương-Xá. Đạt-Ny-Ca nhìn thấy cái thuận-lợi cho bản-vẽ của mình. Ong ta đến ngay chỗ làm việc của người bạn với lời đề nghị. 

 

-.  Tôi cần gỗ, bạn có thể giúp cho tôi chứ ? 

 

Người bạn kiểm lâm trả lời: 

 

-.  Tôi chỉ có bổn phận giữ chứ không có quyền cho. 

 

Đạt-Ny-Ca hỏi : 

 

-.  Vậy ai thì có quyền ? 

 

-.  Nhà vua mới có quyền. Người bạn đáp. 

 

Đạt-Ny-Ca nói :  

 

-.  Vua đã cho tôi rồi. 

 

Người bạn kiểm lâm nói :  

 

-.  Nếu Vua đã cho thì tuỳ ý cứ lấy. 

 

          Bấy giờ Đại-thần Võ-Xá đi thanh tra các nơi trong thành bắt gặp Tỳ-kheo chặt cây phòng vệ chiến lược thành mang đi.  Đại-thần liền đến hỏi người giữ gỗ : 

 

-.  Tại sao cho Tỳ-kheo kia đốn những cây gỗ lớn dùng để bảo vệ thành như vậy ? 

 

Người giữ cây gỗ trả lời : 

 

-.  Chẳng phải tôi cho. 

 

-.  Như vậy ai cho ?   Đại thần hỏi. 

 

-.  Vua cho. Người kiểm lâm đáp lời. 

 

Thần Võ-Xá không ngần-ngại đến gặp nhà Vua, hỏi ngay :         

 

-.  Vì lý do gì Đại Vương lại cho Tỳ-kheo Đạt-Ny-Ca những cây gỗ lớn để bảo vệ thành ? 

 

-.  Ai bảo cho ?   Vua gằn hỏi. 

 

-.  Người giữ gìn cây gỗ trong thành nói thế. Thần Võ-Xá thưa. 

 

Nhà Vua liền ra lệnh cho quan hầu-cận bắt giữ người kiểm lâm kia. 

 

          Trên đường áp-giải đến Vua cũng vừa lúc Đạt-Ny-Ca vào thành khất-thực. Nhìn thấy người bạn cũ, Đạt-Ny-Ca liền đến hỏi : 

 

-.  Bạn phạm tội gì mà bắt trói như thế ? 

 

Người bạn kiểm lâm nói : 

 

-.  Do Đại-đức mà tôi phải phạm tội như thế này. Xin Đại-đức cứu tôi thoát khỏi chết.  

 

Đạt-Ny-Ca nói : 

 

-.  Bạn đến trước, tôi sẽ đến sau. 

 

Trước điện Vua, sau khi Vua hỏi về cái cả quyền kia thì người kiểm lâm tâu : 

 

          -.  Tâu Đại Vương con đâu dám lạm quyền cho như vậy. Đạt-Ny-Ca xác-định với con là được phép của Vua nên con nói :  “Vua cho thì cứ đốn. 

 

Được lệnh gọi thì Đạt-Ny-Ca đã có mặt ngoài cửa. Nhà Vua bảo đưa Đạt-Ny-Ca vào. 

 

Vua hỏi Đạt-Ny-Ca : 

 

-.  Trẫm cho Tỳ-kheo gỗ vào lúc nào ? 

 

Đạt-Ny-Ca nói : 

 

          Nhà Vua đâu không còn nhớ, khi mới lên ngôi Vua, nhà Vua có nói : “Tất cả cỏ cây cũng như nước thuộc quốc nội, bố-thí cho Sa-môn, Bà-la-môn kia mà !” 

 

          Nhà Vua thở ra nói : 

 

          -. Trẫm nói bố-thí đối với những vật không có chủ, quái thay Tỳ-kheo lại lạm-dụng điều này để lấy vật của người không cho. Nhà Vua nói: Ta là Vị Vua Quán-Đảnh, đâu nên cầm tù hay giết hại Sa-môn. Thầy nên sớm về gặp đức Phật, Ngài là vị pháp Vương sẽ dùng pháp trị thầy. 

 

          Vua xử-lý như thế khiến mọi người đều kinh-ngạc bảo rằng : 

 

          -.  Đạt-Ny-Ca phạm tội đáng chết, tại sao chỉ quở trách rồi cho đi. Tội như vậy mà được tha thì ai không làm việc ăn trộm. 

 

Thế rồi tiếng cơ hiềm của người đời lại vang lên :  

 

          -.  “Sa-môn Thích-tử được nhà Vua cung-cấp lại ăn trộm gỗ của Vua, như thế chúng ta đâu còn có điều gì để mà lo sợ. Sa-môn Thích-tử thường ca ngợi người không ăn trộm, dạy người bố-thí, tại sao chính họ lại làm cái việc của kẻ giặc ?  Những kẻ này không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. 

 

          Tiếng xấu này ngày một đồn khắp. Trong nước, các Trưởng-giả, Cư-sĩ, Bà-la-môn v.v.. không có lòng tin yêu Phật-pháp, cứ trông thấy Sa-môn liền tìm mọi cách mắng-nhiếc. Sự việc này đến tai các Tỳ-kheo, các Tỳ-kheo hỏi nhau:  

 

-.  Ai đã trộm gỗ Vua để bị tiếng xấu như thế !  

 

Đạt-Ny-Ca liền công-nhận :  

 

-.  “Chính tôi làm việc ấy”.  

 

Biết rõ như thế, các Tỳ kheo liền quở trách : 

 

          -.  Thầy làm như thế là phi-pháp, không hợp đạo. Đức Thế-tôn bằng nhiều hình-thức chê-trách việc lấy của không cho, khen-ngợi người không lấy trộm. Tại sao nay thầy lại làm việc của kẻ giặc ? 

 

          Quở-trách xong, các Tỳ-kheo đưa Đạt-Ny-Ca đến chỗ Phật, trình-bày đầy-đủ sự việc đã xảy ra. Đức Phật nhân đó cho tập hợp các Tỳ-kheo. Trước toàn thể Tăng, Đạt-Ny-Ca thừa nhận việc làm sai trái của mình. Đức Phật nghiêm-khắc quở-trách như trường hợp Tu-Đề-Na . 

 

          Ngày ấy, đứng hầu Phật là vị đại thần nước Ma-Kiệt-Đà đã xuất-gia hành-đạo. Đức Phật hỏi vị Cựu-đại-thần này rằng : 

 

-.  Vua A-Xà-Thế qui định người ăn trộm bao nhiêu thì xử tội tử-hình? 

 

Tỳ-kheo Cựu-đại thần-thưa : 

 

-.  Từ năm tiền trở lên là bị xử tội tử-hình. (Được biết năm tiền thời Vua A-Xà-Thế là khá lớn).  

 

Căn-cứ vào luật lệ nước, đức Phật, trước Tỳ-kheo, và vì lo lợi-ích, răn chế như vầy : 

 

-.  “Nếu Tỳ kheo ăn trộm năm tiền trở lên thì phạm tội cực-trọng không thể sống chung. 

 

Sau khi chế giới này một thời-gian, lúc đức Phật trú-ngụ nơi thành Xá-Vệ. Có số đông Tỳ-kheo bảo rằng: 

 

-.  Đức Phật chế giới cấm lấy vật nơi xóm làng, chứ đâu có cấm lấy vật nơi trống không có sở hữu. 

 

Các Tỳ-kheo khác thì nói : 

 

          -.  Phạm cùng chẳng phạm, chế cấm hay không chế cấm, chẳng sao cả, cứ dụng tâm ăn trộm vật nơi trống không sở hữu, có chủ hay không có chủ thì sự lấy cắp này có can gì đến ai nào. 

 

          Và kiểu ăn cấp theo lối lý-luận này đã xảy ra. Là những con người của điều thiện nên cách ăn trộm theo kiểu cách ấy, tâm các Tỳ-kheo cũng lấy làm ân-hận, xấu-hỗ, đem việc này thố-lộ với Tôn giả A-nan. Tôn-giả trình lên đức Phật và giới điều này được bổ sung một cách rốt ráo hơn.

 

 

*

*       * 

CHO RỒI LẠI ĐÒI

 

Bạt-Nan-Đà và Đạt-Ma là hai thầy trò. Một hôm Thầy bảo trò : 

 

-.  Nay ta muốn cùng ông đi du hành đến nước Câu-Tát-La, ông có muốn cùng đi không ? 

 

Đạt-Ma thưa: 

 

-.  Nước đó lạnh, thiếu y con không thể đi được !  

 

Bạt-Nan-Đà bảo : 

 

-.  Nếu ông có thể cùng đi thì tôi sẽ cho ông y.  

 

Như không tin, Đạt-Ma thưa : 

 

-. Thầy cho y con trước rồi con mới đi. 

 

Bạt-Nan-Đà lấy y đưa cho đệ tử.  Được y của thầy cho rồi, đệ-tử đổi ý không đi cùng thầy. 

 

Bạt-Nan-Đà trách : 

 

-.  Ông bảo có cho y mới đi, nay nhận được y rồi sao không chịu đi ? Nếu không đi thì trả lại y cho tôi. 

 

Đạt-Ma phủ nhận điều kiện, thưa: 

 

-. Thầy đã cho rồi, tại sao đòi lại y là thế nào ? 

 

Bạt-Nan-Đà lập luận như vầy : 

 

          -.  Chẳng phải tôi cho ông nhưng vì  tôi muốn cùng ông đi du hành nên mới cho. Nay ông không đi thì không có lý do gì mà không trả lại y cho tôi. 

 

Thế là Bạt-Nan-Đà cưỡng bức lấy lại y. Đạt-Ma vừa khóc vừa lớn tiếng. Tỳ-kheo Trưởng-lão nghe, hỏi : 

 

-. Tại sao thầy khóc ? 

 

Đạt-Ma thưa : 

 

-. Thầy tôi cưỡng đoạt y của con. 

 

Các Tỳ-kheo trách Bạt-Nan-Đà rằng :  

 

-. Tại sao gọi là Tỳ-kheo lại tướt-đoạt y của kẻ khác ?  

 

Bạt-Nan-Đà trình bày sự việc và kết luận: 

 

-.  Ông ta nhận được y rồi lại không cùng đi, nên tôi lấy lại, chứ không hề cưỡng đoạt.  

 

Các Tỳ-kheo nghe thế lại khiển trách Đạt-Ma : 

 

-.  Tại sao ông dối trá với thầy ông, đòi cho y để đi, được y rồi lại không đi ? ! 

 

          Qua sự việc này, trước Tăng, hai đương sự đã bị chê trách. Đức Phật lại kiết giới và nội-dung của giới này là đã đem cho y dù dưới hình-thức nào đi nữa cũng phép đòi lại. Đức Phật chế giới này tại thành Xá-Vệ. 

 

          Nhìn thấy kẽ hở của điều luật, Tỳ-kheo Lục-quần chơi ngẳng như vầy:  Đem y cho các Tỳ-kheo rồi bảo người khác, Sa-di hay người giữ vườn đoạt lấy lại. Các Tỳ-kheo hỏi Tỳ-kheo Lục-quần :  

 

-. Thầy há không nghe Phật kiết giới cấm làm việc này hay sao ? 

 

Lục-quần nói: 

 

-.  Có nghe chứ !  Nhưng nay tôi bảo Sa-di hay người giữ vườn đoạt lại nên không trái với lời Phật cấm. 

 

Các Tỳ-kheo hỏi Lục-quần : 

 

-.  Tự mình đoạt lại hay chỉ bảo người xúi dục người khác đoạt lại có khác gì đâu ? ! 

 

Qua sự việc này, giới điều được Phật nói bổ sung cụ thể hơn. 

 

          Tuy nhiên có sự việc xảy ra không dừng ở thế chẳng như có trường hợp các Tỳ-kheo gởi y cho Tỳ-kheo sống lây năm tại trú xứ rồi đi bặt, lâu lắm mới trở về. Sợ phạm giới đã cấm trên nên không dám đòi lấy lại. 

 

          Lại có các Tỳ-kheo trên lộ-trình du-hành, đem gởi y cho Tỳ-kheo ở một trú xứ nào đó. Sau một hành-trình dài trở về, sợ phạm điều cấm đã nêu, nên cũng không dám đòi nhận lại y hoặc đã đòi lại rồi lòng lại ray rứt phân vân không biết làm như thế có phạm tội xả đọa ?  (Xoá bỏ rồi mà nhận lấy lại). 

 

          Những vấn đề trên được các Tỳ-kheo bạch lên Phật, được đức Phật khen ngợi hạnh thiểu dục tri túc và làm sáng tỏ vấn đề trên ở trong điều luật bổ sung.

 

* * * * * * * * * * *

CHUYỆN NGƯỜI QUẢN LÝ 

 

          Bấy giờ đức Phật lưu-trú tại thành Vương-Xá. Là kinh-đô nước Ma-Kiệt-Đà thuộc Trung-Ấn.  Đối với Phật-pháp, Vua Bình-Sa rất thâm-tín. Hằng ngày, cứ lần lượt vua thỉnh 500 vị Tăng vào trong cung để thọ trai. Thần dân cũng theo gương ấy cúng dường như vậy. Hồi ấy, chỉ nghĩ đến việc hành-đạo, các Tỳ-kheo không quan-tâm mấy đến việc quản-lý Tăng, cho nên việc sắp xếp theo trên dưới đi thọ trai nơi này hay nơi khác không đặt thành vấn-đề. Đối với Lục-quần Tỳ-kheo đây là cơ hội tốt, sáu vị này luôn luôn có mặt ở chỗ tốt.  Ngày ấy, Lục-quần được mọi người đặt câu hỏi như vầy : 

 

          -.  Chúng con thỉnh Tăng theo thứ tự thọ trai, tại sao các Trưởng-lão thường đến đây mà không thấy các vị khác ? 

 

          Đây là câu hỏi chê khéo Lục-quần không biết tự-trọng, song đối với Lục-quần, biết điều hay không biết điều chả là cái thá gì ! 

 

          Mặc dù còn nhỏ, tuổi đang 14, tuy mới xuất-gia hành-đạo, Đà-Bà, đứa con yêu quý của một gia-đình giàu có tên là lực-sĩ Đà-Ba , nhìn thấy cái cảnh mất trật-tự này trong Tăng chúng như the, nên trong chốn thanh-vắng đã có suy-tư như vầy :  

 

          -.  “Vua Bình-Sa cũng như thần dân, hằng ngày mời 500 thầy theo thứ tự thọ trai, song trong Tăng không có người chuyên trách phân-phối việc thọ trai nên đưa đến tình trạng Lục-quần cứ lựa chỗ tốt mà đến, điều này làm mất đi sự ngưỡng-vọng chung và lệch đi ý nghĩ của người tín-thí.  Nếu đến tuổi 20, ta thọ giới Cụ-Túc, đắc A-la-hán, có được thần thông, sẽ vì Chúng Tăng làm người chỉ định Tăng đi phó-hội và phân-phối tư cụ cho Tăng” 

 

           Y nghĩ sâu kín đầy trách-nhiệm này của Đà-Bà, ngày một hiện-thực: Năm 16 tuổi, Đà-Bà thành-tựu quả A-la-hán, sở-đắc lục thần-thông.  Năm 20 tuổi, thọ Cụ-Túc giới.  Như thế bao điều nguyện trước kia nay đã hội đủ điều-kiện, Đà-Bà đi ngay đến thành Vương-Xá. Trước các Tỳ-kheo, Đà-Bà nói lên lời nguyện từ trước của mình. Vì lời nguyện này, các Tỳ-kheo bạch lên Phật. Đức Phật cho tập hợp các Tỳ-kheo Tăng, hỏi Đà-Bà : 

 

           -.  Thật sự ông muốn vì Tăng làm người sai Tăng đi tham dự hội và phân-phối tư cụ cho Tăng phải không ? 

 

Đà-Bà thưa : 

 

-.  Bạch Thế Tôn thật sự của con là như vậy. 

 

            Đức Phật bằng mọi hình-thức khen-ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, khen-ngợi giới, khen-ngợi người gìn-giữ giới rồi bảo các Tỳ-kheo: 

 

           -.  Nay cho phép Đà-Bà vì Tăng làm người chỉ định Tăng đi tham-dự hội và phân-phối tư cụ ngọa tọa cụ … Tăng nên sai một Tỳ-kheo bạch-nhị Yết-ma để sai. 

 

Trước toàn thể Tăng, lời dạy của đức Phật được thực hiện như sau : 

 

           -.  “Đại-đức Tăng xin lắng nghe !  Tỳ-kheo Đà-Bà này muốn vì Tăng làm người sai Tăng đi tham-dự hội và phân-phối tư cụ. Nếu việc làm này đối với Tăng là thích-hợp, Tăng chấp-thuận thì lời thưa này là lời đề nghị trước Tăng”. 

 

           -.  “Đại-đức Tăng xin lắng nghe ! Tỳ-kheo Đà-Bà này muốn vì Tăng làm người sai Tăng đi tham-dự hội và phân-phối tư cụ cho Tăng. Các Trưởng-lão nào chấp-thuận thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì xin nói lên”. 

 

           -.  “Tăng đã chấp-thuận Tỳ-kheo Đà-Bà làm người sai Tăng đi tham-dự hội và phân-phối tư cụ cho Tăng rồi. Tăng đã đồng ý nên đã im lặng. Việc Yết-ma thành-tựu phải thi hành đúng như vậy”. 

 

          Từ đó, Đà-Bà đủ tư cách pháp-lý sai Tăng, điều phối công việc của Tăng chúng đối với đời sống tu-hành hằng ngày. 

 

           Để nhanh chóng ổn định tổ-chức, Đà-Bà tiến-hành việc phân loại theo hạnh tu của Tăng để sự phân-phối tư cụ không rơi vào lãng-phí cũng như đạt được hiệu-quả cao. 

 

           Chúng thiểu-dục tri-túc _ Chúng Lạc-tịnh _ Chúng Tụng Tu-đa-la (Kinh) _ Chúng Trì-luật _ Chúng Pháp-sư _ Chúng Tán-tụng _ Chúng A-lan-nhã _ Chúng Khất-thực _ Chúng Ngồi-thiền _ v.v… 

 

           Nhờ có óc tổ-chức này mà việc quản-lý điều-hành của Đà-Bà trở thành nền-nếp, kỷ-cương, đặt tăng đúng chỗ, đúng người và cũng chính nhờ thế mà tất cả Tỳ-kheo dù tu theo hạnh-tu nào cũng được an-ổn. 

 

           Đối với các Tỳ-kheo phương xa có việc đến trú xứ của Đà-Bà, dù trời đã tối cũng vội đến người quản-lý này để xin chỗ tạm-trú nghỉ ngơi. Đà-Bà liền nhập Hoa-quang-tam-muội, tay trái phóng ra ánh sáng, tay phải chỉ chỗ ngọa cụ (Chỗ nằm) một cách trung-thực hợp-tình, hợp-lý. 

            Chính sự điều hành màu nhiệm này mà Đà-Bà được đồn vang và mọi người hết sức ngưỡng-mộ con người quản-lý đầy đức-độ ấy. Tính hiếu-kỳ này khiến mọi người đến trú xứ thăm hỏi đức Thế-Tôn càng đông hơn, luôn thể họ được diện-kiến Đà-Bà cũng như để được trông thấy thần-lực của người. Có dạo cứ vào xẩm tối, người phương xa về xin tạm trú rất đông và qua việc sắp xếp nơi ăn chốn ở, họ chứng kiến sự thật về đức độ và cách hành-xử của Đà-Bà. 

           Với thần-lực này, việc sai Tăng của Đà-Bà đi dự-hội bỗng chốc trở-thành dễ-dàng. Tăng đã tuân-thủ sự điều phối đúng người đúng việc, đúng nơi, đúng chốn này một cách triệt để. 

 

           Thế nhưng với việc làm cắt cử Tăng đi dự-hội, Đà-Bà đã bị vu-khống. Sự việc xảy ra như vầy : 

 

           Hồi ấy trong thành Vương-Xá có một Trưởng-giả tên là Thiện-Phạn. Qua nhận thức được các pháp mà ông đắc-quả. Hằng ngày ông đích thân mời hai Tỳ-kheo về nhà cúng-dường bửa ăn thượng vị. Hai Tỳ-kheo Từ và Đọa là hai anh em, tự thân họ là kẻ thiếu phước nên rơi vào cấp bậc thấp. Họ thường nhận sự phân phối tương xứng. Tuy nhiên, ngày ấy bỗng Từ-Đọa được Tăng sai đến nhà Trưởng-giả Thiện-Phạn thọ trai. 

 

           Thiện-Phạn biết được sự cắt cử này của Tăng, ông không mấy vừa lòng, thầm nghĩ như vầy :   “Hai vị này là người ác, không có hạnh thanh-tịnh, tại sao lại được nhận thức ăn thượng vị của Tăng cúng dường ? !”.

          Với ý nghĩ này, Trưởng-giả liền lui về trước và tìm gặp vợ căn dặn rằng :  Hôm nay bà chỉ nên làm thức ăn đơn-giản, đạm-bạc để mời họ mà thôi”. 

 

           Kẻ ăn người ở được lệnh trải tòa phu cụ tiếp-đón anh em Từ-Đọa. Từ lúc huynh-đệ Từ-Đọa đến cho đến lúc trì bát, gia-đình Thiện-Phạn ngồi yên nơi tòa ngồi của mình mặc cho nô-tỳ lo việc dâng cúng thức ăn thô-kém phẩm chất do người vợ Trưởng-giả chế-biến. 

 

Từ-Đọa thấy vậy hỏi : 

 

-.  Này chị em !  Nhà này thường cúng-dường bửa ăn rất ngon, tại sao nay lại cúng thức ăn thô-dở đến thế ? ! 

 

Nô-tỳ thưa :  Tôi là kẻ thấp-hèn, làm sao biết rõ lý-do này ! 

           An xong ra về. Trên đường đi trong lòng Từ-Đọa đầy hậm-hực, định bụng dạy cho Đà-Bà đứa con mất dạy của Lực-Sĩ kia. 

 

Về đến trú-xứ, Từ-Đọa đến ngay các Thượng-Tọa buộc tội Đà-Bà, bảo rằng : 

 

           -.  Đà-Bà con của Lực-Sĩ làm việc theo cảm tính: Yêu, ghét, giận thù, si mê, sợ hãi. Sợ ai thì cho đồ tốt, ai không sợ thì cho đồ xấu. 

 

Các Tỳ-kheo nói : 

 

           -.  Hai thầy chớ nên nói những lời như thế. Tỳ-kheo Đà-Bà nào có tùy tiện vì yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi. Tại sao vậy ?  Bởi lẽ Tỳ-kheo Đà-Bà đã đắc A-la-hán, đầy đủ sáu thần thông mà làm việc theo cảm tính kia là điều không cơ sở. 

 

Từ-Đọa nói : 

 

         -.  Chính vì đắc thần thông nên biết được nhà nào có thức ăn ngon, nhà nào có thức ăn giở. Chỗ nào ngon thì dành cho người khác, chỗ nào giở thì sai chúng tôi đến. Cho nên tôi kết-luận :  Đà-Bà làm việc theo yêu ghét, giận thù, si mê, sợ hãi.   

 

         Mắng như thế vẫn chưa thỏa, sau đó Từ-Đọa đến chỗ nào, việc hàng đầu là rêu-rao nói xấu Đà-Bà. Đến thành Vương-Xá, Từ-Đọa tìm gặp người em gái là ni-cô Di-Đa-La. Trông thấy hai anh đến, ni-cô ra nghinh đón, đảnh lễ hỏi chào nhưng anh em Từ-Đọa lặng thinh không nói một lời. Trước sự biến đổi này, Di-Đa-La thưa : 

 

         -.  Em không nhớ, em có phạm điều chi, tại sao hai anh có thái độ thế này ! 

 

Từ-Đọa trả lời : 

 

          -  Tại em không giúp hai anh nên khiến cho Đà-Bà làm khổ hai anh như vậy ! 

 

Di-Đa-La hỏi  : 

 

-.  Hai anh muốn em trợ giúp bằng cách nào ?  

 

Từ-Đọa bảo : 

 

            -.  Em hãy giúp hai anh bằng cách đến chỗ đức Phật thưa rằng : “Kính bạch đức Thế-Tôn, con từ trong chỗ không có lo sợ, hốt hoảng xoay lại bị sự khủng-bố, sợ hãi. Nay con không còn chỗ nào để tìm được sự an-ổn !  Đà-Bà vốn được cho là người phạm-hạnh thì giờ đây đến xúc-phạm làm hoan-ố con, phạm Ba-la-di”. 

 

Di-Đa-La nói : 

 

           -.  Đà-Bà thanh-tịnh, nếu em huỷ-báng người thì ắt Tăng sẽ tác-pháp Tự-ngôn, đuổi em. Em đã xuất-gia, cần phải có chỗ để nương tựa. 

 

Từ-Đọa nói : 

 

-.  Hai anh sẽ làm chứng cho em để Đà-Bà bị đuổi, làm gì có chuyện em bị tác-pháp Tự-ngôn để đuổi em. 

 

Di-Đa-La nói : 

 

-.  Nếu Tăng đuổi Đà-Bà thì Tăng có thêm được cái gì nữa đâu ? 

 

Hai anh em Từ và Đọa nói : 

 

          -.  Điều cần thiết là làm cho Thế-Tôn ruồng-bỏ Đà-Bà.  Há lẽ Đà-Bà bị đuôi đi làm cho em khổ sở hay sao ?   Hai anh cần tự-do, cần có hình-ảnh tốt-đẹp để được sống an-lành với trú-xứ. 

 

           Với lẽ như thế, ni-cô Di-Đa-La im lặng, không dám trái mạng và để làm vừa lòng hai ông anh của mình, Di-Đa-La đến trước đức Phật tố-cáo Đà-Bà với lời lẽ như trên. 

 

           Khi ấy, Đà-Bà và La-Hầu-La đang đứng hầu hai bên đức Phật, Đức Phật hỏi Đà-Bà : 

 

-. Ông có nghe Di-Đa-La nói điều gì không ? 

 

-.  Bạch Thế-Tôn, con có nghe nhưng việc đó Thế-Tôn đã tự biết rõ rồi. Đà Bà đáp lời. 

 

Ba lần đức Phật hỏi như vậy và ba lần Đà-Bà cũng trả lời đúng như vậy. 

 

Trước sự việc như thế, La-Hầu-La bạch Phật : 

 

-.  Bạch đức Thế-Tôn, phiền gì phải ba lần hỏi Đà-Bà, chỉ cần tẫn-xuất cô-ni là xong. 

 

Đức Phật lại hỏi :  

 

-.  Nếu Di-Đa-La sử dụng thủ thuật này để phỉ-báng La-Hầu-La thì La-Hầu-La phải xử-trí ra sao đây ? 

 

La-Hầu-La thưa : 

 

-.  Con sẽ nói việc này Phật tự biết cho con. 

 

Đức Phật dạy : 

 

-.  Ông có thể làm như thế, song đối với Đà-Bà lại cũng nói như vậy được sao ? 

 

Đức Phật xoay sang Đà-Bà dạy : 

 

          -.  Ông nên đứng lên tự làm sáng tỏ vấn-đề, nay không phải là lúc ông im lặng. Ong cần vận-dụng ký-ức của mình, có thì nói có, không thì nói không, không được tránh né nói :  “Phật tự biết điều này”. 

 

Đà-Bà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục rồi quỳ gối chấp tay thưa : 

 

          -.  Kính bạch đức Thế-Tôn, từ khi con sinh ra đến nay, kể cả trong mộng con cũng chưa hề có khái-niệm về việc này. Tại sao, nay với sự việc như thế lại có được trong trí nhớ của con ? 

 

Đức Phật khen Đà-Bà :  

 

           -.  Lành thay !  Hay thay !  Ông đã quả quyết tự biện minh được vấn đề.  Người muốn tự biện minh phải nói lên được như vậy.  

 

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo : 

 

           -.  Nên trao cho Đà-Bà Ức-Niệm Tỳ-Ny, không nên nêu tội, phải bạch tứ Yết-ma trao cho Di-Đa-La pháp Tự-ngôn đuổi ra khỏi Tăng chúng. (Tội danh tự nói ra lời vu khống huỷ báng người khác hoàn toàn sai sự thật) 

 

           Thi hành lời dạy này, trước Tăng một Tỳ-kheo dỏng dạc đọc lên Yết-ma sau đây để lấy biểu quyết tẫn xuất cô-ny. 

 

           -.  “Đại-đức Tăng xin lắng nghe !  Tỳ-kheo-ni Di-Đa-La nầy đã tự nói lời vu khống Đà-Bà làm ô-nhiễm cô ta. Nay Tăng trao cho Tỳ-kheo-ni này pháp Tự-ngôn diệt-tẫn. Nếu bây giờ, việc này là thích-hợp đối với Tăng, Tăng chấp-thuận thì lời thưa này là lời đề nghị trước Tăng”. 

 

          -.  “Đại-đức Tăng xin lắng nghe !  Tỳ-kheo-ni Di-Đa-La này tự nói lời vu-khống Đà-Bà làm ô-nhiễm cô ta. Nay Tăng trao cho Di-Đa-La pháp tự-ngôn diệt-tẫn. Các trưởng-lão nào chấp-thuận thì im lặng, nếu không đồng ý thì xin cho ý kiến. (Lời này được đọc lại lần thứ hai, lần thứ ba). 

 

           Tăng đã đồng ý trao cho Tỳ-kheo-ni Di-Đa-La pháp Tự-ngôn diệt-tẫn rồi. Tăng đồng ý nên im lặng. Vậy Yết-ma thành, việc thi hành phải nghiêm-túc thực-hiện. 

 

           Tỳ-kheo-ni Di-Đa-La sau khi bị diệt-tẫn, lang-thang lê bước giữa nhân-gian đa-sự này. Còn về phía hai người anh Từ và Đoạ thì vẫn ngoan cố đỗ trách sự việc ấy xảy ra là do Đà-Bà con Lực-Sĩ phá hoại phạm-hạnh em gái của hai ông ta. Trước giọng điệu phỉ-báng này, các Tỳ-kheo bạch Phật. Đức Phật nhân đó cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng. Ngài bảo các Tỳ-kheo : 

 

         -.  Các thầy phải phối kiểm lại, hỏi Từ-Đọa :  Ông nói Đà-Bà phá-hoại phạm-hạnh của em ông là thật hay là hư cấu đặt điều ? 

 

Các Tỳ-kheo làm theo lời chỉ giáo hỏi thẳng Từ-Đọa vấn-đề. Từ-Đọa trả lời : 

 

-.  Điều tôi nói là sự thật. 

 

Tăng lại hỏi :  

 

  -.  Ông thấy khi nào ?  Thấy chỗ nào ?   Thấy trong trường hợp nào ? 

 

Từ-Đọa trả lời : 

 

-. Tôi thấy chỗ đó,tôi thấy khi đó, tôi thấy như vậy ? 

 

Tăng liền hỏi Đà-Bà : 

 

-.  Khi ấy thấy ở chỗ nào ? 

 

Đà-Bà liền đáp : 

 

-. Lúc ấy tôi ở chỗ kia. 

 

Tăng lại dồn-dập hỏi Từ-Đọa : 

 

          -.  Địa-điểm không tương-ứng, thời-gian không tương-ứng. Tại sao ông nói là chỗ đó, lúc đó, thấy như vậy ?  

 

Tăng lại đem lời thức-tỉnh Từ-Đọa : 

 

          -.  Nếu đối trước một Tỳ-kheo có lòng tin kiên-cố mà nói láo thì tội nặng như giết hại vô-số chúng-sanh. Còn nếu đối trước một vị mà chánh-pháp của vị này rất kiên-cố, đem lời nói láo với vị này thì tội nặng gấp 100 vị có lòng tin kiên-cố. Như vậy, đối với trước Tăng mà cứ lần lữa nói dối  thì tội này của ông nặng gấp 100 vị A-la-hán.  

 

Tăng lại vặn hỏi Từ-Đọa : 

 

          -.  Nay Tăng quy tụ về hội-họp không tuỳ thuộc yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi thì điều này ông bảo là sự thật hay là hư dối ? 

 

Từ-Đọa nói : 

 

           -   Đà-Bà làm theo yêu ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi nên tôi phải nói Đà-Bà như vậy. 

 

          Các Tỳ-kheo bằng lời lẽ sắc-bén, nghiêm-khắc quở-trách rồi cùng đưa Từ-Đọa đến chỗ đức Phật trình-bày lên Ngài sự việc đã làm rõ. 

 

Trước toàn thể Tăng, Từ-Đọa thú-nhận tội-lỗi của mình. Đức Phật lại quở-trách : 

 

          -.  Hai ông là kẻ ngu-si, tại sao lại dùng sự việc không căn cứ thuộc Ba-la-di để huỷ-báng Tỳ-kheo phạm-hạnh, thanh-tịnh ?  Các ông há không nghe về ba hạng ngừơi đọa vào địa-ngục sao ?  Đó là :  

 

          -  Một là người phạm giới, không có pháp Sa-môn mà tự-nhận mình có, không tu phạm-hạnh mà tự nói mình tu. Với hạng người này là loại giặt trong Phật-pháp. 

 

          -.  Hai là hạng người hành-động như vậy, thấy như vậy lại bảo rằng dâm-dục không phải là điều xấu rồi làm việc phóng-dật. 

 

          -.  Ba là hạng người dùng vô-căn cứ Ba-la-di huỷ-báng vị Tỳ-kheo thanh-tịnh, phạm-hạnh. 

 

-.  Ba hạng người chắc-chắn đọa vào địa-ngục. Tại sao, nay ông lại làm việc ác này ? ! 

 

Sau khi quở-trách và vì 10 điều lợi cho Tăng chúng, đức Phật kiết giới nghiêm cấm việc này.

 

* * * * * * * * * * *

CUỘC ĐỜI CỦA TỲ KHEO NI LIÊN HOA SẮC 

 

          Áp-Ưu-Thiện-Na là một ấp ven thành Xá-Vệ. Đức Phật đang lưu-trú tại thành này. Trong ấp có một cư-sĩ ở tuổi thiếu-niên, trên đường du-lịch vui chơi gặp một người con gái tên là Liên-Hoa-Sắc, sắc đẹp mơn-mỡn như hoa đào, dáng vẻ cực kỳ xinh đẹp. Hợp tình hợp tánh, yêu nhau thắm-thiết trở-thành vợ chồng xứng đôi vừa lứa nhất thiên-hạ. Sau thời-gian ngắn người vợ mang thai. Gần ngày sanh, cô ta về lại nhà cha mẹ mình. Ơ đây cô sanh một bé gái. 

 

          Vì người vợ nằm nơi nên người chồng không thể gần gũi được. Anh ta lại vụng-trộm tư-thông với mẹ vợ của mình … Liên-Hoa-Sắc biết được muốn vất bỏ tất cả, cắt đứt đại vợ chồng nhưng lại sợ liên-lụy đến cha mẹ, hơn nữa vì thương con nên phải ôm sầu, nuốt hận chịu tuổi nhục để nuôi con nhằm che mờ cái điều khốn nạn kia … 

 

          Về lại nhà chồng, cúi đầu nuôi con được một thời gian 8 năm rồi bỏ nhà ra đi để lại đứa con lên 8. Đến được thành Ba-La-Nại trong sự đói khát lã người, Liên-Hoa-Sắc ngồi nghỉ bên mé nước. Trong lúc ấy, có ông Trưởng-giả nọ du ngoạn qua đây, trông thấy Liên-Hoa, ông ta say-đắm đem lòng sủng-ái và ngõ lời hỏi thăm : 

 

-.  Cô ở đâu, dòng họ cha mẹ cô thế nào? Hiện nay cô có bị ai ràng buộc không? Hay độc thân ? 

 

Liên-Hoa-Sắc đáp lời : 

 

-.  Tôi là đứa con gái thuộc dòng họ … nay tôi không thuộc sở-hữu của ai. 

 

Ông Trưởng-giả ngõ lời : 

 

-.  Nếu không thuộc sở-hữu của ai thì có thể vì tôi làm chánh-thất được không? 

 

Liên-Hoa-Sắc nói : 

 

-.  Người con gái lấy chồng tại sao không được !  

 

          Ông Trưởng-giả liền đưa cô ta lên xe trở về nhà rồi tấn-phong làm vợ cả. Liên-Hoa-Sắc sắp đặt chu-toàn mọi việc trong nhà. Từ lớn đến nhỏ hòa-thuận, sung-túc, vợ chồng tương-kính, nặng nghĩa lẫn nhau. Sau 8 năm, bây giờ ông Trưởng-giả nói với vợ rằng : 

 

          -.  Tôi có đầu tư vốn tại ấp Ưu-Thiện-Na, theo sổ sách, kiểm tra số nợ lãi 8 năm qua, thống-kê cho đến nay lãi sanh từ vốn ấy lên đến con số cả ức. Hôm nay tôi muốn đến đó thu nợ lãi về, chúng ta tạm thời xa nhau, chắc em đồng ý chứ ? 

 

Người vợ nói :

 

          -.  Phong tục tại ấp đó người nữ thích phóng-dật, anh đến đó coi chừng bị mất tiết tháo của người trượng-phu. Của cải như phân, đất sao lại bận lòng tính toán làm chi ! ? 

 

Người chồng trả lời : 

 

-.  Tôi tuy biết rõ nhược-điểm của mình nhưng không đến nổi bị cám-dỗ, mê-loạn. 

 

Người vợ lại nói : 

 

-.  Nếu anh quyết-định cần phải đi thì nên suy nghĩ kỹ và cho em nghe một lời thề. 

 

Người chồng nói : 

 

          -.  Tốt lắm, anh thề rằng :  “Nếu anh có mông-tâm yêu thương nhăn nhít thì khi anh trở về anh sẽ chết với tà tâm đó ngay tại cửa ngõ”. 

 

          Với lời thề như thế, người chồng đến ấp Ưu-Thiện-Na. Vì phải thu lãi nhiều nơi nên thời-gian kéo dài đến cả năm. Xa nhà càng lâu ngày, nhớ nhà càng gấp bội, cái thiếu tình lại sanh nọ, kia, muốn tìm của lạ nhất là tiền bạc dư-giả mua tiên cũng được. Trưởng-giả nảy ra ý nghĩ :  Ta nên giải-quyết thế nào để không đi ngược lời thề với vợ mà vẫn thỏa tình hiện nay ? T rưởng-giả lại tính :  Nếu ta tà-dâm thì trái lời thề với vợ, thôi thì tạo một nhà riêng là êm chuyện khỏi kẹt vào lời thề. Thế là ông ta lân la dò tìm cái của riêng ấy. Gặp một người con gái dung-nhan tao-nhã, dịu-dàng, nét người đoan chánh toát ra một sức hấp-dẫn lạ kỳ. Ong ta đem lòng yêu-thương cô bé này một cách say-đắm. Ong thẳng tiến tìm đến nhà cầu-hôn. 

 

          Cha người con gái thấy ông Trưởng-giả tiền tài loang-loáng lại rất hào-phóng. Vớ được người giàu-sụ như thế, người cha hoan-hỷ nhận lời cầu-hôn của Trưởng-giả. Cô gái bây giờ trở thành người vợ trẻ của kẻ học-phú. Thu nợ xong, ông Trưởng-giả cùng với người vợ trẻ quay về cố-quốc. Ong đưa người vợ đến an-nhàn ở trong một tổ-ấm riêng biệt. Em ấm đâu đấy ông mới về nhà cũ. Coi như chẳng có gì xảy ra. Từ đó, sáng đi, chiều về, khác hẳn với ngày trước. Liên-Hoa-Sắc cảm nhận được sự bất thường, âm-thầm cô ta theo dõi rồi hỏi người tuỳ tùng của chồng. Người ấy bảo rằng :  

 

-.  Ngoài ấy có một thiếu phụ nên mới đi về như vậy. 

 

Chiều hôm đó, người chồng về, Liên-Hoa-Sắc hỏi thẳng vấn-đề : 

 

-.  Anh đã có người hầu sao lại giấu em, không cho em thấy ? !       

 

Ông Trưởng-giả thú nhận : 

 

-.  Sợ em biết sự thật lại hận anh, nên phải giấu ngoài ấy. 

 

Người vợ nói : 

 

          -.   Em không ghen ghét hiềm hận đâu !  Thần minh chứng-giám cho em điều này, anh nên gọi cô ấy về để cùng em lo liệu việc nhà. 

 

          Nghe lời vợ, Trưởng-giả đưa cô em về nhà và cô em ấy không ai khác chính là con của Liên-Hoa-Sắc. Mẹ con gặp nhau mà không hề hay biết. 

 

           Thời-gian sau, nhân lúc gội đầu, để ý kỷ tướng mạo, Liên-Hoa-Sắc mới nghi là con gái mình, bà ta khéo-léo hỏi rõ lý-lịch và thiếu-phụ trả lời cặn-kẽ về cha mẹ, dòng tộc, làng xã của mình. Thế là vỡ lẽ! Liên-Hoa-Sắc kinh-hoàng nói : 

 

          -.  Xưa kia mẹ và con đồng một chồng !  Nay con với mẹ cùng một chàng rể !  Sanh-tử mê-loạn đến nổi này ư ? !  Nếu không đoạn ái-dục, xuất-gia học đạo thì sự điên-đảo, mê-hoặc này làm sao chấm-dứt được ? !  Liên-Hoa-Sắc liền vất bỏ tất cả ra đi và lần lữa đến cửa Kỳ-Hoàn trong sự đói khát, mệt lả. Bà ta ngồi tựa vào gốc cây. 

 

          Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn giữa một rừng người vây quanh để nghe Ngài thuyết-pháp. Liên-Hoa-Sắc thấy hàng hàng, lớp lớp người vào ra tấp-nập, nghĩ bụng tiết hội chắc có thức ăn, bèn đi lần vào tịnh-xá. Thì ra Thế-Tôn đang thuyết-pháp trước số đông người đang lắng nghe. Liên-Hoa-Sắc lắng nghe pháp và lãnh-hội được vấn-đề và sự đói-khát ngay lúc ấy cũng xua tan đâu mất. Bấy giờ, Thế-Tôn quan-sát khắp hội chúng xem ai có thể độ được. Ngài thấy rõ chỉ có Liên-Hoa-Sắc là người sẽ đắc đạo quả, nên liền nói pháp bốn chân đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Từ nơi chỗ ngồi LiênHoa-Sắc rũ bỏ được mọi trần cấu, sở đắc con mắt pháp thanh-tịnh. Khi đắc quả rồi, Liên-Hoa-Sắc một lòng chấp tay đứng hướng về đức Phật. 

 

          Đức Phật nói pháp xong, hội chúng ra về.  Liên-Hoa-Sắc đến trước đức Phật, kính lễ sát chân Ngài, quỳ gối, chấp tay bạch Phật : 

 

-.  Con xin nguyện được làm xuất-gia trong chánh-pháp của đức Phật. 

 

Đức Phật chấp nhận rồi bảo Tỳ-kheo-ni Ba-Xà-Ba-Đề: 

 

-.  Này Tỳ-kheo-ni, nên độ người nữ này tu-tập hành-đạo. 

 

          Ma-Ha Ba-Xà-Ba-Đề vâng lời dạy liền độ cho xuất-gia thọ giới. Liên-Hoa-Sắc siêng-năng tinh-tấn hành-đạo, dẫn đến thành bậc La-Hán. 

 

           Sau khi thành La-Hán, nhờ thú vui trong các cảnh thiền giải-thoát, nên dung-nhan, tướng mạo Liên-Hoa-Sắc càng sáng rỡ bội phần hơn trước. 

 

           Ngày ấy vào giờ trì bát, Liên-Hoa-Sắc vào thành khất-thực. Một người Bà-la-môn trông thấy, ông ta đắm-say ngay sắc đẹp của Liên-Hoa. Ý tưởng ông nghĩ như vầy: Đây là Tỳ-kheo-ni, ta không thể chiếm-đoạt ngay được mà phải khôn khéo tìm cách tiếp-cận rồi dồn vào thế có thể hành sự được… 

 

          Khất-thực xong, Liên-Hoa sắc trở về vườn An-Đà rồi vào trú phòng của mình. Người Bà-la-môn kia theo sau khi theo dõi, nắm vững chổ ở và nếp sống của Liên-Hoa. Hôm sau, khi đến giờ khất-thực, lợi-dụng lúc vắng vẻ không người, ông ta đột nhập phòng Liên-Hoa qua ngã sau rồi chui xuống gầm giường nằm yên đợi chờ. Suốt ngày ấy các Tỳ-kheo-ni tập-trung nghe pháp và nghe xong thời pháp thì trời đã tối. Về đến phòng, vì mỏi mệt nên Liên-Hoa Sắc đặt mình xuống là thiếp đi. Ngay lúc ấy, người Bà-la-môn dưới gầm giường bò ra làm chuyện bất-tịnh. Tỳ-kheo-ni Liên-Hoa liền thức dậy rồi vụt bay lên hư-không. Còn đối với người Bà-la-môn thì ngay trên giường ông đã bị đọa thẳng vào địa-ngục. Liên-Hoa-Sắc nhân đó bay đến chỗ đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân Ngài rồi bạch lên Phật vấn-đề vừa xảy ra. 

 

Đức Phật hỏi : 

 

-.  Vào lúc ấy tâm người thế nào ? 

 

Liên-Hoa-Sắc thưa : 

 

-.  Lúc ấy như lưới sắt nung đỏ rực áp vào thân con. 

 

Đức Phật dạy : 

 

-.  Như thế là vô tội. 

 

Liên-Hoa-Sắc lại bạch Phật : 

 

-.  Ngủ một mình có phạm tội hay không ? 

 

Đức Phật dạy : 

 

-.  Người đắc-đạo thì không phạm. 

 

          Vào thời-gian ấy, có bọn giặc tập-trung tại một địa-điểm rồi thảo luận như vầy: Vật dụng mà chúng ta đoạt được nên trao đổi như thế này để có thức ăn ngon và gái đẹp. Đa số bọn chúng đều đồng ý rằng: Vườn An-Đà kia là trú-xứ của Tỳ-kheo-ni, chắc-chắn có sắc đẹp và cũng sẽ có nhiều thức ăn ngon cung cấp cho ta, ta đến đó phân chia trao-đổi vật dụng, đương nhiên chúng ta sẽ được như ý muốn. Trong lúc ấy, tên cầm đầu bọn giặc lại có lòng kính-tin Phật-pháp, nghe nói như vậy, lấy làm lo-lắng, trong ý tưởng ông ta có liên-hệ như vầy: Bọn chúng chắc sẽ đến gây náo-loạn các Tỳ-kheo-ni. Ta nên âm-thầm cho người đến báo trước. Tên cầm đầu giặc liền thực hiện việc mật báo và mật báo được các Tỳ-kheo-ni nhận được với lời cảnh báo như vầy :  “Tối nay sẽ có bọn người ác đến đây khủng-bố, ắt sẽ sanh náo-loạn, Chư-ni nên đi tránh để có được sự an-toàn”. 

 

          Trong thành Xá-Vệ có một nơi dành riêng cho Tỳ-kheo Tăng trạm-trú, ngôi nhà này do một đại-thần phát-tâm xây-dựng để cúng-dường. Ngày hôm ấy không có Tăng trạm-trú ở đây, nhân đó, các Tỳ-kheo-ni, sau khi được mật báo đã vội vã về đây lúc xế chiều và trạm-trú ngụ tại ngôi nhà này. 

 

          Tối hôm ấy, bọn giặc đến vườn An-Đà, chúng chẳng tìm thấy một ai cả. Trước sự thất-vọng của bọn giặc, vị chủ tướng lại vui-mừng, tâm-niệm rằng: Chư Ty- kheo-ni đã thoát được cảnh sĩ-nhục, không gì vui bằng, ta nên làm việc cúng dường: Chư tướng lấy một xấp vải rất tốt rồi gói đầy đủ đồ ăn, thức ăn uống thuộc loại cao sang mỹ vị rồi treo lên nhánh cây với tâm-niệm rằng: Nếu Tỳ-kheo-ni nào đắc đạo Thần thông thì đến lấy gói thức ăn này của tôi. 

 

          Tâm-niệm này liền được cảm-ứng, Tỳ-kheo-ni Liên-Hoa-Sắc nhanh như cánh tay có duỗi của lực-sĩ, từ thành Xá-Vệ đến vườn An-Đà lấy gói thức ăn trên nhánh cây. 

 

          Sáng hôm sau, đến giờ ăn, thay vì ăn, Liên-Hoa-Sắc thiết dọn rồi mời hai Trưởng-lão Ưu-Bà-Tư-Na và Bạt-Nan-Đà đến cúng-dường. Hai vị nhận sự cúng-dường này và sau khi thọ thực, hai vị tiếp-nhận nước rửa tay và nước uống. Liên-Hoa-Sắc, trước chúng Tăng ngồi trên chiếc ghế nhỏ thỉnh-cầu nhị vị Trưởng-lão thuyết-pháp. Trưởng-lão Ưu-Bà-Tư-Na nói diệu-pháp xong liền đứng dậy ra về còn Bạt-Nan-Đà nán lại, hỏi Liên-Hoa-Sắc rằng :  

 

-.  Sư-cô được thức ăn  hảo-hạng này từ đâu ? 

 

Liên-Hoa-Sắc trình-bày lại sự việc từ đầu đến cuối như đã xảy ra. 

 

Bạt-Nan-Đà nói : 

 

-.  Có thể cho tôi xem tấm vải ấy được không ? 

 

           Yêu cầu này được thỏa-mãn và Bạt-Nan-Đà nhìn thấy xấp vải giá-trị kia thì lòng-tham nổi-dậy, muốn trưng dụng nên nài-nỉ xin cho được. 

 

Liên-Hoa-Sắc nói : 

 

-.  Điều này không thể được, tại sao vậy ?   Bởi nhẻ người nữ phước mỏng nên cần phải sắm giữ 5 y. 

 

Bạt-Nan-Đà nói : 

 

          -.  Như người đem voi, ngựa bố thí mà lại không cho dây cương, sư-cô cũng như vậy :  Tại sao cúng-dường thức ăn mỹ vị cao sang thì được mà lại tiếc chi một tấm vải không cho là sao? 

 

          Bạt-Nan-Đà bằng tài ăn nói của mình đã tìm cách thuyết-phục cho kỳ được. Trong thế chẳng đặng đừng, Liên-Hoa-Sắc phải trao cho tấm vải giá trị này. 

 

Được tấm vải này rồi, Bạt-Nan-Đà trở về lại trú-xứ. Các Tỳ-kheo thấy tấm vải đẹp nói : 

 

-.  Thầy là người phước đức nên mới được tấm vải tốt này. 

 

Bạt-Nan-Đà nói : 

 

-.  Tôi đâu có phước đức gì, tôi năn-nỉ muốn gãy cả lưỡi, Tỳ-kheo-ni mới cho đó ! 

 

          Các Tỳ-kheo nghe thế liền quở-trách :  Tại sao thầy lại cưỡng-bức bằng lời nói để thu đoạt vải y của Ty- kheo-ni ? 

 

          Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn không muốn 4 Chúng tới lui ồn-ào nên bảo các Tỳ-kheo : Nay Ta muốn vào tịnh-thất ba tháng, đừng để ai đến chỗ Ta đang trú, chỉ trừ Tỳ-kheo đem cơm. Các thầy nên lập ra qui-định này. 

 

          Vâng lời Phật dạy, các Tỳ-kheo lập ra định-chế ghi rõ như vầy : 

 

          -.  “ Từ nay không ai được đến chỗ Phật ở, chỉ trừ Tỳ-kheo đem cơm. Nếu người nào vi phạm, phạm Ba-Dật-Đề”. 

 

          Qui-chế này Trưởng-lão Ưu-Bà-Tư-Na không hay biết, sau khi đến thành Xá-Vệ , hỏi Tỳ-kheo khác để biết đức Phật ở phòng nào. Theo chỉ dẫn của Tỳ-kheo này, Ưu-Bà-Tư-Na đến trước cửa phòng Phật đưa tay gõ cửa. Đức Phật mở cửa. Ưu-Bà-Tư-Na kính lễ sát chân Phật rồi ngồi lui ra một bên. Đức Phật hỏi Ưu-Bà-Tư-Na : 

 

-.  Chúng của thầy thanh-tịnh rất mực oai-nghi, thầy giáo-hóa cách nào mà được như vậy ? 

 

Tỳ-kheo ấy thưa : 

 

          -.  Nếu có người nào đến con cầu xin xuất-gia thì con dạy họ 12 hạnh Đầu-đà. Con bảo họ: Phải trọn đời làm Tỳ-kheo  ở A-Lan-Nhã, khất, nhất tọa thực, nhất chủng thực, nhất thọ thực, tuần tự khất-thực, ở nơi gò mả, mặc y phấn-tảo, ba y, phụ toạ tuỳ thân, ngồi dưới gốc cây, ngồi chỗ đất trống. Kính bạch đức Thế Tôn ! Nếu người nào nói trọn-đời có thể phụng-hành pháp này thì mới vào Chúng của con, con làm thầy họ. 

 

Đức Phật khen : 

 

-.   Hay lắm !  Hay lắm !  Như vậy, có thể gọi thầy là hạng người khéo giáo-dục đồ chúng.  

 

Đức Phật lại hỏi : 

 

-.  Thầy có biết trong chúng Tăng ở đây có đề ra qui-chế gì hay không ? 

 

Vị ấy thưa : 

 

          Con không hay biết việc này. Vì sao thế ?  Vì con từng nghe Phật dạy :  “ Những gì Phật chưa chế không được tự ý lập ra, những gì Phật đã qui-định nên trân-trọng làm theo”. 

 

Đức Phật nói lại qui-chế trên cho thầy này nghe. Vị này lại thưa : 

 

-.  Con không tuỳ theo qui-chế của Tăng mà sám-hối tội Ba-dật-đề được. 

 

Đức Phật dạy : 

 

-.  Hay lắm  !   Thầy nhận xét như thế là đúng ! 

 

Trong lúc đó, Tỳ-kheo sống lâu năm ở đây đứng trước phòng, chờ Ưu-Bà-Tư-Na đi ra rồi bảo : 

 

-.  Thầy phạm qui-chế của Tăng, nên tác-pháp sám Ba-dật-đề. 

 

Vị ấy trả lời : 

 

-.  Tôi phạm Ba-dật-đề nào vậy ? 

 

Các Tỳ-kheo trình-bày đầy đủ nội-dung qui-chế trên. Vị ấy trả lời : 

 

          -.  Tôi không thể thực-hiện theo qui-chế của Tăng để sám-hối được ! Tại sao thế !  Bởi chính tôi nghe Phật dạy :  nếu Phật không chế cấm thì Tăng không được phép chế cấm. Nếu Phật đã chế rồi Tăng không được trái phạm. 

 

Lúc ấy, đức Phật bước ra nói với các Tỳ-kheo : 

 

-.  Từ nay nếu có Tỳ-kheo A-Lan-Nhã nào như Ưu-Bà-Tư-Na thì cho phép đến chỗ Ta. 

 

Các Tỳ-kheo ghi-nhận lời dạy lại có ý nghĩ :  

 

          -.  Chúng ta nên trân-trọng tu theo hạnh Đầu-đà này để đến được chỗ đức Thế-Tôn. Thế là các Tỳ-kheo đua nhau tu hạnh Đầu-đà … 

 

          Bấy giờ, các cư-sĩ xây dựng các phòng-xá để cúng-dường nhưng chẳng có Tỳ-kheo nào nhận sự cúng-dường này. Vấn-đề này được các Tỳ-kheo Trưởng-lão bạch lên Phật. Đức Phật dạy các Tỳ-kheo : 

 

-.  Từ nay cho phép 4 Chúng tự-do đến thăm Ta.  

 

          Tỳ-kheo-ni Ba-Xà-Ba-Đề nghe Phật cho phép như vậy liền cùng 500 Tỳ-kheo lên đường về thăm đức Phật. Trên đường đi gặp Trưởng-lão Ưu-Bà-Tư-Na. Trong chúng của Ưu-Bà-Tư-Na có một Tỳ-kheo mặc y thô rách, thấy vậy Ba-Xà-Ba-Đề hỏi : 

 

-  Tại sao Trưởng-lão mặc chiếc rách nát như vậy ? 

 

Vị ấy trả lời : 

 

-.  Chẳng còn chiếc nào khác nữa ! 

 

Tỳ-kheo-ni chỉ vào chiếc y mình đang mặc, nói : 

 

-  Thầy có thể mặc chiếc y của con không ? 

 

Trưởng-lão đáp : 

 

-.  Có thể được. 

 

Ba-Xà-Ba-Đề lại hỏi : 

 

-.  Trưởng lão có thể cho con chiếc y mà Ngài đang mặc không ? 

 

Có thể. Trưởng-lão đáp. 

 

Hai bên trao đổi y cho nhau. 

 

Khi đến trước đức Phật, Tỳ-kheo-ni Ba-Xà-Ba-Đề đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi lui ra một bên. 

 

Đức Phật hỏi Cù-Đàm-Di : 

 

-.  Tại sao cô mặc chiếc y rách bươm như thế ? 

 

Cù-Đàm-Di trình bày sự việc như trên. Đức Phật nói pháp cho Cù-Đàm-Di nghe rồi, bảo về trở lại trú xứ. 

 

          Sau đó, đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo Tăng và trước Tăng và sau khi được vị Tăng kia xác nhận việc trao đổi y kia là sự thật, đức Phật quở-trách vị này là thiếu sáng-suốt nhiều ham-muốn. Nhân đó sự việc của Bạt-Nan-Đà được bạch lên Phật và Bạt-Nan-Đà cũng thú-nhận sự thật này. Phật quở-trách và chế cấm như vầy: 

 

          -.  Tỳ-kheo nào nhận lấy y từ Tỳ-kheo-ni phạm Ny-Tát-Kỳ-Ba-dật-đề . 

 

          Tuy nhiên về sau Tỳ-kheo-ni bà con với Tỳ-kheo thì Phật cho phép nhận y trao cho mà không phạm điều chế cấm trên.

 

+ + + + + + + + + + +

LẠI CHUYỆN TỪ-ĐỌA 

 

Chuyện này xảy ra lúc đức Phật lưu-trú tại thành Vương-Xá. 

 

          Tỳ-kheo Đà-Bà là bậc thần thông có oai-đức lớn nên nhiều người đến thăm viếng, nghe pháp là chuyện bình thường. Trong số người này, có Tỳ-kheo ny Thâu-La-Nan-Đà. Ngày ấy trong cùng một trú-xứ, cô-ny ngồi nghe pháp. Đôi ba phen Từ-Đọa nhìn thấy chuyện này và rồi lòng sẵn ôm-hận, Từ-Đọa tìm cách xuyên tạc phỉ báng … 

 

          Bữa nọ, từ trên núi Kỳ-Xà-Quật đi xuống, nhìn thấy hình ảnh hai con khỉ đang làm trò khỉ, Từ-Đọa đắc ý gán-ghép ngay cho Đà-Bà là con khỉ đực và Thâu-La-Nan-Đà là con khỉ cái.  Và hình-ảnh này đã ghim chặt vào lòng ông, biến nó trở thành sự thật, ông nói với các Tỳ-kheo Trưởng-lão rằng :  

 

          -.  “Trước đây tôi vận dụng pháp thiếu cơ-sở để huỷ-báng Đà-Bà, nay thì không như thế, chính tôi nhìn thấy Đà-Bà cùng với ny Thâu-La-Nan-Đà làm hạnh bất-tịnh. 

 

          Các Tỳ-kheo đem vấn-đề này bạch lên đức Phật.  Đức Phật cho tập-hợp Tỳ-kheo Tăng để kiểm vấn. Trước Tăng, Từ-Đọa thẳn-thắng nhìn-nhận như vầy :  

 

          -.  “Thật sự tôi không thấy Đà-Bà làm chuyện bất-tịnh. Thấy Thâu-La-Nan-Đà thường lui tới chỗ Đà-Bà, vì muốn phỉ-báng cho hả giận nên mượn hình-ảnh hai con khỉ giao-hợp mà tôi thấy khi trên núi Kỳ-Xà-Quật đi xuống để liên-hệ rằng: Con khỉ đực là Đà-Bà và con khỉ cái là Thâu-La-Nan-Đà rồi biến gà ra cuốc mà qui-kết rằng: Chính tôi thấy hai người làm hạnh bất-tịnh mà thôi. 

 

          Từ hội đồng Tăng cho đến lên đức Phật, Từ-Đọa bị sự quở-trách nặng-nềvà sau cùng đức Phật đã răn cấm như vầy : 

 

          -.  “Tỳ-kheo nào, tự-thân không như pháp vì giận-dữ, ác-ý mượn một sự kiện tách biệt dùng lấy một khía cạnh nhỏ hay một khía cạnh tương tự của vấn-đề rồi qui-kết Ba-la-di để phỉ-báng Tỳ-kheo không phạm Ba-la-di nhằm phá hoại phạm-hạnh của vị kia. Thời-gian sau, Tỳ-kheo này, hoặc có người chất-vấn hoặc không có người chất-vấn, tự-thú rằng: Việc này vì tôi giận-hờn nên mượn lấy một sự kiện méo mó để liên-hệ qui-kết nhằm phỉ-báng kẻ khác thì phạm Tăng-Già bà-thi-sa”.

 

 

* * * * * * * * * *

ĐỪNG LÀM THẾ 

 

          Đừng làm thế nhưng vẫn làm !  Và đối với Tỳ-kheo Lục-quần lại nên làm thế để rút ra một bài học cho ta và cho bạn đồng tu. 

 

          Vào buổi sáng sớm hôm ấy, Tỳ-kheo Bạt-Nan-Đà đắp y mang bát đến nhà cư sĩ và đây là chỗ ông ta thường lui tới. Nhà vắng chồng người vợ ra đón tiếp. Vì chỗ thân tình, nhà sư tự nhiên trải Ni-Sư-Đàn (Vật dụng trải ngồi của Tỳ-kheo) nơi chỗ vắng vẻ có che khuất rồi cùng với bà ta ngồi chuyện vãn với một thứ ngôn ngữ thô, dâm gợi dục. 

 

          Là một cư-sĩ đầy tâm huyết với đạo, Tỳ-Xá-Khư-Lộc-Tử-Mẫu, qua nhiều nguồn thông tin khác nhau, hôm ấy, đâu đó, bà đã nghe được những lời chuyển vãn của Bạt-Nan-Đà với người nữ kia. Bà có suy nghĩ : 

 

          -.  Nếu người chồng về bắt gặp cảnh này chắc sanh tâm xấu đối với tăng Chúng, cũng như sẽ nhận chìm Bạt-Nan-Đà vào chỗ ô nhục, đen tối và khổ não. 

 

          Sau đó bà liền bảo người Bà-la-môn tên Na-Lân-Già là người bà thường sai đến cúng dường Phật khi Ngài lưu-trú tại thành Xá-Vệ, rằng :  

 

          -.  Ngươi đến chỗ đức Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân Ngài rồi trình-bày rõ sự việc này. 

 

          Như thế là Phật nắm được sự việc song trước các Tỳ-kheo Ngài vẫn hỏi Bạt-Nan-Đà về sự việc xảy ra kia là đúng sự thật hay không ? 

 

Bạt-Nan-Đà thưa : 

 

-.  Thật sự xảy ra chuyện như vậy. 

 

          Đức Phật nghiêm-khắc quở-trách Bạt-Nan-Đà và Ngài căn cứ vào sự việc đã xảy ra để chế giới ngăn chận, không luận người tu thuộc không-gian thời-gian nào

 

 

+ + + + + + + + + + + +

ĐƯỢC CƠ HỘI, LỤC QUẦN LỢI DỤNG NGAY 

 

          Hồi ấy, chúng Tăng trong thành Xá-Vệ nhận được nhiều tơ sợi của Phật-tử đem đến cúng. Các Tỳ-kheo được phân chia tơ để tuỳ nghi sử dụng. Các vị thuê dệt để may y Tăng-Già-Lê, Ưu-đa-la tăng hay y An-đà-hội cũng như làm dây lưng, dây ngồi thiền cho đến dây cột cửa mà vẫn không hết tơ. Lục-quần Tỳ-kheo sau khi thuê dệt may một y vẫn còn dôi ra một số tơ, chỗ dư này lại lỡ cỡ dệt thêm một chiếc chiếu thì không đủ. Lục-quần lại đi xin thêm tơ. Trưởng-giả, Cư-sĩ hoan hỷ cho. Thấy việc xin dễ dàng mà có lợi tốt như thế nên “Nhất dạ sanh bách kế”, Tỳ-kheo Lục-quần liền có ý nghĩ chuyển đổi nghề, rằng :  “Từ nay ta chỉ nên làm theo nghề này”. 

 

          Lục-quần ra sức đi xin thật nhiều tơ rồi thuê thợ dệt khắp nơi dệt cho hết số tơ quá nhiều kia. Thợ dệt khắp thành bận hợp đồng với Lục-quần nên từ chối không nhận dệt cho khách hàng. Có một Cư-sĩ cần vải đến khắp xưởng dệt đều không nơi nào nhận dệt vì kẹt phải hợp đồng với Tỳ-kheo Lục-quần. Ưc  quá nói cho hả dạ, người Cư-sĩ kia chưỡi đổng : 

 

          -.  Sa-môn Thích-tử, tự xưng là ít ham muốn, biết lúc vừa đủ, nay lại đi khắp, thuê tất cả thợ dệt, ham hố, bao nhiêu cũng không vừa, lòng tham lợi của họ đâu có khác gì với kẻ chợ?! Họ không có hạnh Sa-môn, quá pháp Sa-môn ! 

 

          Việc này, sau đó được Phật chế giới cấm hành động phi pháp này trước Tăng chúng.

 

* * * *  * * * * * * *

CƯỠNG ĐOẠT Y 

      Trong thành Xá-Vệ, có một Trưởng-giả rất thích mặc các loại áo sang-trọng. Ong ta có lòng tin-kính Phật-pháp một cách thuần-thành, mỗi khi đức Phật lưu-trú ở thành này thì ông thường đến nghe pháp. Hôm ấy, ông Trưởng-giả mặc trong, ngoài hai sắc áo tốt cùng với các vị khách và tuỳ-tùng ra ngoài thành đến viếng thăm đức Thế-Tôn và các Tỳ-kheo. Đức Phật vì họ nói pháp, họ lấy làm hoan-hỷ vì được nghe Phật chỉ dạy những điều lợi-ích. Họ đảnh lễ Phật rồi ra về. 

 

          Ra khỏi trú-xứ của Phật họ gặp ngay Bạt-Nan-Đà. Bạt-Nan-Đà lại vì họ thuyết-pháp và trước khi ra về họ ngỏ lời mời : 

 

-. Ngày mai mời Trưởng-lão đến nhà thọ một bữa cơm đạm-bạc. 

 

Bạt-Nan-Đà nói : 

 

          -.  Tôi không thiếu ăn mà lại khổ vì thiếu mặc. Trưởng-giả có thể cho bớt tôi chiếc áo hiện ông đang mặc không ? 

 

Ông Trưởng-giả nói : 

 

-.  Sẽ cúng cho Ngài nhưng bây giờ thì không thể được, về nhà tôi sẽ tính liệu sau. 

 

Bạt-Nan-Đà bảo : 

 

-.  Tôi nghe Trưởng-giả rất vui làm việc bố-thí, tại sao riêng đối với tôi lại thiếu tích-cực như thế ?  

 

Bạt-Nan-Đà lại tác động :  

 

          -.  Tôi nói pháp khiến ông có thể xa lìa sanh, lão, bệnh, tử, ưu-sầu khổ-não để làm công việc cứu-độ mà xả bỏ tất cả, bản thân không mưu cầu điều gì. Ay thế, nay ông lại keo-kiết chiếc áo này mà không chịu bố thí ? ! 

 

Nghe phải, ông Trưởng-giả liền cởi áo cho Bạt-Nan-Đà … 

 

Tưởng chẳng ai để ý đến mình, không ngờ lúc trở về đến cửa thành, người giữ cửa hỏi Trưởng-giả : 

 

          -.  Lúc ra đi ông mặc hai lớp áo rất đẹp, sao về lại bay đi đâu mất hết một áo, vì người đẹp mà cởi áo cho hay bị ai đó tước đoạt ? 

 

Ông Trưởng-giả nói : 

 

          -.   không cho người đẹp nào cả, cũng không bị ai cướp-giật, mà lại bị Sa-môn Thích-tử cưỡng-bức xin cho bằng được, tôi đành cởi cho. 

 

Người canh cửa nói :    

 

          -.  Ông đừng nói như vậy !  Tôi nghe Sa-môn Thích-tử ít ham-muốn, biết vừa đủ đối với sự sống, có người cho còn không muốn nhận huống lại cưỡng-bức xin vật của người sao ? ! 

 

          Ông Trưởng-giả kể lại sự cưỡng-bức xin áo kia cho người giữ cửa nghe. Đối với người có lòng đố kỵ với Phật-pháp, nghe thế liền lớn tiếng miệt-thị :   

 

          -.  Đây chính là loại cướp-đoạt, những ai gần gũi họ cũng sẽ bị trấn-lột như thế. Đích thị bọn Sa-môn Thích-tử, miệng thường khen việt bố-thí, chê việc không cho mà lấy, nay cưỡng-đoạt lấy y vật của người thì họ đâu có khác gì bọn cướp ? 

 

          Ông Trưởng-giả về đến nhà cũng phân-trần với người nhà lý do chiếc áo cho kia. 

 

          Sự vệc này lọt đến tai các Trưởng-lão Tỳ-kheo . Các vị này quở-trách Bạt-Nan-Đà rồi đưa Bạt-Nan-Đà đến chỗ Phật, bạch lên Ngài sự việc trên. 

 

          Đức Phật cho tập hợp Tăng, trước Tăng và Phật, Bạt-Nan-Đà thú-nhận sự thật đã hành-động.   Đức Phật nghiêm-khắc quở-trách Bạt-Nan-Đà và Ngài đã chế giới cấm việc làm này. 

 

Song các sự việc xảy ra sau đây dẫn-đến Phật kiết giới bổ sung. 

 

Lúc bấy giờ có nhiều Tỳ-kheo mặc y xấu tệ, rách-rưới, các người bà con thấy vậy hỏi : 

 

-.  Tại sao thầy lại mặc loại y vứt đi như thế này ?  Hãy đến con cúng cho y khác. 

 

Các Tỳ-kheo bảo :  

 

          -.  Đức Phật không cho chúng tôi đến nam, nữ Phật-tử xin y . Nếu đem cúng cho Tăng rồi tôi nhận y từ Tăng thì được. 

 

Các người bà con nói : 

 

-.  Con chỉ muốn cúng cho thầy, chứ không muốn cúng cho Tăng vì sợ vị khác nhận được. 

 

Các Tỳ-kheo nói : 

 

          -.  Nếu đức Phật cho phép chúng tôi đến nam, nữ Phật-tử bà con mình xin y thì đâu đến nổi chúng tôi phải mặc y rách rưới như thế này ! 

 

          Các người bà con thưa : 

 

          -.  Trong chỗ bà con với nhau thì biết lúc nào nên nhận và không nên nhận, xin thầy bạch lên đức Phật việc này. 

 

          Đức Phật khi nắm được việc này Ngài kiết giới bổ sung xem việc đến bà con thân-tộc xin y là một ngoại lệ Tỳ-kheo được phép. 

 

Chưa hết lại xảy ra chuyện cắt cớ như vầy : 

 

          -.  Lúc ấy có nhiều Tỳ-kheo đi theo đoàn khách buôn để về Kỳ-Hoàn song lại lạc đường, Tỳ-kheo bị bọn cướp đoạt sạch sẽ y, bát, đành mình trần thân trụi đến thành Xá-Vệ. Người đi đường cứ ngỡ Tỳ-kheo cãi đạo theo đạo lõa-hình, vặn hỏi mới biết sự thể nghiệt ngã như thế. 

 

Khi đến Kỳ-Hoàn, các Tỳ-kheo ở đây sợ sư giả cũng vặn hỏi rồi trắc-nghiệm hư thật : 

 

Nếu các ông là Tỳ-kheo thì thọ-giới, Bố-tát, Tự-tứ phải như thế nào ? 

 

Lại trả lời : 

 

-.  Thọ-giới như vậy !  Bố-tát như vậy !  Tự-tứ như vậy. 

 

Dù biết không phải giả sư song các Tỳ-kheo ở Kỳ-Hoàn vẫn không đưa y cho mặc. 

 

Các Tỳ-kheo phương xa kia đành cứ theo đạo lõa-hình mà đến chỗ Phật sở. Đức Phật quở-trách : 

 

          -.  Tại sao các ông lõa-hình đến thăm Như-Lai ! ?  Đến nổi nào các ông không thể lấy lá cây hay cỏ để tạm che thân được hay sao?  Đức Phật bảo các Tỳ-kheo :  Từ nay lõa-hình đến thăm Như-Lai là phạm tội Đột-Kiết-La. 

 

Các Tỳ-kheo bạch Phật : 

 

          -.  Ngài không cho phép chúng con đến nam, nữ Phật-tử chẳng phải bà con xin y, trong khi đó bà con của chúng con ở cách đây rất xa thì làm sao có y để mặc trong trường hợp bị nạn cướp này ? 

 

Đức Phật lại hỏi : 

 

-.  Các thầy đã đến nơi ở của Tỳ-kheo cựu trú chưa ? 

 

          Thưa Ngài đã đến rồi, đã bị chất-vấn trắc-nghiệm đủ điều.  Song biết rõ chúng con bị nạn, Tỳ-kheo cựu-trú vẫn không cho y để mặc.

 

          Đức Phật nghiêm-khắc quở-trách Tỳ-kheo cựu-trú và khen-ngợi các Tỳ-kheo bị nạn.  Ngài kiết giới bổ sung. Tức là gặp phải nạn bị cướp y, bị mất, bị cháy, bị nước cuốn trôi, bị rách thì Tỳ-kheo có thể đến nam, nữ Phật-tử để xin y để mặc.

 

 

*

*      * 

ĐUỔI RA KHỎI ẤP

 

          Lúc bấy giờ nơi ấp Kiết-La, là một ấp ven thành Xá-Vệ có hai Tỳ-kheo, một người tên là An-Bệ, người thứ hai tên là Phân-Na-Bà làm nhiều việc xấu không đúng tư-cách của người xuất-gia, như đến nhà ai thì làm cho người ta mang tiếng xấu, hành động không đúng oai-nghi, như tự kết tràng hoa đeo lên mình hay chỉ người kết tràng hoa để họ đeo lên người. Cùng với người nữ ngồi một giường, ăn một mâm, ăn thịt, uống rượu, ca múa, đờn hát. Lại giả làm âm-thanh các loài chim, giả làm chim đá nhau. Khi thì bài bạc, khi thì đi ngã nghiêng như người say, khi thì cười hi hí, khi thì ném bắt, chỉ tay nheo mắt, làm các trò hề để treo ghẹo người nữ … Thân, Khẩu, Ý của họ hiện hành những việc xấu như thế và như thế là phá giới, phá kiến, phá oai nghi chánh mạng … Giữa lúc đó, có 500 Tỳ-kheo oai-nghi hoàn-hảo từ nước Ca-Di đến ấp này. Đến giờ khất thực chia nhau vào thôn khất thực. Thấy các nhà sư, các cư-sĩ cay đắng thốt lên lời này :  

 

          -.  Các Tỳ-kheo này từ đâu đến? Sao lại cuối đầu làm thinh giống như hiếu-tử, không biết mở miệng giao-tiếp với mọi người. Ơ ấp chúng ta đã sẳn có hai người hiền Tỳ-kheo đủ tài, lắm nghề, khéo làm đẹp lòng người, đâu có phiền gì để hạng người này ở lại ấp của ta. Dứt khoát không cho họ thức ăn để họ mang bát không mà về. 

 

          Vào thời điểm ấy, Xá-Lợi-Phất, Mục-Kiền-Liên cũng trên đường từ Ca-Di  đến ấp này. Hay tin này bọn An-Bệ lo lắng suy nghĩ :  

 

          -.  Hai vị này đến đây ắt phải  nghe việc làm ác nổi tiếng của chúng ta mà cắt đứt sự cúng-dường của chúng ta.  

 

Thế là bọn họ đến nói với các cư-sĩ : 

 

          -.  Không bao lâu nữa sẽ có hai Tỳ-kheo đến ấp mình. Một vị tên là Mục-Kiền-Liên rất có tài huyễn-thuật, biến-hóa, hiển hiện đủ mọi hình thức.  Còn vị kia tên là Xá-Lợi-Phất rất giỏi chú pháp, xảo-ngôn, khéo mê hoặc thiên-hạ.  Các Phật-tử nên cẩn thận đừng bị mê hoặc!  Chúng tôi sẽ ở lại đây. Nếu yêu cầu chánh-đáng này không đạt được thì chúng tôi sẽ ra đi. 

 

Các cư-sĩ nói : 

 

-.  Quí Trưởng-lão cứ an tâm, chúng con sẽ không bao giờ bị họ mê hoặc. 

 

          Ngày đến ấp, hai vị Mục-Kiền-Liên và Xá-Lợi-Phất được các cư-sĩ già, trẻ, lớn, nhỏ đều ra nghinh-đón, chào hỏi, cung-kính đảnh-lễ rồi họ ngồi sang một bên. 

 

          Nhân lúc ấy, Mục-Kiền-Liên hiện thần biến-hóa, chia thân ra làm trăm ngàn rồi hiệp lại làm một.  Đi xuyên qua vách tường, đi trên nước như đi trên đất, ngồi nằm trên hư-không như chim bay liệng, thân đến Phạm-Thiên, tay sờ mặt trời, mặt trăng, phần trên thân tuôn ra lửa, phần dưới thân tuôn ra nước, phần trên thân tuôn ra nước, phần dưới thân tuôn ra lửa, hoặc hiện nửa thân, hoặc hiện toàn thân, vọt ra nơi phương Đông, lặn nơi phương Tây, vọt ra nơi phương Tây, lặn nơi phương Đông, vọt ra nơi phương Nam, lặn nơi phương Bắc, vọt ra nơi phương Bắc, lặn nơi phương Nam, vọt ra nơi chính giữa, lặn mất vào một bên, vọt ra nơi một bên, lặn mất vào chính giữa.  Hiện thân biến hóa rồi, Mục-Kiền-Liên trở lại ngồi chỗ cũ. 

 

Lúc bấy giờ các cư-sĩ đều trầm trồ với nhau rằng :  

 

-.  Mục-Kiền-Liên huyễn-thuật quá tài tình, sự thật này là sự thật của mắt thấy tai nghe. 

 

          Đến phiên Xá-Lợi-Phất nói diệu-pháp thì suốt bài pháp Tôn-giả thuyết-giảng không chỗ nào là không dễ hiểu, không nói lên được ý nghĩa thiện pháp vị thiện và đầy đủ hình-ảnh trong sáng phạm hạnh. Sau khi thuyết pháp, Tôn-giả ngồi trong tư thế thiền định. Về phía các cư-sĩ thì họ lại tấm tắc khen ngợi :  

 

          -.  Xá-Lợi-Phất quả có tài nói pháp. Tuy nhiên, sự thật dù là vậy, mọi người vẫn không tin nhận, không trân trọng cúng dường. 

 

          May thay trong ấp này có hai Ưu-bà-tắc tên là Phú-Xà và Ưu-Lâu-Già, đối với Phật-pháp có lòng tin thuần-thục, mến-mộ. Họ nhận thức được pháp vi diệu và đắc sở quả, tâm họ rất hoan-hỷ trong việc bố-thí, cúng-dường. Nghe tin Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên đến ấp, cả hai cùng đến nghinh đón, họ đảnh lễ sát chân hai Tôn-giả. Hai vị đã vị họ nói diệu pháp, nghe pháp họ rất vui mừng vì điều lợi-ích họ được hướng dẫn. Sau khi nghe pháp, hai cư-sĩ thưa với Ngài Xá-Lợi-Phất : 

 

            -.  Trong ấp này có hai Tỳ-kheo, qua nhiều sự việc mà cả hai hành động không còn gì là tư cách của một vị Tăng. Họ dẫn chứng những sự việc như đã xảy ra.  

 

Tiếp đó họ thưa : 

 

          -.  Thưa nhị vị, gần đây có 500 Tỳ-kheo, rất mực oai-nghi vào trong thôn khất thực, do ảnh hưởng xấu kia mà 500 vị đành phải ôm bát về không. Cúi xin nhị vị Đại đức đem việc này bạch lên Phật. 

 

Hai vị ghi-nhận rồi tiếp tục nói diệu pháp. Hai cư-sĩ rất vui mừng vì lại nhận thêm được lợi-ích thiện. 

 

          Bấy giờ Phật đang lưu-trú tại thành Xá-Vệ. Trở về lại đây, hai vị Tôn-giả bạch lên Phật vấn đề đã xảy ra ở ấp Kiết-La. 

 

Do sự việc này, đức Phật cho tập hợp Tỳ-kheo tăng, bảo A-Nan : 

 

-.  Ông đến ấp Kiết-La trao cho hai Tỳ-kheo ấy pháp Yết-ma khu-xuất (đuổi ra khỏi ấp). 

 

A-Nan bạch Phật : 

 

          -.  Hai Tỳ-kheo ác kiến kia chẳng phải Sa-môn. Tự nhận là Sa-môn, thường làm điều bất-tịnh, tâm họ đã bại-hoại đến thế, nếu một mình con đến, chắc chắn với tâm ác tột cùng ấy, hai ông tha hồ sĩ-nhục, quậy-phá, náo-loạn con ! 

 

          Đức Phật nói với A-Nan : 

 

          -.  Đúng vậy !  Đúng vậy !  Nhận xét của ông là sự thật. Nay ông có thể cùng  một số Tỳ-kheo, nhiều ít tuỳ ý ông, đến ấp Kiết-La , trước tập hợp chúng, sau đó mới cử tội nhóm An-Bệ, bạch tứ Yết-ma, đuổi họ ra khỏi ấp. 

 

          Vâng theo lời dạy, Tôn-giả A-nan cùng đi với 500 Tỳ-kheo đến ấp Kiết-La. Đến nơi các cư-sĩ ra đón chào, kính-lễ, họ tác lễ sát chân Tỳ-kheo rồi cùng ngồi lui qua một bên … 

 

          Tôn-giả A-nan thực hiện đúng lời Phật dạy. Bạch tứ Yết-ma đuổi hai Tỳ-kheo kia ra khỏi ấp song họ lại gay gắt phản ứng không chấp nhận Yết-ma đuổi đi, họ trả lời các Tỳ-kheo vặn hỏi họ, rằng : 

 

          -.  A-nan đã tuỳ-tiện hành-xử theo cảm tính thương ghét, giận hờn, si mê, sợ hãi, cho nên không đi. Vì sao vậy ?  Vì có Tỳ-kheo đồng tội như thế mà có người bị đuổi, có người không bị đuổi. A-Nan thiên vị ác ý. 

 

Các Tỳ-kheo nghiêm-khắc nói : 

 

          -.  Hai ông không nên có lời thiếu lễ độ đối với A-Nan như vậy. A-Nan làm việc theo lời của Phật của Tăng. Các thầy hãy xét lại tự thân, có phải các thầy đã hành-xử theo hành vi xấu ác, các thầy đã làm cho nhà người ta xấu xa. Hành vi xấu ác mọi người đều nghe thấy, biết rõ, hành-vi làm nhơ-nhớp nhà người ai cũng đều hay biết, chán ngấy. Các thầy nên ra khỏi nơi đây không nên lì mặt ở lại. 

 

          Các Tỳ-kheo đem lời phân-giải, chỉ trích như vậy song nhóm An-Bệ vẫn ngoa- cố không chấp-nhận Yết-ma Khu-xuất, không bỏ đi. 

 

          Đức Phật khi nhận được lời bạch của Tăng về kết quả này đều khuyến cáo Tăng bằng mọi cách can-gián, phân-gián hoặc qua đường bạn bè thân thiết, qua nhiều Tỳ-kheo hay tập thể Tăng. Việc này đã không kết quả nên Phật đã chế giới. Về sau tội phạm như thế là tội Tăng-gia-bà-sa.

 

*+*+*+*+*+*+

GIẶC THÁNG TÁM 

 

          Bây giờ là tháng tám, tháng của bọn giặc tế trời. Họ thường rình rập bắt người giết để tế. Cho nên tháng này trở thành nổi khiếp sợ của nhân dân và các Tỳ-kheo. Không ai là không đề phòng và cẩn thận việc đi lại, làm ăn. 

 

Đã gần đến ngày tế, nhưng chưa bắt được ai, bọn giặc cùng họp lại bàn bạc như vầy :  

 

          -.  Ở A-Lan-Nhã có Tỳ-kheo, bắt họ không khó. 

 

          Thế là bọn giặc tiến đến một A-Lan-Nhã nọ. Nghe được thông tin này, các Tỳ-kheo, ai nấy đều tìm cách lẫn tránh. Bọn giặc bị thất bại, họ lại bàn với nhau :  

 

          -. Ta sẽ đến nơi khác, ngày tế sắp đến rồi, không được trể nãi, biếng nhác. 

 

Trong bọn có một người tu xuất, khi ấy, nói với đồng bọn rằng : 

 

          -.  Tôi được biết đức Phật dạy không cho phép Tỳ-kheo rời y một đêm, chúng ta phải phục sẵn quanh đây, chắc mờ sáng họ phải quay về thôi. 

 

Cả bọn nói : 

 

          -.  Nếu họ không về thì sẽ giết ngươi. Nếu người không bị ân hận, hối tiếc, thì bọn tao ở lại đây mai phục. 

 

Người ấy trả lời : 

 

-.  Tốt lắm, tôi xin thế mạng. 

 

Được cam kết như vậy, bọn giặc bố trí, rình rập. 

 

          Đối với Tỳ-kheo, lời Phật dạy luôn tuân thủ. Cho nên để khỏi phạm tội rời y ngủ thì phải về A-Lan-Nhã lúc mặt trời chưa xuất hiện và lúc gà gáy sáng, các Tỳ-kheo rời nơi ẩn-náu quay về trú-xứ. Rơi vào ổ phục-kích của bọn giặc. Bọn giặc liền bảo : 

 

-.  Các ông tưởng bọn tôi đã đi rồi phải không ? 

 

Các Tỳ-kheo trả lời : 

 

          -.  Chúng tôi biết các ông còn ở lại, nhưng đức Phật không cho phép chúng tôi lìa y ngủ, cho nên rơi đúng vào ý đồ của các ông. 

 

          Bọn giặc liền bắt giết ngay, cần máu thì lấy máu, cần thịt thì lấy thịt. Thế là bọn giặc có được vật phẩm để tế trời. 

 

Các Tỳ-kheo tránh được cuộc tàn sát này đã có suy nghĩ : 

 

          -.  Nếu đức Thế Tôn cho phép chúng ta khi chưa hết các ngày của tháng tám được gởi một loại y nào nơi nhà Cư-sĩ trong phạm-vi cương giới thì đâu có gặp phải tại nạn khủng khiếp này. 

 

          Như vậy giới điều rời y ngủ không phạm như thế nào được Phật chế định và sau đó được bổ sung để trở-thành hoàn-chỉnh. Giới điều này được Phật chế định tại thành Xá-Vệ.

 

*

*      *

HẬU QUẢ CỦA MỘT CÁCH HÀNH XỬ 

 

          Lúc bấy giờ đức Phật lưu-trú tại thành Vương-Xá. Vương-Xá có một vị đại-thần rất trọng Bạt-Nan-Đà. Ngày ấy vị Đại-thần này sai người hầu việc mang một số tiền may y đến cúng cho Bạt-Nan-Đà. Người hầu cận đem lời vị Đại-thần thưa với Bạt-Nan-Đà : 

 

          -.  Bạch Ngài, vị Đại-thần tên đó có lời thăm hỏi sức khỏe Ngài và xin cúng Ngài một số tiền may y. Xin Đại-đức nhận cho số tiền này. 

 

Bạt-Nan-Đà nói : 

 

           -.  Tôi không được phép nhận số tiền may y này, nếu được tịnh y thì có thể nhận để mặc. 

 

Sứ-giả hỏi : 

 

           -.  Đại-đức có người chấp sự trước ? 

 

Vâng, người chấp-sự của tôi hiện ở nơi kia. Bạt-Nan-Đà chỉ chỗ. 

 

Đến người chấp-sự, cận-thần sứ-giả kia thưa :

 

          -.  Đại-thần (tên đó), cho tôi đem số tiền may y này cúng Ngài Bạt-Nan-Đà, ông là người chấp-sự của Ngài, nhận giữ cho số tiền này khi nào Ngài Bạt-Nan-Đà đến lấy thì trao cho Ngài. 

 

Người chấp-sự nhận tiền, sau đó người hầu-cận quay lại chỗ Bạt-Nan-Đà thưa : 

 

          -.  Người chấp-sự của Ngài đã nhận tiền rồi, khi nào Đại-đức cần y thì đến đó lấy.  

 

Người cận-thần sứ-giả ra về. Sau một thời gian lại sai người đến hỏi Bạt-Nan-Đà : 

 

           -.  Gần đây tôi có sai người đem tiền may y đến gởi nơi người chấp-sự của Ngài.  Đại-đức đã sử dụng để may y đắp mặc chưa ? 

 

Bạt-Nan-Đà nói : 

 

          -.  Tôi chưa lấy y ở người chấp-sự để sử-dụng. 

 

Sau khi người hầu-cận về cho biết như thế, Đại-thần có suy-nghĩ : 

 

          -.  Ta thực-hiện đúng cách cúng y sao đã lâu rồi chưa thấy nhận để mặc, chắc y của ta không đáng giá nên Bạt-Nan-Đà không buồn nhận mặc ?! 

 

Đại-thần sai người hầu-cận quay trở lại, nói với Bạt-Nan-Đà như vầy : 

 

          -.  Đại-thần cúng y lâu rồi, sao không thấy Ngài mặc ?  Nếu không cần thì xin trả lại cho Đại-thần. 

 

Bạt-Nan-Đà đáp lời :  

 

          -.  Xin lỗi vậy !  Tôi rất cần y. 

 

Sau đó Bạt-Nan-Đà  vội đến chỗ người chấp-sự không đúng lúc, yêu cầu : 

 

           -.  Nay tôi cần y, có thể cho tôi nhận. 

 

Người chấp-sự thưa :  

 

          -.  Xin Ngài chờ cho, ngay lúc này tôi phải tham-dự buổi họp cùng với mọi người, không thể đến trể, đến họp trể sẽ bị phạt 500 tiền theo qui-định. 

 

Bạt-Nan-Đà nói : 

 

          -.  Đối với việc đạo pháp, ông thường vui-vẻ hết lòng sốt-sắng, tại sao nay lại coi trong việc thế-tục ? 

 

Nghe lời này, lòng tự-trọng như bị tổn-thương, người chấp-sự liền có suy nghĩ :  

 

           -.  “Dù có bị phạt vẫn phải giao y cho xong rồi mới đến họp”. 

 

Người chấp-sự tất bật xử lý nhanh-chóng để có y để giao song cũng mất quá nhiều thời gian. 

 

Giao xong đến họp bị mọi người chất-vấn ngay : 

 

            -.  Tại sao đến họp trể thế ! 

 

Tình thật người chấp-sự nói : 

 

           -.  Bạt-Nan-Đà đến đòi nhận y, tôi phải lo liệu giao cho xong, nên đến họp trể như thế này ! 

 

Mọi người đều nói : 

 

          -.  Coi trọng một Tỳ-kheo mà xem nhẹ qui-chế của nhiều người, theo điều-ước, không thể tha-thứ, phải nộp phạt vậy. 

 

Đương sự nộp phạt rồi, nổi-giận nói : 

 

          -.  Sa-môn Thích-tử tự nhận có đạo lý, làm lợi-ích cho mọi người, nay ngược lại, Sa-môn đã làm cho ta bị phạt. 

 

Người không có lòng tin kính Phật-pháp lại đồng tình nói : 

 

           -.  Ông kính tin Sa-môn để đến nổi bị phạt nặng như vậy, nếu lại cứ gần gũi nữa sẽ bị phạt nặng hơn nữa. 

 

          Người thành Xá-Vệ hầu như  nghe biết việc không mấy tốt đẹp này. Các Tỳ-kheo Trưởng-lão lại càng nắm vững vấn-đề hơn và đã nghiêm-khắc quở-trách Bạt-Nan-Đà. Sau đó vấn đề được nêu lên giữa Phật và Tăng chúng. Bạt-Nan-Đà đã xác nhận sự thật. Đức Phật lại quở-trách và Ngài kiết giới hướng dẫn cách thức đến người chấp-sự nhận y một cách cụ thể tránh việc không hay đã xảy ra.

 

* * * * * * * * * * *

HÓA CỎ THÀNH VÀNG 

 

          Bây giờ đức Thế-Tôn lưu-trú tại thành Vương-Xá. Đệ-tử của Ngài là Tất-Lăng-Già-Ba-Ta hiện sống tại núi Lăng-Cầu-La. Ngày ấy Tất-Lăng làm công việc vệ-sinh phòng ốc bằng cách bay lên cao rồi dội nước xuống để rửa sạch. Vào lúc ấy Vua Bình-Sa dạo đến núi này. Trong thấy Vua đến chỗ mình lập tức trở về lại mặt đất đến trước Vua, ngõ lời chào :  

 

-.  Lành thay đại vương mới đến! Xin mời Vua tạm ngồi vào nơi này. 

 

Ngồi xuống chỗ ngồi rồi, Vua hỏi : 

 

          -.  Ngài phải tự làm lụng như vậy sao ?  Không có người nào giúp việc à ? ! 

 

-.  Chẳng có ai cả. Tất Lăng Già Ba Ta đáp lời.  

 

Thấy hoàn-cảnh “neo đơn” như thế, nhà vua liền ra lệnh cho một vị cận-thần : 

 

-.  Nên cung cấp người giúp việc cho Tỳ-kheo này. 

 

Tất-Lăng-Già-Ba-Ta nghe thế, can rằng : 

 

-.  Đức Phật không cho phép chúng tôi nuôi người giúp việc. 

 

Nhà Vua bảo : 

 

-. Nên bạch đức Phật việc này. 

 

          Sau khi về lại cung, nhà vua đến thăm Phật và hỏi Tỳ-kheo có được phép nuôi người giúp việc không ?  Sau đó, nhân việc này, đức Phật tập-hợp Tỳ-kheo Tăng. Ngài khen hạnh thiểu-dục tri-túc, khen giới, khen người gìn giữ giới rồi, Ngài bảo các Tỳ-kheo : 

 

-.  Từ nay Ta cho phép các Tỳ-kheo nuôi người giữ vườn (giúp việc). 

          Được đức Thế-Tôn cho phép, vua Bình-Sa ra lệnh cho vị đại-thần điều người đến giúp Tỳ-kheo Tất-Lăng-Già-Ba-Ta nhưng vì không ưa gì Phật-pháp vị đại-thần không mấy sốt sắng, không buồn vội cung-cấp người theo lệnh Vua. Bởi thế, Tất-Lăng-Già-Ba-Ta trước sau gì cũng chỉ có Tất-Lăng-Già-Ba-Ta. Bẵng đi một thời gian, Tất-Lăng-Già-Ba-Ta đắp y, trì bát vào thành khất-thực. Như không hẹn mà gặp, nhà Vua và quần-thần từ lầu cao vọng nhìn thấy Tất-Lăng-Già-Ba-Ta … nhà Vua liền sực nhớ, tự hỏi :  

 

          -.   Không rõ trước đây ta hứa cung-cấp người giúp việc cho Tỳ-kheo Tất-Lăng, việc này đã thực-hiện chưa ? 

 

Nhà Vua liền hỏi vị đại-thần lúc trước đã nhận lệnh. Vị đại thần tâu : 

 

-.  Chưa cấp, thưa đại-vương. 

 

Nhà Vua lại hỏi : 

 

-.  Lệnh của ta đến nay được bao nhiêu ngày rồi ? 

 

Vị thần ấy tâu : 

 

-.  Đã 500 ngày, thưa đại-vương. 

 

Nhà Vua bảo vị đại-thần : 

 

-. Tuỳ theo số ngày này mà cung cấp người giúp việc cho Tỳ-kheo Tất-Lăng-Già-Ba-Ta. 

 

          Vị đại-thần này rờ gáy, liền lệnh lấy người giúp việc từ 500 nhà, mỗi nhà một người đến trú-xứ Tất-Lăng-Già-Ba-Ta để lau quét phòng ốc, nhà cửa, trông nom vườn tược trú-xứ và những công việc khác… 

 

          Bấy giờ, người trong thôn nọ đến ngày tiết hội, nam nữ trang sức thật xinh đẹp, thi đua phô-bày quần áo đẹp, vòng vàng nhiều với lễ hội. Song không hoàn-toàn phải thế, có một hình ảnh ngược lại, vì nhà quá nghèo, người con gái ấy tủi thân vừa đi vừa khóc. Người con gái này lại gặp Tất-Lăng-Già-Ba-Ta vào xóm khất-thực. Trước cái khổ này, Tất-Lăng-Già-Ba-Ta lại hỏi bà mẹ cô gái : 

 

-.  Con gái bà vì sao lại khóc bù lu bù loa như thế ? 

 

          -.  Hôm nay, mọi người ăn mặc đẹp đẽ để dạo chơi. Nhà tôi nghèo khổ không lấy gì chưng diện như người ta, nên con gái tôi tủi thân khóc ! 

 

Nghe thế, nhân cạnh ấy, thấy con bò đang gặm cỏ, Tất-Lăng-Già-Ba-Ta bảo với bà mẹ con gái rằng : 

 

-.  Bà đến lấy ít cọng cỏ nơi con bò đang ăm kia đem đến đây. 

 

          Tất-Lăng-Già-Ba-Ta nhận cỏ từ tay bà ta rồi kết lại và nhanh chóng biến hóa nó thành hai tràng hoa bằng vàng rồi đưa cho bà mẹ nói : 

 

          -. Trong thiên-hạ có hai loại vàng tốt hơn hết là vàng của Diêm-Phù-Đàm và loại vàng do Thần-túc biến hóa. Bà cầm lấy hai tràng hoa này đưa cho con gái bà mang vào đi dự hội. 

 

          Đeo hai tràng hoa bằng vàng người con gái ấy vui mừng, hãnh-diện, thong dong đi dạo chơi. Mọi người trông thấy đều trầm, trồ khen ngợi rồi lòng ham muốn và đố kỵ cứ xen lẫn nhau. 

 

          Một khi điều kỳ lạ này diễn ra trước mắt thì người ta không bao giờ chịu để yên nhất là lòng ganh ghét biến họ trở thành người cộng tác đắc lực với triều đình và có người đến tâu lên Vua Bình-Sa rằng : 

 

          -. Thôn đó, gia đình đó, phát hiện được một kho báu vật. Đứa con gái họ mang tràng hoa bằng loại vàng cực kỳ quí hiếm, trong thiên-hạ không thể sánh kịp, hậu cung của đại-vương cũng chưa hề có được loại vàng như thế. 

 

Được sự tâu báo này nhà Vua ra lệnh điều người đàn bà ấy đến cửa Vua. Vua trực tiếp hỏi bà ta : 

 

-.  Ngươi được kho tàng báu vật ấy ở chỗ nào? Có thể chỉ chỗ ấy cho ta ? 

 

-.  Tâu đại-vương thật sự tôi chẳng được kho tàng nào cả! Bà ta thưa. 

 

Nhà Vua lại hỏi : 

 

-. Vật trang sức mà con gái người mang đó là từ đâu có ? 

 

-.  Thưa đại-vương, do Tất-Lăng-Già-Ba-Ta kết cỏ biến hóa thành rồi đem cho con gái tôi mang. Bà ta đáp. 

 

Nghe bảo thế, nhà vua hết sức kinh ngạc lại giận dữ trước sự vô lý này, quát : 

 

-. Tại sao cỏ lại biến hóa thành tràng hoa bằng vàng ? 

 

Nhà vua cho rằng bà ta xúc phạm ra lệnh quan bắt trói và hạ ngục. 

 

          Một thời gian sau, Tất-Lăng-Già-Ba-Ta lại đến thôn ấy. Vừa gặp Tỳ-kheo này, người con gái bật khóc nức nở… kiền than oán : 

 

-. Do đại-đức cho hai tràng hoa bằng vàng mà mẹ con bị tra khảo, ngồi tù ! 

 

-.  Thôi đừng khóc nữa, ta rõ rồi. Mẹ của con rồi sẽ được thả ra mà ! Tất-Lăng-Già-Ba-Ta nói thế. 

 

Tất-Lăng liền đến thẳng quan giữ ngục. Quan giữ ngục cung kính chào hỏi : 

 

-.  Đại-đức có việc gì mà phải hạ cố đến đây ? 

 

          -.  Người giúp việc của ta bị nhốt nơi ngục tù này, nên ta mới đến đây. Nay ông có thể thả bà ấy ra được không? Tất-Lăng-Già-Ba-Ta hỏi. 

 

          -.  Người này được kho tàng quí báu mà không khai báo, không chỉ cho vua, nếu chỉ cho vua thì bà ta được thả ra liền. Quan cai ngục đáp lời. 

 

Tất-Lăng-Già-Ba-Ta nói : 

 

-.  Ta kết cỏ làm thành chứ chẳng phải là của kho tàng đâu ! 

 

-.  Kết cỏ mà làm thành vàng là điều không thể xảy ra. Quan cai ngục bảo thế. 

 

Tất-Lăng-Già-Ba-Ta liền biến chỗ ngồi của quan cai ngục thành cái giường bằng vàng và hỏi : 

 

-.  Nay ông có nhìn thấy mình ngồi trên cái giường gì không ? 

 

          Rõ ràng là ngồi trên giường vàng và chính cái san trọng này làm người cai ngục thất kinh hồn vía, liền xuống giường, cúi đầu thưa : 

 

          -.  Lạy Ngài giải tha cho con, con nhờ. Nếu nhà Vua mà biết con ngồi trên giường vàng thì chắc chắn bị trọng tội ! 

 

Tất-Lăng-Già-Ba-Ta ra điều-kiện : 

 

-.  Thả người giúp việc của ta ra, rồi ta mới giải phép cho ngươi. 

 

Quan giữ ngục thưa : 

 

-.  Việc này không phải thẩm quyền của con ! 

 

-.  Vậy thì quyền của ai ?  Tất Lăng hỏi : 

 

-.  Dạ thưa, Quyền của Vua. Quan giữ ngục đáp. 

 

Tất-Lăng-Già-Ba-Ta liền giải phép xóa mất giường vàng, rồi bay đến chỗ nhà Vua, đứng trên hư không. 

 

Khi ấy, nhà Vua từ trên lầu cao nhìn thấy, liền đảnh lễ thưa : 

 

-.  Đại-đức có việc gì cần mà đến đây ? 

 

Tất-Lăng-Già-Ba-Ta nói : 

 

-.  Người giúp việc của tôi bị ngồi tù nên tôi đến đây, xin nhà Vua thả họ ra cho ! 

 

Nhà Vua nói : 

 

-.  Người kia được kho tàng bảo vật, nếu chỉ cho tôi thì tôi mới thả họ ra. 

 

Tất-Lăng-Già-Ba-Ta nói :

 

 -.   Tôi kết cỏ làm thành, chứ chẳng phải của báu trong kho tàng đâu ! 

 

Nhà Vua nói : 

 

-.  Việc này không thể xảy ra, không phải sự thật.  

 

          Lập tức, Tất-Lăng-Già-Ba-Ta lấy cây gậy gõ vào trụ cột lầu thì cả toà cao lầu biến thành lầu vàng, xin hỏi rằng : 

 

-.  Cao lầu cùa Vua được xây cất bằng vật liệu gì đây ?  

 

Chứng kiến việc này, nhà Vua rất hoan-hỷ ra lệnh thả ngay người đàn bà kia. 

 

Tất-Lăng-Già-Ba-Ta cứ như vậy biến hiến bốn Thần tức từ nơi này sang nơi khác khắp trong thiên hạ. 

 

          Một khi toàn dân đều nghe biết sự biến hoá màu hiệm này thì lòng kính tin Phật pháp đối với họ lớn lắm. Họ mang vật thức đến cúng-dường Tăng không thiếu thứ gì. Điều này gây ra sự khủng-hoảng thừa. Đồ ăn, thức uống, các vật dụng cá nhân thừa-thải vất bỏ lung-tung dẫn đến mất vệ-sinh chung… Hãy nghe lời của một cư-sĩ chỉ trích thì rõ sự thể thừa thải kia: 

 

          -.  Đây là những thứ Sa-môn Thích-tử chứa cất. Tự nói là tiết chế sự ăn uống, mà bo bo cất giữ như thế này thì tha hồ ăn nuốt. Những người này vì cầu giải-thoát, xa lìa, sanh, lão, bệnh, tử mà nay lại cầu thức ăn mỹ vị, cao sang như thế này ư ? Họ chẳng có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn v..v… 

 

         Chính vấn đề này dẫn đến Phật kiết giới cấm cất giữ thức ăn một cách nghiêm ngặt đến nổi các dạng thuốc uống để chữa bệnh, xoa bóp, cũng qui định rõ thời gian được dùng, để quả không xả là phạm tội.

 

 

*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+*+

KHÉO VẬN DỤNG TÀI LỢI DỤNG

 

          Như đã biết Bạt-Nan-Đà có tài xử-lý việc của người. Trong thành Xá-Vệ có một người khách buôn, Bạt-Nan-Đà thường lui tới nhà ông ta để nói pháp và chữa bệnh. Đối với ân này, người khách buôn nói với vợ :  

 

          -.  Bạt-Nan-Đà là ân-nhân của ta, có thể dùng số tơ này thuê dệt thành y, sau khi về, ta sẽ đem cúng cho thầy. 

 

          Người chồng lên đường buôn bán, người vợ đem tơ sợi đến xưởng dệt thuê dệt thành y. Bà ta nói với người thợ dệt : 

 

-. Ong tính cho đủ tơ, đừng để dư, đừng để thiếu. 

 

          Thông tin này không biết đến từ đâu, Bạt-Nan-Đà đến ngay nhà Phật tử khách buôn. Người vợ ra đón chào thăm hỏi và thưa : 

 

-.  Chồng con bảo con thuê dệt y để cúng cho Đại-đức, thợ dệt đang dệt, thưa thầy. 

 

Bạt-Nan-Đà hỏi : 

 

-.  Thuê dệt ở xưởng nào ? 

 

Người vợ khách buôn thưa : 

 

-  Con thuê thợ tên đó, ở đó. 

 

Bạt-Nan-Đà đến ngay xưởng dệt này nói với người thợ : 

 

          -. Ông có biết không ?  Y này họ thuê dệt để cúng cho tôi, ông dệt cho tốt, cho dài, cho rộng. Riêng phần tôi ít nhiều sẽ trả ơn ông. 

 

Người thợ dệt nói : 

 

-.  Bà ấy bảo tôi tính toán vừa đủ, đâu vào đó rồi, nay làm sao có thể làm theo đề nghị của thầy được. 

 

Bạt-Nan-Đà bảo : 

          -.  Cứ dệt cho thật đẹp như tôi yêu cầu, nếu chỉ sợi không đủ, ông đến nói với bà ta cho tôi xin thêm sợi. Đảm bảo bà ấy sẽ đưa cho thôi. 

 

Người thợ dệt nghe theo, dệt hết chỉ đến xin thêm. 

 

Bà vợ khách buôn nói : 

 

-. Trước đây đã tính toán đầy đủ rồi, nay tại sao lại đến lấy thêm sợi ? 

 

Người thợ dệt trình bày lại lời dặn của Bạt-Nan-Đà. Nghe thế, người vợ bèn đưa thêm chỉ. 

 

Khi người khách buôn trở về, hỏi vợ chuyện dệt y cúng cho thầy Bạt-Nan-Đà. Người vợ liền lấy y cho chồng xem.  

 

Thấy chiếc y quá tốt về hình thức cũng như chất lượng, người chồng hỏi : 

 

-. Với số tơ dự trù ít sao dệt được y dày tốt như thế này ?  

 

Bà vợ nói : 

 

-  Bạt Nan Đà bảo thợ đến lấy thêm sợi, cho nên mới được thế ! 

 

Người khách buôn nghe thế bực tức nặng lời : 

 

          -.  Bạt-Nan-Đà, túi tham không đáy, không ai cung cấp, thỏa mãn nổi cho ông ta đâu! Với y như thế này là gấp đôi số tơ ta dự định ban đầu. Tuy trước  kia là ân-nhân nhưng bây giờ thì xin tuyệt giao là vừa, thôi đừng cúng y này cho Bạt-Nan-Đà nữa. 

 

          Tiếng xấu này cứ lan rộng, đến tai các Tỳ-kheo Trưởng-lão rồi đến Phật đang lưu-trú tại thành Xá-Vệ. Đức Phật đã chế giới cấm hành động phi pháp này của Tỳ-kheo coi như ngăn-chận lòng tham của người xuất-gia ở trong thế-gian này.

 

 

*

*      *

KHOÁI THAY  ! 

 

          Có một thời gian đức Phật ở trong rừng cây A-Nậu thuộc cấp Di-Na. Ơ đây, các quí tộc thuộc giòng họ Thích, nhiều người đến với đức Phật xuất-gia học đạo. Không bỏ lỡ cơ-hội, Thích-Ma-Nam, nói với A-Na-Luật:  

 

          -.  Nay các quí tộc đều xuất-gia tu phạm hạnh, tại sao riêng anh em chúng ta không thực hiện việc này ?  Nếu ta xuất-gia thì em coi ngó việc nhà còn nếu em xuất-gia thì ta ở nhà lo liệu. 

 

A-Na-Luật nói :  

 

-.  Anh cứ đi xuất-gia, em sẽ lo liệu việc nhà. 

 

Thích-Ma-Nam nói :  

 

          -.  Trước đây việc nhà có anh lo, em chỉ thụ-hưởng sung-sướng, đâu có biết gian-lao cực-khổ là gì. Tuy nhiên, xuất-gia hành đạo, điều cực-khổ đâu phải là kém. Nay em ở nhà thì anh phải chỉ vẽ em phương pháp quản-lý gia-nghiệp. Hãy nghe anh nói cách quán-xuyến công việc:  Ban ngày phải thích ứng với công việc ra sao? Ban đêm phải đặt kế-hoạch thế nào cho khớp ? Phương-pháp làm ruộng, mua bán, điều hành kẻ ăn người ở, tất yếu phải khôn-khéo dùng lời tác-động, theo dõi. 

 

A-Na-Luật nghe thế nói rằng :  

 

          -. Nếu quản-lý gia-nghiệp mà phải như vậy mới đạt kết-quả thì một ngày em cũng không thể quản-lý nổi! Thôi thì anh ở nhà, em đi xuất-gia vậy. 

 

Thích-Ma-Nam nói :  

 

          -.  Pháp của chư Phật Thế-Tôn , cha mẹ không cho phép thì không được tu đạo, nay em muốn xuất-gia thì phải đến xin phép mẹ, tự em nói lên ý nguyện này. 

 

Nghe theo lời anh, trước mẹ, A-Na-Luật giải bày lời xin : 

 

-  Thưa mẹ, con muốn vì Phật-pháp mà xuất-gia học đạo. 

 

Bà mẹ trả lời : 

 

          -.  Mẹ chỉ có hai anh em con, tình mẹ yêu thương hai con quá sâu đậm, làm sao mẹ, con có thể sống xa lìa nhau được! Nhà mình rất giàu có, thích hợp với việc tu công đức, con phiền gì phải xuất-gia để làm đau lòng mẹ ! 

 

          Tưởng thuyết-phục được con mình, không ngờ A-Na-Luật vẫn sắt đá với việc xuất-gia. Lần thứ ba A-Na-Luật xin phép, bà mẹ đặt vấn đề với con như một điều kiên quyết, Bà mẹ bảo như vầy :  

 

          -.  Nếu Vua Bạt-Đề xuất-gia thì mẹ cũng đồng ý để con xuất-gia. 

 

           Đã từ lâu Vua Bạt-Đề cùng A-Na-Luật, Nan-Đề, Điều-Đạt, Bà-Bà, Kim-Bệ-Lô .v..v… rất nặng tình thương mến nhau nên có việc gì thì cũng đều chung thề không làm trái ý nhau. 

 

Với ý của mẹ như thế, A-Na-Luật đến ngay Vua Bạt-Đề, ngõ lời như vầy : 

 

          -.  Nay tôi có chút ý nguyện mà ý nguyện này lại gắn liền với lời thề của Vua. Chúng ta đã long trọng thề rằng: Không làm trái ý nhau, nếu làm trái ý nhau đầu bị vỡ thành bảy mảnh. Vì thế, nay lời nguyện của khanh ắt phải gắn liền với lời thề ấy. A-Na-Luật liền đem ý kiến của mẹ mình trình bày lên Vua Bạt-Đề. 

 

Nhà Vua nghe rồi bảo rằng :  

 

          -.  Ý nguyện này của khanh tôi chưa có thể thực hiện ngay được !  Tại sao vậy? Vì tôi nguyện làm Vua, cái quả này tôi mới bắt đầu. Thân tộc tôi giàu sang chẳng có gì để lo lắng cả, làm sao có thể bỏ ngay nếp sống này để xuất-gia học đạo ? ! 

 

A-Na-Luật nói :  

 

          -.  Nếu vua xuất-gia thì nguyện tôi mới toại, thâm đắm sự phồn-vinh thì tôi phải trầm-luân lâu dài, xin vua suy nghĩ kỹ đừng để trái với lời thề trước kia ! 

 

Vua Bạt-Đề nói : 

 

-  Tôi sẽ làm theo ý nguyện của bạn nhưng để cho tôi sau Bảy năm, tôi sẽ cùng bạn xuất-gia học đạo. 

 

A-Na-Luật nói :

 

          -.  Sau Bảy năm chắc gì đức Phật còn tại thế ? ! Hơn nữa mạng sống của tôi khó có thể bảo đảm được đến ngày ấy. Tại sao nay Vua lại nêu ra kỳ hẹn này ? 

 

Vua Bạt-Đề nói : 

 

-.  Bảy năm, nếu có lâu thì 6 năm không được sao ? 

 

          A-Na-Luật cũng trả lời như trên. Vua lại hẹn 5 năm rồi 4, 3, 2 đến còn một năm, rồi lại hẹn từ bảy tháng đến còn một tháng, từ 7 ngày đến còn một ngày đều không được A-Na-Luật chấp nhận. 

 

Nhà Vua nói :   

 

          -.  Chúng ta là Trưởng-giả đâu có thể đột xuất ra đi như vậy. Chúng ta cần phải chuẩn bị đầy đủ phương-tiện, xa giá hết sức nghiêm-chỉnh, mượn con đường du hành để thực-hiện chí nguyện xuất-gia. Bây giờ bạn có thể nói rõ ý định này với A-Nan-Đà v ..v… 

 

          A-Na-Luật liền thông tin cho 5 người ban còn lại. Năm người này rất hân-hoan, tâm đầu ý hợp. Bảy người trong một A-Na-Luật . 

 

          Ngay trong đêm ấy, 4 binh chủng nhanh chóng hoàn-tất nghiêm-chỉnh một chuyến đi. Một thế-gian cực-kỳ lộng-lẫy, oai-nghiêm vào lúc trời vừa sáng. Vua, tôi ra khỏi thành, con đường du hành của nhà Vua đang bước sang một ngã rẽ khác, một sự giải-thoát đột biến đến kỳ lạ… 

 

          Cuối cuộc du hành thưởng lãm, Ưu-Bà-Ly người thợ cạo tóc được mật báo… Bảy hoàng thân quốc thích kín đáo rời khỏi đoàn tuỳ tùng rồi mất hút trong rừng sâu, họ ẩn mình trong sự tịch vắng. Những trang phục quí giá trên mình họ bây giờ là cái giá để cho người thợ cạo Ưu-Bà-Ly cạo tóc cho họ. Họ cãi đổi y phục rồi nhanh chóng lên đường xuất-gia… 

 

Bảy người đi chưa bao lâu, Ưu-Bà-Ly giựt mình nghĩ ngợi :  

 

          -.  Các hào tộc họ Thích cường bạo, nếu biết ta cạo đầu cho bảy  người này, chắc họ sẽ giết ta. Hơn nữa, các quí tộc này còn bỏ nhà xuất-gia, nay ta tại sao không bỏ đồ nghề hớt tóc và các y phục quí giá này để xuất-gia ? 

 

Không do dự , Ưu-Bà-Ly tự cạo đầu, rồi đem các y phục quí báu kia treo lên gốc cây, với ý nghĩ :  

 

-.  Ai cần thì lấy sử dụng.  

 

Ưu-Bà-Ly đi thật nhanh như muốn chạy và không bao lâu đuổi kịp 7 người, Ưu-Bà-Ly nói :  

 

-.  Nay tôi cũng muốn theo quí vị xuất-gia. 

 

          Bây giờ 8 con người bình-đẳng nhau trong sự giải-thoát. Họ tiến nhanh về khu rừng A-Nậu nơi đây đức Phật đang chờ đón họ. 

 

Trước Thế-Tôn, tám người đầu mặt đảnh lễ sát chân Ngài, họ thưa : 

 

          -.  Kính bạch đức Thế-Tôn, nay chúng con muốn xuất-gia tịnh tu phạm-hạnh. Riêng đối với Ưu-Bà-Ly là người nô bộc của chúng con, xin Ngài độ cho ông ta thọ Cụ-Túc giới trước, sau đó mới độ chúng con. Điều này cần phải như thế để cho chúng con và các Thích chủng phá tâm kiêu-mạn đối với Ưu-Bà-Ly. Đức Phật liền độ Ưu-Bà-Ly sau đó mới độ 7 người. 

 

          Ngay sau lúc độ này, đức Phật có suy nghĩ :   Ca-Duy-La-Vệ cách đây không xa, các giòng họ Thích biết được có thể gây trở ngại. Đức Phật cùng đưa 8 người đến thành Bạt-Đề-La. Nơi đây, dưới tàn cây Võng-Lâm, đức Phật đã vì họ nói diệu pháp bao gồm những vấn đề: Nhãn vô-thường, Sắc vô-thường, Nhãn thức, Nhãn xúc, Nhãn xúc nhân-duyên sanh thọ vô-thường. Cho đến Ý vô-thường, Pháp vô-thường, ý thức, ý xúc, ý xúc nhân-duyên sanh thọ vô-thường. Các người là Thánh đệ-tử nên phải thực hiện quán-sát như vậy, sanh tâm yểm ly, sở đắc trí tuệ giải-thoát, chỗ phải làm đã làm xong, phạm hạnh đã lập, không thọ thân sau. … 

 

          Sau khi nghe pháp có 6 người đoạn hết lậu hoặc, đắc A-la-hán. A-Nan vì hầu Phật nên các lậu hoặc không đoạn hết. Điều-Đạt, người duy nhất không thu hoạch được điều gì. 

 

          Vua Bạt-Đề sau khi đắc quả A-la-hán, tâm vua trong sạch không còn sự lo sợ nào. Hoặc tòa thiền hay kinh hành, dưới tàn cây hay nơi hoang-vắng, tự thân liền được sự vui-sướng, thanh-thản đã thốt lên lời :  

 

-. “Khoái thay !  Khoái thay !”.  

Âm thanh này được một Tỳ-kheo khác nghe được lại có tác ý, nghĩ rằng :  

 

-. Chắc Tỳ-kheo Bạt-Đề nhớ đến niềm vui thế-tục mà không vui với phạm hạnh nữa !  

 

Ngay sau đó, vị ấy đến bạch Phật : 

 

          -.  Con đã hướng đến Bạt-Đề và nghe vị này nói :  “Khoái thay !  Khoái thay !” Chắc ông ta nhớ lại niềm vui khi còn làm Vua, không thích sống phạm hạnh nữa ! 

 

          Đức Phật bảo Tỳ-kheo ấy gọi Tỳ-kheo Bạt-Đề. Trước Phật, Tỳ-kheo Bạt-Đề đầu, mặt kính lễ sát chân Ngài rồi đứng qua một bên. 

 

Đức Phật hỏi Bạt-Đề : 

 

-. Sự thật ông có nói :  “Khoái thay” hay không ? 

 

-.  Bạch đức Thế-Tôn, thật sự con có thốt lên “Khoái thay”.  Bạt Đề thưa. 

 

-. Ông nói “Khoái thay” với ý nghĩa như thế nào ?  Đức Phật hỏi : 

 

          -. Thưa Thế-Tôn, lúc trước sống trong cung Vua là sống trong bảy lớp thành vây bộc, bảy hàng voi, bảy hàng ngựa, bảy hàng xe, bảy hàng bộ binh, bốn binh chủng bao quanh. Ay vậy, khi nghe một âm thanh khác lạ thì lòng kinh sợ, lông tóc dựng ngược lên. Nay ở dưới tàn cây, nơi đất trống mà thản-nhiên không một chút lo sợ cho nên con đã phải nói lớn “Khoái thay” là vậy đó ! 

 

          Đức Phật bảo các Tỳ-kheo, Bạt-Đề đã đắc A-la-hán mà không vui với nếp sống phạm hạnh là điều không có cơ sở. Từ Bạt-Đề, một thực tại của vấn-đề lúc bấy giờ mà nhân đó đức Phật nói Kệ : 

 

Khoái thay !  A-la-hán

Không còn ân-ái buộc

Phá được dục, nhuế, si

Xóa đi lưới kiết sử

Niết-bàn đây nơi đến

Nào còn tâm uế trược

Nào nhiễm đắm thế-gian

Giải thoát mọi nhiễm ô

Năm uẩn tường tận rõ

Bảy rừng pháp hành du

Chỗ đi con rồng lớn

Chế phục mọi khủng nguy

Thành tựu mười Chủng đức

Vua đức Tam muội thiền

Mọi hủ lậu đã sạch

Là đệ nhất thế-gian

Bất động không sợ hãi

Không nhận lại thân sau

Tịch diệt đều dứt sạch

Khổ, lạc báo hằng không

Vững vàng trí vô học

Thân này, thân sau cùng

Phạm hạnh kiên cố lập

Đâu điều không thể tin

Khắp cả thế gian này

Còn đâu các dục lạc

Vang lừng sư tử rống

Nào ai hơn đức Phật.

*

*      *

LẠI CHUYỆN LÔNG DÊ 

 

          Lông dê hình như có chỗ đặc dụng lúc bấy giờ, cho nên các Tỳ-kheo tìm được nhiều lông dê đành phải tự gánh hay vác về trú-xứ dù đường có xa mấy. Người đi đường thấy thế bỉu môi cơ hiềm : 

 

          -.  Chúng ta vì gia-đình, vì miếng cơm manh áo nên phải còng lưng gánh lông dê, các Tỳ-kheo cũng làm như vậy, hóa ra hạng người mặc y hoại sắc cắt rọc, cạo đầu, khất thực với ta đâu có khác gì? Họ không có hạnh Sa-môn, phá pháp Sa-môn. 

 

          Có một Tỳ-kheo ở trên núi thường theo thói quen gánh lông dê đi đường, hôm đó bị phá sức, mệt lả người, khi ề đến trước sân của Tăng phường xỉu té xuống đất. 

 

          Các Tỳ-kheo thấy tưởng là ma quỷ nhập vào, liền lấy nước tiểu xối lên mặt.  

 

Tỳ-kheo kia hỏi : 

 

-.  Tại sao các Trưởng-lão lại dội nước lên mặt tôi ? 

 

Trưởng-lão đáp : 

 

-. Tôi sợ ma quỷ nhập vào thầy nên mới xối nước ấy chứ ! 

 

Vị Tỳ-kheo lại phân-bua : 

 

-.  Đâu phải ma quỷ nhập, tại tôi gánh rất nhiều lông dê, nặng quá đâm ra xâm xoàng ngất xỉu thôi ! 

 

Các Trưởng-lão nói : 

 

          -.  Đức Phật chế: Tỳ-kheo chỉ thọ trì Ba y và bình bát giống như đôi cánh chim, nhờ thế mới bay được. Thầy đâu không biết, sao lại gánh chi những thứ này ? ! 

 

          Vào một dịp khác, vị Cư-sĩ làm một cái phòng với tâm niệm: Tỳ kheo nào đến ở phòng này thì ta cúng dường và cung cấp y. 

 

Sau đó, có một Tỳ-kheo đến ở, Cư-sĩ bèn cúng lông dê. Tỳ-kheo không nhận, Cư-sĩ nói : 

 

-.  Con để dồn lông dê với bổn ý là cúng cho Tỳ-kheo chứ không vì nhu cầu bản thân. 

 

Tỳ-kheo nói : 

 

-.  Đức Phật cấm không cho gánh lông dê đi đường thì nhận để làm chi ? ! 

 

Việc này dẫn đến Phật cho phép mang vác lông dê nhưng đi với khoảng cách không quá 3 do tuần.

 

 

*+*+*+*+*+*+*+*

L ẠI M ỘT CON SÂU KHÁC 

 

          Sự việc này xảy ra lúc đức Phật đang trú-ngụ tại thành Vương-Xá.  Khi ấy, có Tỳ-kheo tên là Tôn-Đà-La-Nan-Đà ở ấp Bạt-Kỳ. Tu-sĩ họ Tôn có mối liên-hệ rộng, được nhiều bạn bè, kẻ quen biết cúng-dường nhiều lợi-dưỡng. Ay thế, Tỳ-kheo này vẫn không thích tu phạm-hạnh, làm theo nghi pháp ngoại đạo, hành-xử theo nghi pháp Bạch-y, làm việc sát-sanh, trộm-cắp , dâm-dục, không từ việc ác nào là không làm.  Với những Phật-tử có lòng tin yêu Phật-pháp cạn-cợt thì chê-bai rằng:

 

-.  “Tại sao Sa-môn Thích-tử lại làm các điều ác như vậy”.  

 

Họ đi nói xấu huỷ-báng khắp nơi rằng :  

 

          -.  Tu-sĩ họ Tôn cũng thọ Năm thứ dục lạc như cư-sĩ. Ông ta không có hạnh Sa-môn, không có hạnh Bà-la-môn, không thọ pháp Sa-môn, không thọ pháp Bà-la-môn.  

 

          Những Tỳ-kheo này, nơi nào họ không đến thì nơi đó có được điều thiện, điều lợi lạc.   Tiếng xấu về Tỳ-kheo này được đồn đại khắp nơi. 

 

Trước sự đồn đại này, Tôn-đà-la-nan-đà trở lại trong chúng tác-bạch lời này:  

 

-.  “Cho tôi xuất-gia thọ giới”. 

 

Các Tỳ-kheo bảo rằng :  

 

-.  “Cần phải bạch lên đức Thế-tôn”. 

 

Các Tỳ-kheo bạch lên Phật sự việc này. Trước toàn thể Tăng Phật dạy : 

 

          -.  Tôn-Đà-La chẳng phải là Tỳ-kheo, nếu đã thọ giới thì trước chúng Tăng bạch Tứ Yết-ma tác đuổi đi. Tức là pháp Diệt-tẫn.  

 

          Những sự việc trên đây được đúc kết thành giới điều quan trọng về dâm-dục thuộc bộ Ngũ phần luật.

 

 

*+*+*+*+*+*+*

LỜI CAN GIÁN TỲ KHEO YỂM TRỢ PHÁ TĂNG 

 

          Điều-Đạt phá hòa-hiệp tăng không phải không có bè cánh yểm-trợ. Có một số Tỳ-kheo tại thành Vương-Xá đã nói ra lời tán-trợ Điều-Đạt như vầy :  

 

          -.  Những gì Điều-Đạt nói là Điều-Đạt biết, chứ chẳng phải không biết mà nói, nói đúng pháp chứ chẳng nói phi pháp, nói đúng luật chứ chẳng nói sai luật. Chúng tôi chấp-nhận và vui mừng”. 

 

          Các Trưởng-lão Tỳ-kheo nghe luận-điệu như vậy đã có lời quở-trách, can-gián đôi ba phen nhóm Tỳ-kheo này, song các thầy vẫn ngoan-cố. Việc này được các Tỳ-kheo  trình lên Phật lúc Ngài đang lưu-trú tại thành Vương-Xá. 

 

Trước Tăng đức Phật kiết giới sau : 

 

          -.  “Tỳ-kheo nào yểm-trợ việc phá hòa-hiệp tăng, hoặc một, hoặc hai, hoặc số đông, nói với các Tỳ-kheo rằng: Tỳ-kheo này nói ra vấn-đề gì là biết rõ vấn-đề đó chứ chẳng phải không biết mà nói. Nói đúng pháp chứ không nói phi pháp, nói đúng luật chứ không nói sai luật. Những gì Tỳ-kheo này đề cập chúng tôi chấp-nhận và vui mừng. Trước luận điệu này Tăng phải bảo Tỳ-kheo ấy như vầy: Thầy đừng nói những lời như thế. Vì sao vậy? Bởi vì Tỳ-kheo chủ-trương phá tăng kia xuyên-tạc chẳng nói đúng vấn-đề. Nói không đúng pháp, không đúng luật. Các thầy chớ nên vui thích yểm-trợ Tỳ-kheo kia phá hòa-hiệp tăng, nên vui vẻ yểm-trợ làm cho Tăng hòa-hợp. Tăng hòa-hợp là có niềm vui, có sự hoan hỷ, không xảy ra tranh cãi. Một lòng cùng nhau học-tập như nước hòa với sữa cùng nhau mở rộng hạnh an-lạc mà Đạo sư đã truyền dạy. Can-gián lời như vậy mà đương sự ngoan-cố không sửa-đổi thì nên can-gián lần thứ hai, lần thứ ba. Lần thứ hai, lần thứ ba can-gián mà bỏ yểm-trợ thì tốt, không bỏ thì phạm tội Tăng-Già-bà-thi-sa”.

 

 

*+*+*+*+*+*+*+*++

LỢI DỤNG SỰ CHO PHÉP 

 

          Lúc bấy giờ đức Phật ở tại thành Xá-Vệ. Vào dịp nọ, có nhiều chúng Tỳ-kheo từ ấp Ba-Lợi về thăm Phật. Trên đường đi họ gặp bọn cướp, cướp hết y mang theo. Các thầy bảo nhau : 

 

          -  Có Năm trường hợp được Phật cho phép đến Cư-sĩ hay vợ Cư-sĩ không phải bà con để xin y. Dù vậy chúng ta cũng chẳng biết ai để đến xin bây giờ ! 

 

          Lục-quần Tỳ-kheo nghe được sự việc này chớp ngay cơ-hội liền đến các Tỳ-kheo mất y đề nghị đi xin hộ y cho, nếu còn dư thì lấy. 

 

Các Tỳ-kheo mất y rất hoan-hỷ tán dương : 

 

-. Hay lắm !  Tốt lắm !  Thầy giúp cho. 

 

Được sự đồng ý như vậy, Tỳ-kheo Lục-quần đi khắp trong thành đến Cư-sĩ hay vợ Cư-sĩ trình bày :  

 

          -  Có các Tỳ-kheo từ ấp Ba-Lợi về hầu thăm đức Thế Tôn, không may bị bọn cướp, cướp mất y quí vị có thể giảm bớt chỗ may mặc, chỗ vải tiết kiệm xin đem đến cúng-dường quí thầy. 

 

          Nghe thế các nam nữ Phật-tử đóng góp vải kẻ ít người nhiều được một số lớn vải đem đến cúng. Các Tỳ-kheo mất y sau khi được đầy đủ y, bảo các Tỳ-kheo Lục-quần : 

 

-.  Chúng tôi đủ rồi không phiền các thầy phải xin nữa. 

 

Lục-quần Tỳ-kheo nói : 

 

-  Các thầy có lý do chánh-đáng để xin y còn chúng tôi thì đâu được phép. Chúng tôi dựa vào nhân-duyên của quí  thầy mới có lý do để xin. Xin được tiếp tục.  

 

Các Tỳ-kheo mất y nói : 

 

-  Điều đó tuỳ ý các Trưởng-lão miễn sao đúng pháp là được. 

 

Như thế là Lục-quần Tỳ-kheo lại đi đến các nơi xin nữa, thu được rất nhiều y. 

 

Nhìn thấy các thầy cứ đi xin mãi, các Cư-sĩ sinh nghi họp-lại, có ý kiến : 

 

          -. Tỳ-kheo mất y không là bao vị, trong thành hầu hết Phật-tử đều đem cúng vải, như vậy còn thiếu chỗ nào nữa mà các thầy ấy cứ đến xin tiếp. Phải chăng mấy ông này lợi-dụng xin tích luỹ vải cho nhiều để mua bán, đổi chác. Không tu phạm hạnh ? 

 

          Nghe được việc làm này các Tỳ-kheo Trưởng-lão bằng nhiều cách quở-trách rồi đưa Tỳ-kheo Lục-quần đến chỗ Phật, bạch lên Phật sự việc đã xảy ra.  

 

Trước Tăng, đức Phật hỏi Lục-quần Tỳ-kheo :  

 

-.  Thật sự các ông có làm như vậy không ?  

 

-.   Bạch đức Thế-Tôn, thật sự đúng như vậy. 

 

Đức Phật bằng mọi cách quở-trách Lục-quần Tỳ-kheo rồi chế giới, giới hạn việc xin y có lý do này.

 

*

*      * 

MỘT HẬU QUẢ

 

          Thời Phật, tại thành Vương Xá đã lưu thông các loại tiền bằng vàng, bằng bạc, bằng tạp vật. Bấy giờ Nan Đà, Bạt Nan Đà dùng các loại tiền này để mua vât dụng hay bán vật dụng thu lấy các loại tiền này

 

          Thành Vương Xá lúc ấy cũng là nơi bọn cướp dung thân. Họ thường hay lân la, dò tìm, rình rập các nhà giàu. Việc làm của Nan Đà, Bạt Nan Đà không qua được mắt họ. Bọn cướp đi đến kết luận : 

 

          Quan sát kỷ nơi ấp lý này thì không ai giàu hơn Sa môn Thích tử. Nhưng ở đây cướp được họ không dễ gì! Chi bằng đến nơi A Lan Nhã cướp của cải Thích tử chắc dễ thôi ! 

 

Bọn cướp đến A Lan Nhã vào hôm sau.  

 

Rình rập rồi khủng bố bắt các Tỳ kheo nơii đây tra khảo để mong lấy được vàng bạc và các loại tiền. 

 

Các Tỳ kheo nói : 

 

Chúng tôi đã xa lìa tiền bạc và tiền, không thu giữ cất chứa các thứ bất tịnh ấy. 

 

Bọn cướp nói : 

 

          Các ông nói láo. Chính tôi thấy Tỳ kheo dùng nó để mua bán. Họ tra khảo Tỳ kheo một trận nên thân rồi lấy hết y, bát bỏ đi. 

 

Sau đó, các Tỳ kheo A Lan Nhã chuyển lời quở trách Nan Đà và Bạt Nan Đà như vầy : 

 

Tại sao hai thầy cất chứa bảo vật làm chi để đến nổi gây tai họa cho chúng tôi. 

 

          Sự việc này dẫn đến Phật chế cấm: Tỳ kheo kkhông được dùng vàng bạc và các loại tiền để trao đổi mua bán. Sau đó có vấn đề xảy ra gián tiếp là nhờ người khác, kể cả mống tâm cất giữ tiền, vàng cũng được Phật chế cấm bổ sung.

 

 

*

*       *

MỘT XIỂN ĐÀ CÁ BIỆT 

 

Chuyện này xảy ra lúc đức Phật lưu trú tại nước Câu Xá Di. 

 

Tỳ kheo Xiển Đà là một cự phách trong nhóm “Lục quần”. Có những đặc điểm như vầy : 

 

Vào nhà cư sĩ thoải mái nằm ngồi không đúng pháp, thiếu tế nhị.  

 

An riêng chúng, ăn phi thời 

 

Không cần thưa với thiện Tỳ kheo khi vào xóm làng. 

 

Các Tỳ kheo thấy tế hạnh của Xiển Đà như vậy nên có lời chỉ trích : 

 

          Thầy phạm phép tắc như vậy là có tội. Thầy phải nhìn thấy sự sai phạm của mình mà sửa đổi sám hối, đừng đánh mất sự thanh tịnh đối với việc tu phạm hạnh. Không lẽ thấy sống mãi với sự tối tăm, tội lỗi này mà chịu sự khổ não sao ?  Sao đành làm cho các thí chủ mất hết công đức ? 

 

Xiển Đà trả lời : 

 

          Đại đức !  Các thầy không nên dạy tôi, tôi dạy các thầy mới phải. Tai sao vậy ?  Tại vì Pháp Vương Thánh Sư là chủ của tôi, phép tắc tôi rút ra từ đó, không dính dự gì đến các Đại đức. Giống như có trận gió lớn thổi qua các thứ rác rưởi dơ bẩn tập trung lại một chỗ. Tất cả các Đại đức bao gồm nhiều giòng họ, nhiều gia đình, nhiều quốc gia xuất gia thì cũng tập trung lại nhiều thứ như vậy. Tại sao các thầy lại muốn răn dạy tôi !  Này các Đại đức !  Đừng nói với tôi điều gì hoặc tốt, hoặc xấu, tôi cũng không nói điều gì hoặc tốt hoặc xấu với Đại đức. 

 

Các thầy Tỳ kheo lại nói với Xiển Đà : 

 

          Thầy đừng tự cao !  Lẽ nào thầy không dùng lời để cộng tác với chúng tôi. Thầy nên nói với các Tỳ kheo  những chuyện tốt, xấu. Các Tỳ kheo cũng nên nói chuyện với thầy những chuyện tốt xấu. Sự trao đổi chỉ giáo cho nhau rộng rãi như vậy sẽ làm chuyển đổi loại ra các dạng tội lỗi, có thể mới làm nên chúng Tăng của đức Như Lai. 

 

          Các Tỳ kheo can gián, phân giải như vậy song Xiển Đà vẫn ngoan cố không bỏ thói xấu ấy nên các Tỳ kheo cùng đưa Xiển Đà đến chỗ đức Phật, trình bày rõ sự việc lên Ngài. 

 

          Trước Tăng để làm rõ vấn đề, Phật hỏi lại sự việc đã xảy ra và được Xiển Đà xác nhận: Thưa Thế Tôn, sự thật con có như vậy. 

 

Đức Phật lại quở trách Xiển Đà : 

 

          Ông là người ngu si, tại sao ông nói không thể dùng lời hợp tác xây dựng nhau ?  Các thầy Tỳ kheo thấy ông phạm tội, nên không muốn cùng ông Bồ tát, Tự tứ, Yết ma làm công việc của Tăng. Vì thế dũ lòng thương quở trách, can gián ông. Tại sao ông không nghiêm chỉnh chấp nhận ? !  Sau khi quở trách đức Phật kiết giới nhằm chận đứng tội lỗi đem lại lợi ích cho chúng Tăng bất luận là thời gian nào.

 

 

*

*       * 

MUỐN ĐƯỢC Y TH ẬT TỐT

 

          Mối liên hệ giữa Bạt Nan Đà và Cư sĩ  xem ra rất khắn khít. Ngoài việc nói pháp ra, Bạt Nan Đà còn lo liệu cho Cư sĩ lúc ốm đau hay khi hữu sự. 

 

          Bữa nọ, có một Tỳ kheo sáng sớm đắp y, bưng bát vào thành khất thực, khi đến gia đình thường ngày được Bạt Nan Đà lui tới, nghe được chuyện vợ chồng nhà này bàn định, họ bảo nhau : 

 

“Bạt Nan Đà là ân nhân của ta, nên sử dụng một số tiền may y như thế cúng cho Ngài”. 

 

Tỳ kheo này, sau khi trở về khen Bạt Nan Đà : 

 

Thầy có nhiều phước đức ! 

 

Bạt Nan Đà hỏi : 

 

Phước đức gì mà có ?  Thử nói cho tôi biết nào ? 

 

Tỳ kheo kia tình thật đem điều tình cờ nghe được như trên kể lại cho Bạt Nan Đà biết rồi bảo : 

 

Nay thầy đến đó, chắc chắn sẽ nhận được y mà không gì trở ngại. 

 

          Sáng sớm hôm nay, đến giờ khất thực Bạt Nan Đà mặc y, bưng bát đến nhà Cư sĩ thân tín kia. Thấy thầy đến, Cư sĩ vội vàng ra đón chào. Bạt Nan Đà liền hỏi : 

 

Có phải Phật tử định sử dụng số tiền như thế để may y như thế phải không ? 

 

-.  Bạch thầy đúng như vậy, Cư sĩ thưa. 

 

          -.  Phật tử dư biết, tôi không mặc y xấu chứ ?  Nếu may tốt thì tôi sẽ mặc. Phật tử hãy nhớ cho, lúc ốm  đau hay có việc chi tôi điều lo liệu giải quyết tốt cho Phật tử ấy. Nếu y không tốt thì tôi cho đệ tử hay đem cất mà thôi. Như vậy vật này vất đi, việc cho của Phật tử chẳng có tác dụng phước đức gì ! 

 

Bất bình trước lời nói này của thầy, Cư sĩ kia nói với người xung quanh rằng : 

 

          Bạt Nan Đà quá tham lam, ai cung cấp cho nổi, làm sao thỏa mãn theo ý ông ta. So với chỗ phát tâm tôi đã dành cúng gấp 5, 6 lần rồi, ấy vậy mà vẫn không đáp ứng lòng tham của ông ta. Trước đây tôi có lòng tốt như vậy còn bây giờ thì tiêu tan cả rồi !  Thôi tôi không cúng nữa ! 

 

          Các Tỳ kheo Trưởng lão nghe được sự việc này đã hết lời quở trách Bạt Nan Đà rồi đưa sự việc lên trình đức Phật.

 

          Trước Phật và Tăng, Bạt Nan Đà thú nhận sự thật do mình đã gây ra làm mang tiếng xấu kia.Đức Phật quở trách rồi kiết giới cấm vấn đề này. 

 

          Tánh nào tật nấy, Bạt Nan Đà thường lui tới các nhà Cư sĩ để gia ân. An đã kết thì nghĩa phải đền, có hai gia đình Cư sĩ nọ, vợ chồng cùng nhau bàn định: Chúng ta mỗi gia đình cùng nên vì thấy Bạt Nan Đà sử dụng chừng số tiền như thế để may y như thế cúng cho Ngài Bạt Nan Đà. 

 

          Việc bàn tính này, tình cờ Tỳ kheo khất thực nghe được về thông tin cho Bạt Nan Đà biết. Bạt Nan Đà liền đến nhà hỏi 2 cặp vợ chồng kia: 

 

          Tôi nghe quí Phật tử, mỗi vị đều vì tôi, sử dụng số tiền tương đương như vậy để may y như vậy cúng cho tôi phải không ? 

 

Thưa thầy quả thật như vậy, họ thưa. 

 

Bạt Nan Đà bèn khuyên họ: 

 

          Quí vị có thể chung tiền lại để may một cái y cho thật tốt. Nếu thật tốt sẽ mặc bên mình để luôn nhớ đến quí vị bằng như không tốt tôi xếp bỏ vào một chỗ, chẳng biết đến. Vật như thế là vất đi chẳng còn tác dụng phước đức gì cả ! 

 

Khi ấy Cư sĩ và vợ Cư sĩ của hai gia đình đùng đùng nổi giận mắng mỏ : 

 

          Ông này tham lam quá !  Làm sao có thể cung cấp nổi? Có thể làm thỏa mãn nổi? Tuy yêu cầu chung lại may thành một y song so với chỗ phát tâm của chúng ta đã gấp 5, 6 lần rồi. Ay thế mà vẫn không thỏa lòng kẻ tham. Kẻ ác này không đủ để tồn tại, từ nay chấm dứt không để đến đây nữa! 

 

          Sự thật tai tiếng này được các Tỳ kheo Trưởng lão bạch lên Phật. Phật nặng lời quở trách Bạt Nan Đà rồi kiết giới cấm Tỳ kheo hành động như vậy.

 

 

*+*+*+*+*+*+*

NGOẠI ĐẠO BỊ LỪA 

 

          Thời Phật, thành Xá Vệ coi việc đổi, chác mọi thứ như một thứ kinh doanh. Có lẽ trong Tăng Bạt Nan Đà cũng rất rành việc này. Bao giờ lợi lộc cũng thuộc về Bạt Nan Đà trong việc đổi chác đó. 

 

          Ngày ấy có một ngoại đạo mà hơn ai cả, Bạt Nan Đà lại rất không ưa ngoại đạo, nhận đuợc một xấp vải đem đến nhà người ngoại đạo nói : 

 

May thành y cho tôi 

 

Người bạn ngoại đạo nói thế này : 

 

          Nhà tôi nhiều việc không thể may được. Sa môn Thích tử nhàn công rỗi việc lại nhận được nhiều y bố thí, có thể đến đó nhờ may hay có thể trao đổi y cho họ song ông phải cẩn thận, Sa môn rất dẻo mồm, nổi tiếng là một nhà buôn, không khéo là bị mắc lừa ấy. 

 

Theo lời hướng dẫn, ngoại đạo mang đến nơi Tăng đang cư ngụ, dò hỏi : 

 

Ai có thể nhận may y cho tôi không ? 

 

Các Tỳ kheo nói không thể may được. Đương sự lại hỏi ngay Bạt Nan Đà : 

 

Tôi nghe Đại đức có nhiều y đã may xong, có thể đổi cho tôi một chiếc được không ? 

 

Bạt Nan Đà nói : 

 

          Các ngoại đạo của ông, tâm không dứt khoát, thay đổi xoành xoạch, đổi được rồi lại nói tốt, xấu lôi thôi. Nếu sau khi thoả thuận đổi rồi không được ì xèo thì tôi đổi cho. 

 

Ngoại đạo nói : 

 

Người ta thì có thể đổi ý còn tôi thì khác, chẳng phải nói tới, nói lui làm gì cho phiền ! 

 

          Như đắc ý vì ngoại đạo rơi đúng vào bẩy của Bạt Nan Đà. Bạt Nan Đà lấy ngay chiếc y cũ được làm mới bằng cách nhuộm lại trong nước nhớt kiếp bối, rồi nghè nén thật láng sát mặt trông như y mới may. Ngoại đạo nhìn thấy ưng ý chịu đổi vải lấy y. 

 

Đem về trong chúng ngoại đạo liền được đồng bạn hỏi : 

 

Đã may thành y chưa? Sao nhanh thế ông bạn ? 

 

Đương sự trả lời :

 

 Đã đổi được y rồi. 

 

Đâu đưa chúng tôi xem với? Đồng bạn hỏi. 

 

Đương sự liền đem ra trình làng. 

 

Các người ngoại đạo xem qua đều lên giọng trách : 

 

          Ôi cha !  Đem tấm vải quí giá mà đổi lấy cái y xấu tệ thế này, khờ sao là khờ !  So ra chêng lệch 5, 6 lần giá trị, đừng để bị thiệt, đổi lấy vải thôi. Chúng tôi sẽ cùng nhau bỏ công may cho bạn. 

 

Thế là người ngoại đạo kia liền mang y trả lại, nói với Bạt Nan Đà : 

 

          Ông là con nhà Thích tử tại sao khi lừa tôi, đem cái thứ y xấu tệ thế này đánh tráo người ta. Đổi lại cho tôi ngay !  Nếu không tôi rao truyền tiếng xấu của ông đó. 

 

Bạt Nan Đà cười nói : 

 

         Tôi biết tâm ngoại đạo không dứt khoát !  Hay nói tới, nói lui, tôi đã không muốn đổi kia mà !  Vì ông đã một lời dứt khoát cho nên tôi mới theo ý ông mà đổi. Tại sao bây giờ lại nuốt lời như vậy ? !  Ông về đi tôi không đổi lại đâu !

 

Ngoại đạo liền la lớn, rêu rao báng bổ Bạt Nan Đà. Các Cư sĩ nghe thế hỏi : 

 

Tại sao ông lớn miệng rêu rao như thế ? 

 

Ngoại đạo đem sự thể đã xảy ra phân bua cùng mọi người để chứng tỏ sự mạt sát của mình là đúng. 

 

Nghe chuyện, các Cư sĩ đều cơ hiềm chỉ trích thẳng thừng rằng : 

 

          Người đời mua bán qua sáu bảy ngày còn đổi được. Tại sao Sa môn mới trong chốc lát lại không cho người ta đổi lại là sao ?.  Hình thức ăn mặc có khác với người đời song mua bán thì quá hơn người !  Thật khốn nổi ! 

 

          Tiếng xấu ấy lan ra khắp nơi … Lại một lần nữa Bạt Nan Đà nhận tội và lắng nghe điều cấm từ kim khẩu Phật về việc làm sai trái này.  

 

Giới điều này được Phật nói ra tại thành Xá Vệ.

 

 

*+*+*+*+*+*+*+*+*+*

NHỮNG CHUYỆN QUANH GIỚI SÁT 

 

          Lúc bấy giờ đức Phật ở trong Tịnh Xá nơi thành Tỳ Xá Ly. Ngài dạy các Tỳ kheo tụ tập pháp quán  thân bất tịnh nếu muốn nhìn thấy kết quả lợi ích to lớn của nó. Các Tỳ kheo tinh tấn tu tập từ thô đến tế và càng đi sâu vào pháp quán thì càng nhìn thấy cái ghê tởm, gớm ghiếc của thân, nó giống hệt hình ảnh như vầy: Một thiếu niên tuấn tú ăn vận rất mực đẹp đẽ, thơm phức hương hoa. Bỗng dưng có ba xác chết trẻ sơ sinh quấn vào cổ cậu  ta. Máu, mũ, dòi…nhầy nhụa, nhun nhút, chảy, bò khắp người của cậu. Kinh tởm, hãi hùng, khổ sở hết chỗ nói, cậu ta mong sao chống thoát khỏi tấm thân khốn nạn này. Các Tỳ kheo với pháp quán ấy muốn thoát bỏ tấm thân gớm ghiếc của mình như ý nghĩ của thiếu niên kia. 

 

          Trong số những Tỳ kheo ấy, hoặc có vị tự sát, hoặc lần lượt từng mạng giết chết nhau, hoặc thắt cổ, hoặc uống thuốc độc… Có một Tỳ kheo quá chán ngấy thân, tìm lấy cái chết như vầy :  Thầy đến chỗ người Chiên đà la (làm nghề giết mổ) tên là Di lân cậy nhờ rằng :  Hãy vì tôi, ông đoạn mạng này đi, đây y bát tôi cho ông. 

 

Sẵn máu giết lại tham y bát, người Chiên đà la sẵn dao, lập tức chặt phức mạng sống Tỳ kheo ấy.  

 

          Bên bờ sông Mạt Bà Cầu, trong khi rửa cái dao đẩm máu kia, người Chiên đà la bỗng lòng đầy hối hận, trong ông nhóm lên ý nghĩ này :  Nay ta làm điều bất thiện, tại sao chỉ vì chút lợi nhỏ mà sát hại vị Sa môn trì giới, tội này trời không dung, đất không tha cho ta”. 

 

          Liền sau ý ngĩ này, có Thiên ma cõi Tự tại biết rõ tâm niệm thiện ấy, nhanh như chớp, từ dưới nước vọt lên, đứng trên mặt nước, sừng sững trước mặt Di lân với lời khen ngợi rằng : 

 

          Lành thay !  Ông đã được điều lợi lớn vì đã đoạn mạng vị Sa môn trì giới kia. Ông độ người chưa được độ, phước ấy vô lượng.Thiên thần ghi nhận điều đó nên ta đến báo tin cho ông biết. 

 

          Tâm thiện biến mất, Di lân nghe theo lời ma, trở thành tà kiến, ác độc, lòng lại vui mừng nói: Nay ta lại độ người chưa độ. 

 

          Người Chiên đà la ấy, giờ rất tinh tế biết rõ từng tướng trạng của các Tỳ kheo, thân nào đã nhàm chán, thân nào chưa nhàm chán thân. Nếu là Tỳ kheo phàm phu, chưa ly dục, khi đưa dao đến, thân họ sợ sệt, đó là người chưa nhàm chán thân, ta giết người này được phước quá ít. Nay ta nên tìm những vị đã đắc đạo quả là người không có sợ cái chết là gì. Với ý nghĩ như thế, tay cầm trường đao, người Di lân đi từ phòng này sang phòng kia, từ chỗ kinh hành này sang chỗ kinh hành khác rao vang rằng :  Ai muốn diệt độ, tôi sẽ độ cho”. Nghe thế, các Tỳ kheo nhàm chán, ê chề thân sát đều sẵng sàng tìm đến Di lân để nhờ đoạn mạng. Có ngày ông ta giết 10, 20 cho đến 60 vị. Với lý do như vậy, Tăng số càng giảm, nhất là các Đại đức Thanh Văn đều tuần tự vắng bóng. 

 

          Bấy giờ, đức Thế tôn từ Tam muội đứng lên, đến ngồi bên chỗ đất trống và ngồi vây quanh Thế tôn là đại chúng. Đức Phật quan sát Tăng chúng rồi hỏi Tôn giả Anan. 

 

Hôm này, Tăng chúng sao lại giảm số như vậy ? 

 

Tôn giả Anan bạch Phật : 

 

          Thưa Thế tôn , có một dạo, đức Thế tôn nói về lợi ích của pháp tu quán thân bất tịnh, qua tu tập, các Tỳ kheo chán ngán, ghét bỏ thân sát khổ đau này nên đã lần lượt tìm lấy cái chết dưới mọi hình thức khác nhau. Thậm chí chỉ trong một ngày mà người Di lân đành đoạn sát hại đến 60 vị phạm hạnh. Vì vậy, hôm nay Tăng số giảm nhiều như thế. Lành thay, đức Thế tôn ! Cúi xin Ngài chỉ cho con đường thiện pháp khác, khiến cho các Tỳ kheo trụ vững trong  an lạc. 

 

Đức Phật bảo Tôn giả Anan : 

 

Nay, ông thông báo cho các Tỳ kheo y chỉ nơi Tỳ Xá Ly này về hội họp tại nhà giảng đường. 

 

          Ngày ấy, Tỳ kheo về hội đầy đủ. Tôn giả Anan thỉnh Phật đến giảng đường. Ngài uy nghi ngồi vào pháp tòa. Ngài hỏi các Tỳ kheo về sự việc đã xảy ra và được toàn thể tăng xác nhận sự thật đau lòng ấy. 

 

          Đức Phật, bằng sự nghiêm khắc, Ngài dạy :  Các ông là người ngu si, làm việc phi pháp, các ông há không nghe ta nói :  để hộ niệm chúng sanh thì phải có lòng từ và sự kiên nhẫn, tại sao các không ghi nhớ điều này và sau khi nghiêm khắc quở trách, đức Phật bảo các Tỳ kheo : Nếu ai tự sát phạm tội Thâu lan giá. Ngài lại dạy: Từ nay về sau nên tu An ban niệm, quán Lạc Tịnh, quán Lạc Hỷ – Quán như vậy là trừ được các điều ác nếu có sanh ra. 

 

          Như vậy, từ nay, Tỳ kheo tự tay giết hại kẻ khác là phạm tội cực trọng bị loại ra khỏi hàng ngủ Tăng song nhưng sự việc sau đây cũng được qui kết tội cực trọng như thế. 

 

Lúc bấy giờ, có số đông Tỳ kheo mắc trọng bệnh. Các Tỳ kheo đến thăm hỏi: 

 

Bệnh tình của Đại đức có bớt không ?  Có đau đớn lắm không ? 

 

Tỳ kheo bệnh nói :  

 

Bệnh chắc khó lành, đau đớn không chịu nổi ! 

 

          Tỳ kheo bệnh lại van xin các pháp hữu: Đưa cho tôi con dao hay sợi dây, cho tôi thuốc độc, cho tôi thức ăn nào làm bệnh nặng thêm, đưa hộ tôi đến mé sông sâu… 

 

          Trước tình cảnh tuyệt vọng đó, yêu cầu của con bệnh được các Tỳ kheo đáp ứng. Tỳ kheo bệnh đã tự đoạn mạng mình bằng một trong các phương tiện trên. Chứng kiến cảnh chết này, các Tỳ kheo giúp phương tiện lòng đầy hối hận, đem việc này thố lộ với Tôn giả Anan để qua trung gian nhờ Phật chỉ dạy. Đức Phật đã nghiêm khắc quở trách việc làm này của Tỳ kheo và cấm ngặt hành động này. Tỳ kheo phạm bị loại ra khỏi Tăng. 

 

          Lại một trường hợp khác, cũng Tỳ kheo mắc bệnh cực nặng nhờ các Tỳ kheo đến thăm giúp cho các phương tiện để tự kết liễu như trên nhưng các pháp hữu đến thăm nói: Phật đã cấm làm sao chúng tôi có thể giúp thầy như thầy yêu cầu . Nhưng chúng tôi có người bạn làm nghề thợ săn, thầy có cần nhờ họ không ? 

 

          Tỳ kheo bệnh, nghe thế liền hối thúc :  Các thầy hãy mau mau gọi họ đến. Các Tỳ kheo đi ngay đến nhờ thợ săn, ngõ lời :  Này bạn !  Có Tỳ kheo bệnh quá nặng không muốn sống nữa! Bạn quen việc đoạn mạng bạn giúp cho việc này, đoạn mạng Tỳ kheo ấy bạn được phước lên !

 

Người thợ săn liền bảo : 

 

Nếu sát sanh được phước lớn thì chắc người mổ thịt ở lò sát sanh kia phước lớn lắm phải không ?  

 

          Nghe thế  các thầy tự nhủ: mình có lòng từ bi nay lại bảo gọi người giết. Mình tự giết với bảo người khác giết đâu có khác nhau chỗ nào ? !  Đã trót như thế, các thầy cảm thấy hối hận vô cùng. Tỳ kheo đem việc này thố lộ với Tôn giả A nan … 

 

          Đức Phật đã bổ sung sự nghiêm cấm này và nếu phạm, Tỳ kheo bị loại ra khỏi chúng tăng. 

 

          Một trường hợp nữa, cũng lại có Tỳ kheo bệnh quá nặng. Các Tỳ kheo khác đến thăm, thấy tình cảnh thương tâm như vậy nhưng chẳng biết làm gì hơn để giúp kết liễu sự sống kia. Nhưng cái điều thật tình này được nói ra như một lời đề nghị : 

 

          Giới hạnh của thầy thật toàn vẹn nên nhận lấy được cái phước của cõi thiên. Nếu chính thầy tự kết liễu mạng sống, chắc thầy được sanh lên cõi trời, chuyện gì thầy phải nhận lấy cái khổ đau triền miên thế này ? ! 

 

Tỳ kheo bệnh nói : 

 

          Sự việc sẽ là như vậy song dù có bị khổ đấy nhưng không thể làm việc tự sát. Ví sao thế ?  Vì nếu tự sát thì không những phạm tội Thâu lan giá mà còn không thể rộng tu phạm hạnh. Vị Tỳ kheo bệnh này còn xoay lại quở tráchcác Tỳ kheo đến thăm rằng :  Tự tay mình giết người với dạy bảo người tự giết đâu có khác chỗ nào ?   Đã là Tỳ kheo các thầy lại làm theo ác nghiệp này ư ! 

 

          Sự việc này đến tai các trưởng lão. Bằng mọi hình thức, các vị trưởng lão nghiêm khắc quở trách các Tỳ kheo kia. Sau đó, Các trưởng lão đưa các Tỳ kheo đến trước đức Phật, trình bày lên Ngài đầy đủ sự việc đã xảy ra. 

 

Đức Phật cho tập hợp các Tỳ kheo . Trước Tăng đức Phật hỏi các Tỳ kheo kia: 

 

Các thầy, thật sự có nói ra như vậy không ? 

 

Các Tỳ kheo kia thưa : 

 

Bạch đức Thế tôn, có đúng như vậy. 

 

Đức Phật đã không ngần ngại khắc quở trách : 

 

          Các thầy ngu si, tự tay giết người, huớng dẫn cho người tự kết liễu mạng sống có gì khác đâu. Sao lại không ý thức được điều này ? ! 

 

Giới điều sát lại được bổ sung để được rõ hơn. 

 

          Lại một trường hợp khác xảy ra, đó là đem lời ca ngợi, tán dương để người tự giết chết mạng sống của mình. Chuyện như vầy : 

 

          Các pháp hữu đến thăm Tỳ kheo bệnh nặng. Chứng kiến cái khổ sở, ngặt nghèo của chứng bệnh với nổi buốt đau, các Tỳ kheo đến thăm nói với Tỳ kheo bệnh lời khuyên như vầy : 

 

          Với chỗ đứng phạm hạnh của thầy, thầy chết chắc nhận được quả an vui ở cõi trời. Tại sao thầy không tự kết liễu mình đi để sanh thiên, lại cam chịu căn bệnh hành hạ triền miên như thế này ? 

 

Tỳ kheo bệnh nghe thế, gắng sức nói rằng : 

 

          Dù cho có được như vậy, tôi cũng không thể tự sát. Tại sao? Bởi vì đức Phật cấm tự sát, nếu tự sát phạm Thâu lan giá. Vã lại, khi được lành bệnh tôi còn có cơ hội tu phạm hạnh. 

 

          Cùng lúc ấy, ở một nước nọ, giặc giã tràn lan. Các gia đình cư sĩ bị nạn cốt nhục phân ly, khổ não không sao kể xiết hết. Trước tình cảnh này, các Tỳ kheo nói với các cư sĩ rằng : 

 

          Các người đã tu phước chắc chắn sẽ sanh thiên, tại sao không tự kết liễu cho xong lại cam sống trong nổi khổ cốt nhục chia lìa, đầy sầu não như vầy ? ! 

 

Các cư sĩ nghe thế có ý bất bình lên tiếng : 

 

          Chúng tôi tuy chịu nỗi khổ ưu não, phân ly, đứt ruột song không thể tự sát. Tại sao vậy ?  Vì ở đời có nếm trải khổ đau mới biết tu đạo nghiệp. 

 

Họ lại gay gắt quở trách rằng : 

 

          Đạo của Sa môn là đạo vì chúng sanh mà từ bi, nhẫn nhục. Tại sao lại khen ngợi sự chết, thôi thúc người tự sát ?  Tự sát hay khen ngợi, động viên sự chết có hơn kém gì đâu mà các thầy lại xúi dục ? 

 

          Các trưởng lão nghe việc này sau đó đưa sự việc lên đến Phật. Ngài nghiêm khắc quở trách, luôn đi đôi với điều răn cấm. 

 

          Giới điều sát đến đây được hoàn chỉnh như đã ghi ở trong luật. Càng phân tích lời lẽ càng thấy lời răn cấm chứa đầy lợi ích nếu người tu đạo biết vận dụng triệt để. 

 

 

*

*       *

NHỮNG MẪU CHUYỆN VỀ NÓI LÁO

 

          Trên đường du hóa, Đức Phật dừng lại ở thành Tỳ Xá Ly. Lúc bấy giờ gặp lúc mất mùa, nạn đói kém xảy ra. Việc khất thực của Tỳ kheo khó khăn vô cùng nếu không muốn nói là chẳng nhận được gì. Trước thời buổi như vậy, đức Thế tôn bảo các Tỳ kheo : 

 

Các thầy tùy theo chỗ quen biết nên đến đó an cư, đừng tập trung ở đây để chịu sự đói khát. 

 

          Được cho phép như thế, các Tỳ kheo chia nhau đến đó những địa điểm thích hợp. Một số đến nước Ma Kiệt, một số khác về các xóm làng ven sông Bà Cầu Mạt. Cạnh bờ sông này các Tỳ kheo họp lại, bàn bạc như vầy:

 

          Nay gặp lúc khất thực khó được, trong xóm làng này có những người thành tín, chúng ta nên khen ngợi nhau, như nói : Vị kia đắc sơ thiền, tôi cũng đắc sơ thiền. Vị kia đắc nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, bốn vô lượng xứ, bốn vô sắc định, tôi cũng đắc chứng như vậy. Vị kia chứng bốn niệm xứ cho đến tám chánh phần, ba giải thoát môn, tôi cũng được như vậy. Vị kia được tám giải thoát, chín cấp bậc định, mười nhất thiết nhập, mười trực đạo, tôi cũng được như vậy. Vị kia Chứng Kiến tín, Kiến pháp, bốn quả Sa môn, Tam minh, Lục thông, tôi cũng Chứng được như vậy. Chúng ta cứ khen nhau như vậy, cư sĩ nghe ắt sanh lòng cảm phục nhiều hơn. Họ sẽ vui mừng nói lên cảm nghĩ rằng :  Chúng ta được nhiều thiện lợi mới có những vị đắc Thánh đạo như vậy an cư nơi ấp chúng ta. Từ đó họ sẽ mua sắm các thứ ngon bổ cúng dường Sa môn chúng ta không thiếu thốn, chúng ta sống trong an lạc. 

 

          Giải pháp được hình thành như thế, các Tỳ kheo đi thẳng vào thành chia nhau đến các nhà giàu có, ca tụng nhau những điều như trên. Các thầy còn nói với họ rằng : 

 

Quí vị được điều lợi lắm, ruộng phước của Thánh chúng đã đến với xóm làng của quí vị rồi đó. 

 

          Các cư sĩ nghe thế, lòng dạ rộn rã niềm vui, hân hoan với sự việc chưa từng gặp này. Họ đồng loạt giảm chi dụng trong gia đình, bỏ qua việc cúng kỵ, không bố thí cho ai, chỉ dồn hằng tâm, hằng sản vào việc cúng dường an cư. 

 

          Mùa an cư ở đây qua nhanh. Theo thường pháp của chư Phật thì trong hai kỳ đại hội vào cuối tháng mùa Xuân và mùa Hạ, tất cả Tỳ kheo khắp mọi nơi đều phải về thăm hỏi nhau. Các Tỳ kheo nước Ma Kiệt Đà an cư xong, thân thể ốm yếu, gầy guộc, về trước, họ vào thăm Phật, đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng lui qua một bên. Cũng theo thường pháp, đức Phật hỏi thăm, an uỷ Tỳ kheo từ nước Ma Kiệt về :  Các thầy an cư có hoà hiệp ?  Khất thực có dễ được ?  Trên đường đi có vất vả lắm không ? 

 

Các Tỳ kheo thưa : 

 

Chúng con an cư hòa hợp, trên đường đi không mấy vất vả, chỉ có việc khất thực là khó khăn. 

 

           Sau đó, đức Phật vì họ, từng vấn đề nói về diệu pháp, chỉ bày sự lợi ích của hoan hỷ. Các Tỳ kheo theo đó có được chỗ đứng của mình trong an lạc. 

 

           Ngược lại, các Tỳ kheo an cư bên sông Bà cầu Mạt thân thể mập khoẻ, sung túc, đến trước Phật, đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng lui qua một bên. Theo thường pháp, đức Phật thăm hỏi, an  uỷ các Tỳ kheo những vấn đề đã đề cập. Các Tỳ kheo bạch : 

 

Chúng con an cư hoà hiệp, khất thực rất dễ dàng, trên đường đi không mấy mệt nhọc. 

 

Đức Phật liền hỏi : 

 

Hiện nay nơi đâu cũng mất mùa khất thực khó được, tại sao các thầy nói khất thực dễ là sao ? 

 

Các Tỳ kheo bạch Phật : 

 

Dễ là vì chúng con ca ngợi với nhau về chỗ chứng đắc của mình. Nhờ ruộng phước đó mà cư sĩ cúng dường đầy đủ. 

 

Đức Phật liền hỏi : 

 

Những điều các thầy ca ngợi với nhau là sự thật hay là hư dối ? 

 

Các Tỳ kheo bạch : 

 

Sự thật, có mà hư vọng cũng có. 

 

Đức Phật quở trách nặng nề sự hư dối này, Ngài nói : 

 

          Các thầy làm điều phi pháp, không hợp đạo lý. Người xuất gia không nên làm như vậy! Thà nuốt viên đá nung đỏ hay uống nước đồng sôi còn hơn dùng lời hư dối mà ăn của tín thí. Các thầy há không nghe Ta chê trách tội vọng ngữ, và bằng nhiều hình thức khen ngợi cái đức không nói lời dối trá đó sao ? !  Tại sao, nay các thầy lại vì lợi dưỡng mà dối tránói chứng được pháp hơn người. 

 

Đức Phật lại quở trách các Tỳ kheo : 

 

Ở đời có Năm hạng người được liệt vào loại giặc lớn : 

 

-.  Một là hạng người làm chủ 100 đến 1000 người đi phá thành ấp, xóm làng hại người lấy của. 

 

-.  Hai là có ác Tỳ kheo dẫn các Tỳ kheo du hành trong nhân gian nói pháp tà mạng. 

 

Ba là có ác Tỳ kheo , đối với các pháp do Phật thuyết là tự xưng là do họ nói ra. 

 

-.  Bốn là có ác Tỳ kheo không tu phạm hạnh. Lại tự nói ra là tu phạm hạnh. 

 

-.  Năm là có ác Tỳ kheo vì lợi dưỡng, không có pháp hơn người lại tự xưng là sở đắc pháp ấy. 

 

          Hạng giặc thứ năm này được liệt vào hạng gặc lớn nhất, tột cùng nhất của thế gian, của Thiên, Nhơn, Ma phạm, Sa môn, Bà la môn. Tại sao các thầy chỉ vì một chút lợi dưỡng mà can tâm làm kẻ đại tặc này ? ! 

 

Trước Tăng, sau khi quở trách rồi, Phật chế giới cấm như đã ghi trong tạng luật. 

 

Sau đây là các trường hợp xảy ra liên hệ dẫn đến bổ sung giới điều trên. 

 

          Lúc bấy giờ, đức Phật ở tại thành Xá Vệ. Nơi đây có một số đông Tỳ kheo hạn chế việc nghe , học, không hỏi ai, không có pháp hơn người nhưng lại tự cho rằng mình biết, mình thấy, mình chứng. Một thời gian sau, có dịp nghe các Tỳ kheo giảng luận về trạng thái đắc đạo, chưa đắc đạo, các Tỳ kheo ít hiểu biết kia mới nhận ra cái sai trái đắc đạo của mình. Lòng các thầy đầy xấu hỗ, dẫn đến có suy nghĩ này :  Trước đây,  chúng ta chưa đắc đạo mà mạo nhận là đắc đạo, lẽ ra ta phạm tội Ba la di, bị loại bỏ ra khỏi tăng chúng. Lòng hối hận này cứ dằn vặt các thầy. 

 

          Lại có trường hợp rơi đúng trường hợp trên nhưng về sau các Tỳ kheo thiếu học…này lại có cơ hội học rộng kinh điển. Bởi thế mà lòng các thầy đầy hổ thẹn, hối tiếc cho việc mạo nhận đắc đạo của mình. Các thầy có suy nghĩ: Như chỗ hiểu biết của ta đối với Phật pháp hiện nay thì rõ trước kia ta chưa đắc đạo mà dưng dưng tự cho là đắc đạo là Tăng thượng mạn. Lẽ ra ta phạm cái tội rất nặng bị đuổi ra khỏi tăng chúng (Ba la di). Lòng của các thầy này cứ trăn trở với tội lỗi của mình. 

 

          Lại xảy ra một trường hợp tương tự, trùng lặp như trên. Về sau vị kia tu suốt phạm hạnh, sở đắc được đạo quả. Thầy ngước nhìn lại, lòng thầy len lén bao điều xấu hỗ và rồi sự xấu hỗ ấy lại cất lên lời tự thú rằng: “Trước đây ta chưa đắc đạo lại dưng dưng cho là đắc đạo, là Tăng thượng mạn”. Lẽ ra ta phạm tội Ba la di, cái tội bị đuổi ra khỏi tăng chúng. Tội lỗi này trở thành nổi ám ảnh trong tâm hồn của Vị tu này. 

 

          Các trường hợp trên, qua trung gian của Tôn giả Anan , sau cùng được trình lên đức Phật. Trước toàn thể Tăng, từng trường hợp, đức Phật hỏi các Tỳ kheo : 

 

          Thật sự thầy có mạo nhận như vậy không ? 

 

          Tỳ kheo thưa : 

 

          Sự thật là đúng như vậy. 

 

          Đức Phật bảo các Tỳ kheo :         

 

Có năm hạng người làm cho pháp hơn người nổi bật lên :  

 

1.- người ngu si,

2.- người loạn tâm,

3.- người chạy theo xấu ác,

4.- người Tăng thượng mạn,

5.- người thật có pháp hơn người. 

 

          Nếu ngu si, loạn tâm, chạy theo xấu ác, Tăng thượng mạn và thật có pháp hơn người mà nói ta chứng được pháp ấy thì phạm Ba la di, điều này không thể xảy ra. 

 

          Đức Phật chế giới cấm này, nguyên văn có ghi trong tạng.

 

*

*       *

SỰ VIỆC ĐIỀU ĐẠT PHÁ HÒA HỢP TĂNG

 

          Nhận lời mời của Long Vương, đức Thế Tôn cùng các Đại đức Thanh văn đến A Nậu Đạt. Điều Đạt chưa sở đắc Thần thông nên không thể đi cùng. Điều này đã làm cho Điều Đạt xấu hổ vô cùng, do vậy, nảy sanh ý nghĩ :  “ Nay ta cần phải tìm học pháp tu Thần thông”. Trước hết, Điều Đạt đến bạch Phật : 

 

Cúi xin Phật hãy vì con dạy cho pháp tu Thần thông. 

 

Đức Phật hướng dẫn. Điều Đạt thọ giáo và trong thời gian an cư Điều Đạt đắc Thần thông. 

 

          Sau khi đắc Thần thông Điều Đạt nghĩ ngay đến việc khuếch trương thanh thế. Vấn đề giáo hoá được đặt ra và ai là người cần giáo hóa trước ?  Điều Đạt nghĩ ngay đến Thái tử Chúng Lạc con vua Bình Sa. Đối tượng đã được xác định, lập tức Điều Đạt mất dạng khỏi Võng Lâm… 

 

          Trên giường của Thái tử, Điều Đạt hiện thành một đứa trẻ nít nằm ngữa, mút ngón tay. Thái tử thấy thế vô cùng hoảng sợ, hỏi :  Mi là trời hay là quỉ thần ? 

 

Đứa trẻ trả lời: tôi là Điều Đạt, đừng nên sợ chi cả ! 

 

-.  Nếu là Điều Đạt thì nên hiện nguyên hình trở lại. Thái tử bảo thế. 

 

          Đứa bé liền biến thành Điều Đạt, đầy đủ oai nghi như cũ. Thái tử hoan hỷ trước sự biến hoá của thầy mình. Tâm niệm kính phục càng lên cao, hằng ngày Thái tử đích thân đến thăm hỏi, theo liền sau là 500 chiếc xe. Điều Đạt lại hóa 500 đứa trẻ nằm ngữa, mút ngón tay trên mỗi chiếc xe. Thái tử lại dùng 500 chiếc xe chở từng loại thức ăn động, thực vật sang trọng ngon lành đến cúng dường … 

 

          Bấy giờ, người các nước không ai là không đồn ầm lên rằng :  Điều Đạt có đại thần lực nên mới biến hóa được như vậy. Vì thế khiến Thái tử Chúng Lạc ngày nào cũng đến thăm hỏi, cúng dường quá nhiều các loại thức ăn ngon bổ cho Điều Đạt. 

 

          Về phía Điều Đạt đã không tự lượng sức mình nên cứ làm theo ý muốn chiêu dụ, bảo bộc, nuôi dưỡng đồ chúng. Thanh thế lên như diều gặp gió. 

 

          Vào thời gian ấy, đức Phật rời Võng Lâm đi vào nhân gian hành du hóa độ. Ngài đến nước Câu Xá Di, trú ngụ trong vườn Cù Sư La. Riêng Mục Liên đi theo Phật đã an trú ở một nơi hoang vắng tịch mịch. 

 

          Tại nước này, trước đây có con của Kiều Trần như tên là Kha Hưu, tịnh tu phạm hạnh đắc quả A Na Hàm sau sanh lên cõi trời Phạm Thiên. Nửa đêm vắng lặng, vị này từ cõi trời xuống, phóng ra ánh sáng rực rỡ, đến chỗ Mục Liên, đầu mặt kính lễ sát chân rồi có lời thưa báo với Mục Liên như sau: Nay Điều Đạt giáo hóa Thái tử Chúng Lạc, hiện các thân thông biến hóa. Tuy vậy, trong thâm tâm Điều Đạt có điều lo sợ nên quyết định chiêu dẫn, nuôi dạy đồ chúng với ý đồ phá hòa hiệp Tăng. Vừa dứt lời thưa, Kha Hưu nhanh như chớp biến mất. 

 

          Trời vừa sáng, Mục Liên y phục chỉnh tề đến thẳng chỗ đức Phật, trình bày lên Ngài cặn kẽ hành động của Điều Đạt mà Kha Hưu đãthưa báo. 

 

Đức Phật hỏi Mục Liên : 

 

Ý ông thế nào ?  Có nên xem xét lời của Kha Hưu thưa báo hay không ? 

 

-.  Ý con là nên như vậy. Mục Liên thưa. 

 

          -.  Không nên nói lời ấy, tại sao vậy ?  Vì khắp thế gian nầy Ta không thấy Sa môn, Bà la môn, Chư Thiên, Ma phạm nào có thể thống lãnh đồ chúng của Phật .  

 

Đức Phật lại bảo Mục Liên : 

 

-.  Ở đời có 5 hạng thầy, hiện nay đều có đủ, đó là : 

 

          1..     Giới không thanh tịnh, tự nói thanh tịnh. Các đệ tử của họ đều biết rõ sự thật này nhưng che giấu tội lỗi của thầy để mong cầu lợi dưỡng.

 

          2.-     Tà mạng, Siễm Khúc, tự nói mình chánh trực. Các đệ tử cũng che giấu điều đó.

 

          3.-     Nói điều bất thiện lại tự cho là lời nói thiện nên các đệ tử vui mừng cho là thiện.

 

          4.-     Hiểu biết không thanh tịnh tự nói là thanh tịnh cho nên các đệ tử hết lời ca tụng rằng sự hiểu ấy là trong sạch.

 

          5.-     Nói lời không phải pháp luật lại nói là pháp luật nên các đệ tử cũng hùa theo nói là đúng pháp, vì thế đã không thể thuyết phục được kẻ trí chấp nhận tin theo. 

 

          Này Mục Liên !  Giới của Như Lai thanh tịnh, không có Siễm Khúc, đâu nói lời bất thiện, chỗ thấy, chỗ hiểu biết thanh tịnh, điều nói ra như pháp, kẻ trí chấp nhận tin theo, không cần đệ tử hùa theo che giấu và khen ngợi. 

 

          Cũng trong thời gian ấy, nguồn thông tin khác đến từ thành Vương Xá đó là các Tỳ kheo sau an cư về thăm Thế Tôn. Các thầy bạch lên Phật sự việc Điều Đạt giống như Kha Hưu đã thưa báo với Mục Kiền Liên. Đức Phật dạy : 

 

          Này Tỳ kheo !  Đừng ham muốn theo kiểu Điều Đạt làm các biến hóa đó … đến cả lợi lộc cúng dường. Sự cung kính cúng dường ấy nếu có, nó sẽ càng làm tăng gánh nặng tối tăm, thống khổ mà thôi! Cũng như con chó dữ, dùng gậy đánh nó thì chỉ càng làm cho nó hung dữ hơn lên. Điều Đạt cũng như vậy, nhận được nhiều phẩm vật cúng dường thì phiền não càng nhanh chóng gia tăng. Đức Phật vì muốn làm rõ ý nghĩa này nên lập lại vấn đề bằng lời Kệ cô đọng như sau : 

 

Người ngu ác họ Tăng

Ác sanh tử lợi dưỡng

Người si đoạn pháp lành

Như đầu lìa khỏi thân

Không tu thanh tịnh hạnh

Lại muốn chiêu dụ Tăng

Muốn ngồi trên mọi người

Vọng cầu mọi kính qui

Có người cầu lợi dưỡng

Có người cầu Niết Bàn

Lợi dưỡng hại pháp lành

Tịch diệt trừ xan tham. 

 

          Đức Phật lại bảo các Tỳ kheo : Cây chuối, cây trúc, cây lau do kết trái mà chết. Con Cự Lư mang thai cũng bỏ mạng. Nay Điều Đạt tham cầu lợi dưỡng cũng lại như vậy. Đức Phật lại đúc kết nhấn mạnh vấn đề này bằng lời Kệ : 

 

Do buồng cây chuối chết

Do trái trúc, lau diệt

Cư Lư chết vì thai

Kẻ sĩ mất vì tham. 

 

          Tiếp tục du hóa, đức Phật rời nước Câu Xá Di du hành trên quảng đường dài về thành Vương Xá. Nơi đây, Ngài trú ngụ trong núi Kỳ Xà Quật. Ngài được các Tỳ kheo, Tỳ kheo ny, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Quốc vương, đại thần, Sa môn, Bà la môn, Phạm chí, Cư sĩ, cung kính, tôn trọng, tán thán và cúng dường thức ăn, y phục, đồ nằm, thuốc men … Giữa bao lợi dưỡng này, Ngài như hoa sen không hề đắm trước. Lúc bấy giờ, giữa một rừng người đủ mọi giai cấp vây quanh lắng nghe Phật thuyết pháp. Chợp lấy cơ hội, Điều Đạt từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, để trống vai bên phải, đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật rồi quì gối chấp tay bạch Phật : 

 

          Kính bạch đức Thế Tôn, cúi xin Ngài hãy sống trong sự an lạc mà hôm nay cho phép con được lãnh đạo, xử lý việc Chúng Tăng.  

 

Đức Phật nói với Điều Đạt : 

 

          Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên còn có thể chưa thống lãnh đồ chúng của Ta, huống chi ông làkẻ ngu si chẳng khác nào loại đờm giải. 

 

          Bị quở trách như vậy, Điều Đạt lòng đầy phẩn hận lại nghĩ suy: Tại sao đức Thế Tôn đối trước đại chúng lại nhục mạ ta thậm tệ như thế! Với ác tâm này sanh ra nhằm vào đức Phật nên Điều Đạt bắt đầu tổn giảm thần túc. Điều Đạt lại nghĩ rằng: Đức Phật khen ngợi Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên mà nhục mạ ta. Lần nữa, Điều Đạt sanh ác tâm đối với Xá Lợi phất và mục Kiền Liên, nên thần túc của Điều Đạt lại bị tổn giảm lần thứ hai. Điều Đạt trở về nơi cư ngụ của mình. Điều Đạt lại thuyết pháp. Vây quanh nghe có quốc vương và đông đảo quần chúng. Có một Tỳ kheo tham dự buổi thuyết pháp này đến bạch lên Phật những điều mắt thấy tai nghe. Đức Phật bảo : 

 

          Nầy Tỳ kheo !  Điều Đạt không những đời này có được đại chúng mà đời quá khứ đã từng có được số đông Tỳ kheo vây quanh. Đời quá khứ xa xăm ấy, có một Ma nộp ở trong hang núi, tụng sách Sát lợi. Một con cáo đồng ở sát cạnh đó đã chuyên chú nghe tụng sách này nên trong tâm có được diều tỏ ngộ. Cáo đồng qua sự tỏ ngộ đã nói lên như vầy :  “Như chỗ ta hiểu lời văn trong sách này thì đủ để làm vua trong các loài thú”. Với ý niệm ấy, cáo đồng liền lên đường. Trên đường du hành, gặp một con cáo đồng khác gầy yếu, nó muốn giết đi. Con cáo kia nói: Tại sao giết tôi ! 

 

-.  Ta là vua loài thú ngươi không thần phục ta thì bị giết ngay. Cáo đồng vua bảo thế. 

 

-.   Xin ông đừng giết tôi, tôi xin làm kẻ tùng phục ông. Cáo kia vang lời. 

 

          Thế là hai con cáo lại tiếp tục lên đường. Lại gặp một con cáo khác và sự việc xảy ra giống như con cáo yếu đuối trước đây. Cả ba lại lên đường. Cứ như thế trên đường cáo đồng vua đi qua nó hàng phục được tất cả loài cáo. Sau đó sử dụng bầy cáo của mình để hàng phục loài voi. Lại dùng loài voi hàng phục tất cả họ hàng nhà cọp. Lại dùng loài cọp hàng phục tất cả sư tử. Con cáo đồng kia, lâm thời làm vua trong các loài thú. Đã được ngôi vua rồi lại nảy sanh ý nghĩ :  Nay ta đã là vua trong loài thú thì không nên lấy loài thú làm vợ. Nó nghĩ ngay đến con gái vua nước Ca Di. Nó phải hàng phục vua để được công chúa. 

 

          Ngồi trên lưng con voi chúa trắng cáo ra lệnh xuất binh, các binh chủng thú đồng loạt vây hãm thành Ca Di đến ngàn vòng. 

 

Nhà vua đứng trước sự uy hiếp kinh hoàng này liền sai sứ đến hỏi : 

 

Các ngươi là loài thú, tại sao lại hành động như vậy ? 

 

Cáo đồng vua liền trả lời : 

 

          Ta là vua các loài thú, nên cần cưới con gái nhà vua. Nếu ông thuận ý ta thì hữu hảo, bằng không, ta sẽ tiêu diệt nước ông. 

 

          Sứ thần về báo cáo với vua sự việc khốn nạn như thế. Nhà vua liền triệu tập quần thần để nghị bàn cùng tìm ra một giải pháp. Y kiến gả công chúa cho vua cáo chiếm đại đa số. Với lý giải hèn kém như vầy :  Bởi lẽ, quốc gia chỉ dựa vào sức mạnh của voi, ngựa. Ta có đủ voi, ngựa mạnh trong sức mạnh này sẽ bị đè bẹp bởi sức mạnh sư tử của đối phương. Voi, ngựa chỉ cần nghe rống khí của sư tử run rẩy, bò mộp. Do vậy, cuộc chiến không thắng được, đất nước sẽ bị loài thú tiêu diệt. Sao lại tiếc một công chúa, không chịu gã để cho nước nhà bị tiêu vong ? ! 

 

          Đứng trước lập luận này, độc nhất có  một vị thần phản đối. Vị thần thông minh, mưu lược này tâu với vua rằng : 

 

          Xưa nay, thần chưa hề nghe thấy có mọt con gái của nhà vua nào đem gả cho loài thú thấp hèn cả. Thần tuy yếu đuối nhưng thần xin quyết giết cho kỳ được con cáo chủ soái kia, như thế là phá tan được hàng hàng, lớp lớp thú đang vây hãm thành Ca Di. 

 

Nhà vua hỏi :  Mưu kế ra sao, khanh đề xuất cho trẫm rõ ? 

 

          Nhà vua sai sứ hẹn chúng ngày đánh nhau và trước khi giao chiến yêu cầu vua thú chấp nhận một điều là ra lệnh sư tử đánh trước rồi mới rống sau … Và để khắc phục chỗ yếu này của quân ta thì ngày ấy nhà vua sắc lệnh cho các thứ quân nhét kín lỗ tai lại. Vị đại thần ấy đề xuất. 

 

          Nhà vua chấp nhận ngay đề xuất này và cho thi hành ngay mưu kế thông minh của vị đại thần kia. 

 

          Vua cáo khi nhận được điều kiện để đánh nhau thì đắc ý lắm, tự nghĩ : “ Đánh trước rống sau” hay “Rống trước đánh sau” ? 

 

          Đến ngày hẹn đánh nhau, các thứ quân thứ hai bên giàn trận thật lẫm liệt. Vua cáo ngồi bên bạch tượng thật oai phong, đến giờ, vua cáo (ranh mảnh) ban lệnh, lệnh cho toàn bộ sư tử rống lên trước rồi mới giáo chiến. Tiếng rống sư tử rống lên như sét đánh giữa trời. Nghe tiếng rống ấy, con cáo đồng vĩ đại kia tim vỡ làm 7 mảnh ngã nhào từ lưng voi xuống đất chết không kịp ngáp. Và cũng tiếng rống của binh chủng” sư tử làm cho các binh chủng khác khiếp cả hồn vía. Nhanh chóng các loài thú khác tán loạn, bôn tẩu. 

 

Nhân việc này, đức Phật nói Kệ : 

 

Cáo đồng lắm kiêu mạn

Muốn tìm cầu vây cánh

Kéo đến thành Ca Di

Tự xưng là vua thú.

Người kiêu mạn cũng vậy

Muốn thống lãnh đồ chúng

Nên tại Ma Kiệt Đà

Tự xưng là pháp chủ. 

 

          Đức Phật bảo các Tỳ kheo  :  Vua Ca Di thuở ấy, nay chính là Ta. Vị đại thần thông mẫn ấy, nay chính là Xá Lợi Phất. Vua cáo đồng kia là Điều Đạt hiện nay. 

 

          Nầy, các Tỳ kheo !  Xưa kia Điều Đạt dối trá để được thuộc hạ, vây cánh, thì nay cũng chẳng khác nào.  

 

          Nầy, Xá Lợi Phất !  Ông nên đến trong chúng của Điều Đạt công bố lời này :  Ai chấp nhận Năm pháp của Điều Đạt thì người ấy sẽ không thấy Phật , Pháp, Tăng”. 

 

Tôn giả Xá Lợi Phất thưa : 

 

Xưa kia, con đã từng khen ngợi Điều Đạt , làm sao nay con lại chê bai được ? 

 

Đức Phật lại hỏi : 

 

Trước kia ông khen ngợi là đúng sự thật hay không ? 

 

-.  Thưa ngài là đúng sự thật. Xưa Lợi Phất đáp. 

 

-.  Nay, Điều Đạt là người đáng chê, ông chê cũng là đúng sự thật. Phật dạy Xá Lợi Phất. 

 

          Đức Phật bảo các Tỳ kheo : Nay, nên bạch nhị Yết ma sai Xá Lợi Phất  đến trong chúng của Điều Đạt tuyên bố lời chê trách này. 

 

          Tăng thi hành lời Phật dạy và Xá Lợi Phất thi hành đúng mức Yết ma tăng sai. Giữa chúng của Điều Đạt, Xá Lợi Phất dõng dạc tuyên bố :  Nếu vị nào chấp nhận Năm pháp của Điều Đạt thì sẽ không thấy Phật, Pháp, Tăng. 

 

Nghe Yết ma này, hội chúng của Điều Đạt phản ứng ngay, họ nói lớn : 

 

          Sa môn Thích tử lại ganh ghét với nhau, thấy Điều Đạt nhận được nhiều phẩm vật cúng dường nên ganh ghét nói như vậy mà thôi. 

 

          Tuy nhiên, vua Bình Sa cũng ở trong hội chúng này lại tuyên lệnh rằng: Đừng nên nói lời ấy. Tại sao vậy ?  Bởi lẽ Chúng đệ tử Phật thanh tịnh, không hề có sự ganh ghét như  thế. 

 

Để cắt ngang việc này, Điều Đạt hỏi trong chúng rằng : 

 

Ai muốn thấy hoa Mạn Đà La trên cõi trời ? 

 

Cả chúng đồng thanh: Muốn thấy ! 

 

          Trước hội chúng, Điều Đạt biến mất dạng … Bên ao trên trời, trong ý niệm ham thích bẻ lấy hoa Mạn Đà La, Điều Đạt liền mất sạch thần túc. 

 

          Trở về lại vị trí cũ, không một cành hoa lại mất luôn thần túc, Điều Đạt sanh ác tâm muốn hại đức Phật và ý đồ này được giàn trải trên một diện rộng. 

 

          Điều Đạt đặt vấn đề với Thái tử Chúng Lạc :  Nay phụ vương của ông là vua Bình Sa cai trị bằng chánh pháp, theo chỗ tôi hiểu thì triều đại của vua cha khó suy tàn. Mạng người vô thường, khó bảo đảm được hơi thở sau. Tại sao cái vương vị này lại phải kéo dài thời gian để Thái tử phải chờ đợi lâu như vậy ?  Ông có thể mưu đồ sớm chiếm lấy ngôi vua mà nắm lấy bốn biển. Phần tôi, tôi sẽ hại Phật, thay thế ngôi Pháp vương. Trong nước Ma Kiệt Đà này sẽ có vua mới, Phật mới, chúng ta đủ cơ hội để cùng nhau hoằng hóa đạo, đời. Há đây không là điều tốt sao ? 

 

Thái tử trả lời : 

 

Công ơn cha mẹ lớn hơn trời đất. Công ơn nuôi dưỡng trời bể ấy tôi muốn báo đền nhưng chưa đền đáp được, tại sao, nay thầy lại chỉ lối cho tôi làm điều nghịch ác như vậy ! ? 

 

          Điều Đạt nghe thế mà lòng vẫn không biết xấu hổ cứ dùng lời điêu ngoa, xảo quyệt để khuyên dụ Thái tử, nhận chìm Thái tử trong sự mê muội tối tăm, lần lựa làm cho Thái tử mù quáng xiêu lòng mất tự chủ để trở thành con cờ điều động của Điều Đạt. 

 

          Ngày nọ, Thái tử bí mật mang gươm đi vào cửa vương cung. Vì ôm lòng ác độc, phản nghịch nên bất giác bị giằng xé hoảng sợ, lảo đảo té nhào trước vương cung rồi tự gượng đứng lên. Quan giữ cửa thấy vậy sinh nghi, trí ông nhanh chóng giải mã tín hiệu rằng :  Thái tử thường vào đây với oai nghi đỉnh đạc, tại sao hôm nay lại có hiện tượng như thế, chắc có lý do gì ? Quan giữ cửa vội vàng đến hỏi thì được Thái tử trả lời không chút do dự rằng : 

 

Tôi muốn giết vua cha nên mới như thế nầy !  

 

-.  Ai xúc giục Thái tử làm phản ?  Quan giữ cửa hỏi. 

 

-.  Điều Đạt. Thái tử đáp lời 

 

Các quan giữ cửa liền họp lại bàn định : 

 

Nên giải quyết sao đây ? 

 

-.  Nên giết sạch Sa môn và Thái tử Chúng Lạc. Quan thứ nhất nêu ý kiến.   

 

          -.  Trước đây đức Phật sai Xá Lợi Phất tuyên bố sự ác nghịch của Điều Đạt, tại sao lại muốn giết hết Sa môn ?  Chính tội này chỉ có Điều Đạt và Thái tử chịu trách nhiệm. Đó là ý kiến của vị quan thứ hai. 

 

          -.  Chúng ta không nên vội phán quyết tội này, cần phải tâu lên nhà vua. Nhà vua có sắc giáo, Ta sẽ thừa lệnh thi hành. Vị quan thứ ba đề nghị như thế. 

 

Chung quyết lại, các quan giữ cửa thống nhất tấu trình việc này lên nhà vua. 

 

Nghe tấu trình nhà vua không chút biến đổi, lại hỏi : 

 

-.  Chư thần !  Đối với việc này, ý kiến của các ông giải quyết sao ra đây ? 

 

          Các quan liền trình bày đầy đủ ý kiến đã thảo luận. Nhà vua liền đuổi quan có ý kiến thứ nhất, di chuyển vị quan thứ hai và trao thêm quyền hạn cho vị quan đề xuất ý kiến thứ ba. Nhà vua lại cho triệu tập quần thần để lấy ý kiến về việc nầy. Các quan đều có nhận định chung rằng: Vị quan đề xuất ý kiến thứ hai là hợp lý mà nhà vua còn di chuyển địa vị, xem thế thì rõ thánh tâm của Vua, Vua không nhẫn tâm nhìn thấy sự sát hại. Với hình phạt chính đã không áp dụng thì phải dùng hạ kế. Các quan nói :  Người thừa kế ngôi vua không ai ngoài Thái tử. Nay Thái tử muốn tiếp nhận sớm ngôi vua ấy nên mới làm phản nghịch. Nên trao ngay ngôi vị vua cho Thái tử thì hy vọng ác tâm kia sẽ chấm dứt. Y kiến này hợp với lòng Vua, Vua liền thoái vị truyền ngôi cho Thái tử, với vương hiệu A Xà Thế. 

 

          Buổi đầu ở ngôi vua, A Xà Thế thụ hưởng 5 thứ dục lạc nên tâm sát nghịch vua cha tạm thời quên đi nhưng sau một thời gian ngắn, tâm ấy lại bị tác động khởi lên, cho dù không có việc gì xảy ra, A Xà Thế vẫn hãm hại phụ mệnh nơi lao ngục. 

 

          Bấy giờ, Vua A Xà Thế có một con voi rất hung hãn. Điều Đạt bí mật đến gặp người nài voi ấy với lời đề nghị đầy áp lực rằng: Ngày mai Cù Đàm sẽ đi qua con đường này. Ong vì tôi phục rượu cho con voi thật say, rồi thả nó ra nơi đoạn đường ấy. Phật với tâm nhiều kiêu ngạo ắt sẽ không tránh nó, do đó, voi say dày đạp chết. Tôi sẽ hậu tạ ông nếu có kết quả. 

 

          Sáng hôm sau đến giờ khất thực, đức Phật đắc y, trì bát cùng 500 đệ tử vào thành. Từ xa đã trông thấy Phật, người nài voi liền thả con voi đã say mèm ra đường. Nhìn thấy hiện tượng bất thường này, những người có lòng tin, yêu mến Phật pháp, sợ Phật bị voi hại, liền hối hả đến trước bạch Phật : Cúi xin Thế Tôn nên đi con đường khác. 

 

500 đệ tử và A-nan khi nhận được thông tin cũng đều bạch Phật như vậy. 

 

Song ba lần thưa thỉnh của đệ tử, Phật đều trả lời : 

 

Không can chi !  Rồng còn không hại ta huống nữa là voi. 

 

          Các đệ tử thấy Phật từ chối, họ đều đâm hoảng và do phản xạ tự nhiên, họ đều rời Phật đi sang đường khác chỉ một tôn giả A nan đi theo hầu sát Phật mà thôi. 

 

          Lúc ấy, người hiếu kỳ càng lúc càng đông dần, từng nhóm đông khác nhau: Nay hai con rồng thử sức, xem con nào hơn. Nhóm ngoại đạo thì nhận định: Voi, rồng sức đều mạnh nhưng phần thắng chắc là voi thôi. Hàng Phật tử thì nói: Người rồng, đạo cao đức trọng, chắc hàng phục được voi. Hãy đợi đấy. 

 

          Lời qua tiếng lại suông chẳng ích gì họ lại cá nhau bằng tiền và chờ kết quả ăn thua. Họ chờ đợi đến nghẹt thở … 

 

          Hai sức mạnh như đang tiếp cận nhau. Con voi say, từ xa đã nhìn thấy Phật cứ thẳng tiến về nó. Nó đập tai, cất cao vòi như tạo ra một sức gió mạnh xông thẳng về phía đức Phật. Tôn giả A Nan hoảng hốt, khiếp sợ bất giác chui ngay vào nách Phật.  Đức Phật lại bảo khẻ với A nan :  Này A Nan ! Vừa rồi chính ông đã nghe ba lần Ta nói: Không hề chi. Tại sao không tin mà còn hoảng sợ đến thế ! ? 

 

Đức Phật thấy con voi tiến tới, Ngài liền nhập Từ tâm Tam muội và nói Kệ : 

 

Ngươi đừng hại Đại Long

Đại Long ra đời khó.

Nếu ai hại Đại Long

Đời sau đọa ác đạo. 

 

          Nghe bài Kệ rồi, con voi dừng lại cuối xuống đưa vòi ra trải lên đất, ôm chân đức Thế Tôn. Nhanh chóng, động tác này được lập lại 3 lần như biểu lộ sự kính cẩn cao độ. Nó chiêm ngưỡng Phật từ trên  xuống dưới rồi đi quanh bên phải Phật ba vòng. Sau đó voi đi lùi lại và ra đi. Được biết từ đó về sau con voi trở nên hiền lành. Thật là một điều kỳ lạ ! 

 

          Mọi người đồng thanh khen ngợi: Sa môn Thích tử không dùng đao, gậy … mà hàng phục được con voi hung tợn này. Kỳ diệu thay! Người dân trong nước không còn bị sự khủng bố của voi. Kỳ diệu thay! Các ngoại đạo không ai không lấy làm xấu hổ. Còn đối với đệ tử Phật thì hớn hở vui mừng, sung sướng, hảnh diện … Kiểm thu số tiền thắng cược lên đến bảy mươi vạn …  

 

Sau khi hàng phục được voi, đức Phật lại nói Kệ : 

 

Voi say đầy sân nhuế

Tiến về đấng Đạo sư

Trăm họ đều thấy rõ

Hơn thua tiền cược nhau

Voi to tựa Thái Sơn

Sáu mươi voi nào bằng

Vang dội rúng lòng người

Rống lên địch quân phá

Đại lực của Đạo sư

Thương chúng sanh, xuất thế

Muốn độ con voi dữ

Trước nó Ta đứng yên

Voi lạy mọi người thấy

Nhảy nhót đạo, đời vui

Khen Ta hàng voi dữ

Phật là sư tử vương. 

 

          Chứng kiến sự thất bại của mình, ác tâm của Điều Đạt lại lồng lộn. Ông ta suy nghĩ : 

 

          Nay hai Phật bằng cách thức này không thắng được thì nên tìm một hung thủ khát máu, không biết Phật là ai, thuê nó thật nhiều tiền là có thể hạ thủ được. Lập tức, Điều Đạt đi khắp nơi tìm kiếm cho ra con người “lý tưởng” này. Điều Đạt dò la và gặp một người đàn ông  “đúng tướng” có thân hình vậm vỡ dữ dằn, Điều Đạt đề nghị :  “Ông vì tôi giết Phật, bao nhiêu tôi hậu tạ”. Người kia ham của, chấp nhận ngay. 

 

          Bấy giờ, đức Phật đang kinh hành nơi đất trống, trong tầm thấy, Ngài đã nhìn thấy hung thủ đang tiến dần về phía Ngài. Ngài vận dụng Từ Tam muội phủ xuống khắp người nầy rồi đưa tay vẫy gọi họ. Như bị thôi miên, hung thủ buông dao trong trạng thái không ý thức. Như đi theo sự chỉ dẫn, hung thủ tiến gần đến Phật rồi sụp lạy sát chân Ngài. Hung thủ ngẫng lên nhìn Phật rồi tha thiết thưa rằng : 

 

          Hiện con là người si cuồng muốn hại đức Thế Tôn. Con tự biết tội nặng, cúi xin Ngài gia ân cho con xin sám hối. 

 

Đức Phật dạy : 

 

          Ông thật là người ngu si nên mới ham tiền mà hại đức Như Lai. Trong giáo pháp Ta, nếu người biết có tội mà sám hối thì sẽ tăng trưởng căn lành. Đức Thế Tôn lại nói pháp để độ ông ta. Ngài phân tích việc bố thí, vấn đề trì giới, vấn đề sanh Thiên, vấn đề nhiễm ô của kẻ tại gia và vấn đề an vui của người xuất thế. Tâm hồn hung thủ như  hút hết gánh nặng, vui mừng như hiện rõ lên. Đức Thế Tôn biết rõ điều đó nên lại vì ông ta, Ngài nói  về pháp khổ, tập, diệt, đạo. Nghe các pháp này, ông ta bùng vỡ sự tỏ ngộ và với các pháp được tỏ ngộ, ông ta xa lìa cấu trần, sở đắc con mắt pháp trong sạch. Thấy pháp đắc quả rồi, ông ta xin quy y Tam bảo, thọ trì Năm giới. 

 

          Đức Phật bảo ông ta trở về bằng con đường khác, vì Điều Đạt đã thuê hai người đón đường cũ để giết người này, ngõ hầu bịt kín tiếng xấu ác. 

 

          Đâu phải dừng lại ở thất bại này, Điều Đạt còn thuê Bốn người rồi 32 người và lần vào cũng thất bại. 

 

          Tất cả người Điều Đạt thuê để hại Phật, đều đến trước Phật sám hối và được Phật độ. Họ đã chứng quả Tu Đà Hoàn như người đầu tiên đến hại Phật. 

 

          Nếp sống chư Phật là cứ mỗi sáng lúc mặt trời mọc, rời phòng ra ngoài trời. Sáng hôm ấy, đức Phật bước ra khỏi phòng và thấy ngay các Tỳ kheo cầm dao, gậy đứng hai bên. Ngài liền hỏi : 

 

Vì lý do gì các thầy cầm đao, gậy đứng ở đây ? 

 

Các Tỳ kheo thưa : 

 

          Chúng con nghe Điều Đạt thuê người hại Phật, không an tâm, nên tổ chức canh giữ khắp nơi trong trú xứ, kể cả nơi đây. 

 

          Đức Phật bảo các Tỳ kheo : 

 

          Như Lai mà bị hoạnh tử là điều không thể xảy ra. Năm hạng thầy ở đời mới cần sự hộ vệ, chứ Như Lai thì không, các thầy cứ an tâm đâu về đó, tự bảo hộ lấy tâm mình. 

 

          Gián tiếp không giết được Phật  thì phải trực tiếp. Điều Đạt tìm được một người đi với mình rồi cùg leo lên núi Kỳ Xà Quật. Khi ấy đức Phật đang kinh hành trên một tảng đá ở phía dưới núi. Điều Đạt nhìn thấy, vội vã sai người kia xô đá tảng xuống hại Phật nhưng người này vừa vận dụng tâm xôthì tay chân của y bủn rủn không cử động được. Tâm ác của y nhanh chóng đổi thay, ý niệm lại nghĩ về Phật về đức độ bao dung to lớn của Ngài. Với tâm niệm ấy, tay chân ông ta bình phục như cũ. Điều Đạt thấy vậy quát: 

 

          Tại sao người khốn nạn đến thế! Cút ngay đi cho khuất mắt ta ! 

 

          Nhanh chóng, Điều Đạt liền tự tay đẩy một tảng đá lớn xuống chỗ Phật. Đá lăn ào ào thì ngay lúc ấy Thần núi tên là Kim Bệ Lô xuất hiện đỡ hòn đá ném ra ngoài xa nhưng có một mãnh vỡ nhỏ văng trúng ngón chân Phật làm ngón chân Ngài chảy máu. Đức Thế Tôn chứng kiến hành động như thế, Ngài liền nói với Điều Đạt: nay ông phạm phải việc Vô gián. Nếu ai với ác tâm làm cho thân Phật bị chảy máu thì chắc chắn đọa vào Vô gián A Tỳ đọa ngục … 

 

          Điều Đạt lại tự nghĩ như vầy :  Ta đã không thể hại được Phật nhưng phá hòa hợp tăng liệu không được sao ?  Ta thực hiện được việc này thì dù Phật có đại thần lực, uy danh của ta sẽ càng chấn động khắp nơi. Đức Phật biết ngay ý đồ đó liền chận ngay Điều Đạt : 

 

          Ông chớ nên phá hòa hợp tăng. Nếu Tăng bị phá và ai có thể làm hòa hợp lại thì người đó sẽ được sanh lên cõi trời. Họ nhận lấy một kiếp vui. Còn người nào phá hòa hợp Tăng thì người đó phải đọa vào địa ngục một kiếp khổ. 

 

          Điều Đạt nghe Phật can răn như vậy tâm ác ông chùng xuống và ý đồ phá tăng ông tạm gác lại nhưng sau một thời gian tâm ác ấy lại nổi dậy. Đức Phật lại khuyên can Điều Đạt như trước bằng lời Kệ như  vầy : 

 

Chúng Tăng hòa hợp vui

Hòa hợp thường an ổn

Ai phá hòa hợp Tăng

Một kiếp địa ngục khổ

Chúng tăng hòa hợp vui

Hòa hợp thường an ổn

Hàn gắng tăng bị phá

Thọ vui một kiếp trời.

Nếu chia rẽ riêng biệt

Thường nói lời bất thiện

Để phá hòa hợp tăng

Một kiếp địa ngục khổ.

Không chia rẽ riêng biệt

Thường hay nói lời lành

Để hàn gắn Tăng phá

Thọ vui một kiếp trời. 

 

          Điều Đạt nghe rồi, tạm thời bỏ tâm phá Tăng nhưng thời gian sau tâm ấy lại sống dậy mạnh hơn trước. Các Tỳ kheo nghe Điều Đạt rấp tâm phá hòa hiệp Tăng liền đến bạch Phật. Phật cho tập hợp Tỳ kheo tăng khiển trách Điều Đạt và lời khiển trách này được Tăng chuyển đến Điều Đạt. Đức Phật bảo các Tỳ kheo : 

 

          Nên sai một Tỳ kheo thân tình với Điều Đạt đến khuyên can lời như vầy :  Thầy đừng phá hòa hợp tăng, đừng làm việc phá tăng, nên cùng tăng hòa hợp, Tăng hòa hợp nên được hoan hỷ không tranh cãi, một lòng, cùng học hỏi như nước với sữa hòa hợp. Cùng nhau phát huy lời thầy dạy về hạnh an lạc. Nếu Điều Đạt thuận lòng thì tốt, bằng không thì sai một số đông đến khuyên can. Nếu Điều Đạt không nghe theo thì Tăng nên đến can gián. 

 

          Tăng thực hiện lời dạy này đến lần thứ ba nhưng Điều Đạt vẫn ngoan cố phá tăng như nhằm trả đũa lại Phật. 

 

          Do bởi sự ngoan cố này mà điều giới về việc phá hòa hợp Tăng được Phật tuyên bố trước Tăng nhằm loại trừ, về lâu về dài, sự phá hòa hiệp Tăng.

 

*

*       *

S Ự VI ỆC T Ỳ LAN NHÃ

 

          Vua Ba Tư nặc lấy tên người Bà la môn Tỳ Lan Nhã phong cho ấp của ông ta là “Áp Tỳ Lan Nhã”. Ngoài ấp này không xa có một khu rừng vắng, ở đây tàng cây đan phủ lên nhau làm thành một khu nhà xanh thoáng rộng. Đức Phật cùng với đại chúng 500 Tỳ kheo từ nước Tu lại Bà đến ngụ ở đây. Lúc bấy giờ là đầu mùa Hạ. Từ lâu, Bà la môn Tỳ Lan Nhã rất ngưỡng vọng bậc Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự, Thiên nhơn sư, Phật Thế tôn này. Nay cơ hội Phật đối với ông ta đã trở thành hiện thực. Lập tức Tỳ Lan Nhã với quyến thuộc 500 người, tiền hô hậu ủng trực chỉ đến khu rừng này. Còn xa, ông đã trông thấy Phật, với ánh sáng đặc thù của Ngài làm cho rừng cây sáng lên. Ong ta liền xuống xe đi thẳng về phía đức Phật. Trước Phật, ông ta cung kính chào hỏi :  “Lành thay ta xin được bái kiến Phật”. Ông lui lại rồi ngồi sang một bên. 

 

          Thuyết pháp đó là điều lợi ích to lớn đối với bất cứ ai đến với Phật. Bà la môn Tỳ Lan Nhã vô cùng hoan hỷ sau khi nghe Phật thuyết pháp. Để đáp lại ông ta thưa :  Nguyện xin Phật và Tăng nhận lời thỉnh của con đến ấp an cư Ba tháng để con được cúng dường”. 

 

          -.  Đức Phật bảo rằng :  Chúng của tôi thì đông mà lòng tin của ông có khác, cách nhìn của ông có khác, niềm vui ở cách tôn thờ của ông có khác, liệu có thích hợp được chăng ? 

 

          Người Bà la môn bạch Phật :  “Con, tuy lòng tin có khác, cách nhìn và niềm vui có khác song đối với chúng đông đảo của Thế tôn thì không có vấn đề gì”. 

 

Ba lần Tỳ Lan Nhã thưa thỉnh như vậy, đức Phật mới nhận lời. 

 

Sau khi nhiễu quanh bên phải Phật ba lần ông ta cáo từ trở về ấp. 

 

           Lời thề của ma Ba tuần còn đó, cho nên việc Bà la môn Tỳ Lan Nhã quay trở về với Phật , Chúng xem đó là một thất bại và Chúng quyết ngăn chận việc thất bại này bằng cách làm mê hoặc Tỳ Lan Nhã quên hẳn lời mời thỉnh kia. Năm thứ vui hoan lạc ở đời được ma Ba tuần hóa thân vào trong đó đã làm sơ tâm của Tỳ Lan Nhã thối hóa nhanh chóng. Bao nhiêu việc ông cho sắm sửa đầy đủ cho ba tháng an cư  của Phật  và Tăng được đóng lại bằng lênh ngặt sau đây : 

 

          “Nay ta cần vui hưởng ba tháng nơi hậu cung, việc bên ngoài dù hay, dở, tốt, xấu cũng không được báo cáo” 

 

          Mùa an cư năm ấy, đức Phật và Tăng an cư trong rừng núi phía Bắc thành ấy vì quanh khu vực rộng lớn này không có lấy một ngôi tịnh xá, giảng đường nào. Cái mà ma Ba tuần nắm được là Thiên không thời, Địa không lợi, Nhân không hòa. Trời thì nắng như thiêu đốt, đất thì khô cằn hoa màu chết sạch, người thì người của Bà la môn kể cả Tỳ Lan Nhã đã bị nhận chìm trong thú vui hoan lạc. Cho nên ma Ba tuần hoan hỷ trong ý đồ của mình. Không đâu Tỳ kheo khất  thực được, cái đói của chúng tăng càng lúc trở thành nguy kịch. Nhưng vào cao điểm ấy, các Tỳ kheo gặp người thương lái ngựa, chủ đàn ngựa 500 con. Ông ta đưa ngựa về ấp Tỳ Lan Nhã để dưỡng sức, tránh cái nóng chết người cũng vào thời điểm Phật và đại Chúng tăng đến khu rừng kia. Ông ta có lòng tin Phật rất sâu đậm, trước sự trầm mặc của Tỳ kheo khất thực người chủ thương lái ngựa thưa: 

 

          Tôi có loại lúa cho ngựa ăn, nếu quí thầy có thể dùng được thì tôi bớt nửa phần, một thăng xin biếu quí vị, chắc có thể nuôi sống mà hành đạo. 

 

Các Tỳ kheo nói : 

 

          Đức Phật chưa cho phép chúng tôi ăn phần lúa của ngựa- Được phép hay không được phép đợi chúng tôi bạch lên Phật .  

 

          Đức Phật cho tập hợp Tỳ kheo . Ngài đề cao khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc và trước Tỳ kheo, Ngài ngõ lời rằng : 

 

          “Từ nay về sau cho phép ăn phần lúa của ngựa”. Và lời này về sau trở thành lời của luật để đời sau khéo vận dụng tuỳ hoàn cảnh. 

 

          Tôn giả Anan nhận phần lúa của Phật rồi nhờ người làm bún cúng dường Thế tôn. Còn các chúng Tỳ kheo trẻ già khác tự giã, nấu lấy để ăn. 

 

          Trước hoàn cảnh này, từ nơi vắng lặng, Tôn giả Mục Kiền Liên tư duy điều này :  “Hiện trong nước đầy việc khất thực khó được, ta nên cùng các vị có thần thông đến xứ Thất Đơn Việt (Utlarakuru ) lấy thức ăn bằng lúa gạo tự nhiên. Ý nghĩ ấy, sau đó, Tôn giả bạch lên đức Phật - Đức Phật liền đặt lại vấn đề : 

 

-  Riêng thầy thì được rồi, còn đối với Tỳ kheo phàm phu thì giải quyết sao đây ? 

 

-  Con sẽ vận dụng thần lực của con tiếp giúp cho họ. Tôn giả Mục Kiền Liên thưa. 

 

Đức Phật nói ngay : 

 

          -  Đừng, đừng làm như vậy, thầy tuy có được thần lực nhưng đối với ban đêm, trường hợp muốn nghĩ thì dựa vào đâu ?  Lại nữa, đối với các phàm phu đời tương lai thì giải quyết sao đây ? 

 

Với lời dạy này, trong tư thế im lặng, sâu lắng, Tôn giả ghi nhận. 

 

          Riêng đối với Tôn giả Xá lợi Phất cũng trong chỗ vắng lặng, bao vấn đề được đặt ra và cũng nhân dịp này, Tôn giả đến trước Phật tác lễ để hỏi những điều mà Tôn giả nghĩ suy :  

 

          Bạch thế tôn Chư Phật đời quá khứ, vì sao, có đức Phật phạm hạnh thì Phật pháp không lâu dài ?  Có đức Phật phạm hạnh thì Phật pháp lại bền vững ? 

 

Nắm ngay câu hỏi, đức Phật hết lời khen ngợi Xá lợi Phất : 

 

          Lành thay !  Lành thay !  Niệm suy nghĩ của thầy rất sâu sắc, câu hỏi của thầy cũng thật hay. Này Xá lợi Phất !  Đức Phật Duy Vệ, đức Phật Thi Khí, đức Phật Tuỳ Diếp phạm hạnh nhưng Phật pháp không dài lâu, còn với đức Phật Câu Lâu Tôn, đức Phật Ca Na Hoàn Mâu Ni, đức Phật Ca Diếp phạm hạnh nhưng Phật pháp lại bền vững. 

 

Tôn giả Xá lợi Phất hỏi : 

 

Kính bạch Thế tôn, vì sao lại xảy ra sự việc không đồng bộ như vậy ? 

 

Đức Phật bảo Xá lợi Phất rằng : 

 

          Vì ba đức Phật trước không nói Chánh pháp rộng rãi cho đệ tử nghe, không Kiết giới cũng không nói Ba la đề mộc xoa, nên sau khi Phật và đệ tử vào Niết bàn, dù các đệ tử bao gồm nhiều chủng tộc xuất gia, phạm hạnh vẫn nhanh chóng chấm dứt. Điều này giống như nhiều loại hoa rải lên bàn, đem đặt nơi chỗ trống, gió từ bốn hướng thổi đến, hoa bay theo gió vung vải đến đây. Lý do vậy là vì hoa không có dây xâu buộc lại với nhau. Cũng vậy, Xá lợi Phất !  Ba đức Phật trước, Chánh pháp không thuyết rộng cho đệ tử nghe, không Kiết giới, không nói Ba la đề mộc xoa, cho nên phạm hạnh không kéo dài lâu. Lại nữa, này Xá lợi Phất ! Riêng đức Phật Tuỳ Diếp cùng với 1000 đệ tử, du hành đến rừng Khủng Bố. Có tên gọi này là vì người chưa rời bỏ ham muốn mà vào rừng này thì lông trên người họ dựng ngược lên. Ngài không dùng ngôn ngữ mà bằng tâm niệm thuyết pháp cho đệ tử nghe, rằng :  Các Tỳ kheo nên nghĩ như thế này mà không nên nghĩ như thế kia, nên suy niệm thế này mà không nên suy niệm thế kia, nên đoạn điều này, nên tu điều này, nên y theo đây mà làm. Các Tỳ kheo dùng tâm biết rõ như vậy rồi là các lậu liền dứt hết, ý hiển bày, đắc đạo quả A la hán. 

 

          Này Xá lợi Phất !  Còn đức Phật Câu Lâu Tôn, đức Phật Câu Na Hàm, đức Phật Ca Diếp, các Ngài nói Chánh pháp rộng rãi cho đệ tử nghe mà không hề mệt mỏi, như thuyết về Tu đa la, Kỳ Da, Thọ ký, Già Đà, Ưu đà na, Ny đà na, Dục đa già bà, Bổn Sanh, Tỳ phú la, Vị tằng hữu, A bà đà na, Ưu bà đề xá, Kiết giới, nói Ba la đề mộc xoa. Sau khi đức Phật và đệ tử vào Niết bàn, các đệ tử nối tiếp bao gồm nhiều chủng tộc xuất gia mà phạm hạnh không sớm tiêu diệt. Giống như các loại hoa được sợi chỉ xâu kết lại, dù có đặt lên bàn đặt nơi chỗ trống, gió bốn hướng thổi đến cũng không làm cho hoa bay tứ tản. Được vậy chính là nhờ sợi chỉ xâu buộc, kết giữ nó lại. Cũng như vậy, này Xá Lợi Phất, do ba đức Phật sau đã vì đệ tử nói pháp rộng như đã đề cập mà phạm hạnh được bền vững. 

 

Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật : 

 

          Kính bạch Thế tôn, nếu vì lý do như Ngài dạy mà phạm hạnh không kéo lâu dài thì cúi xin đức Thế tôn hãy vì các đệ tử rộng nói pháp, Kiết giới, nói Ba la đề mộc xoa. Nay phải chăng việc này là đúng lúc ? 

 

Đức Phật dạy : 

 

           Thôi đi !  Ta tự biết khi nào là đúng lúc. Này Xá Lợi Phất, trong chúng thanh tịnh này của Ta, chưa có và cũng chưa hề có xảy ra vấn đề gì, kẻ thấp nhất cũng đắc quả Tu đà hoàn, đủ chứng minh sự trong sạch, thanh tịnh đối với Chúng của Ta rồi vậy. Các đức Như Lai chưa bao giờ Kiết giới cho hàng đệ tử khi mà các pháp hữu lậu chưa phát sinh. Trong chúng của Ta đây, chưa có ai ỷ mình là đa  văn nên sinh các lậu. Chưa hề có ai mang tiếng vì lợi dưỡng, chưa hề có người nào có nhiều ham muốn, chưa hề có người hiện thần túc làm cho trời, người thấy cái sở đắc tri thức ấy. Vì vậy mà không phát sinh các lậu hoặc. 

 

Lúc bấy giờ ba tháng an cư đã mãn, Thế tôn bảo Tôn giả Anan : 

 

-.  Ông và tôi cũng đến chỗ Tỳ Lan Nhã. 

 

          A nan y phục trang nghiêm theo hầu Phật . Đang vui hưởng 5 thứ dục lạc ở trên lầu cao bỗng Tỳ Lan Nhã giựt mình, nhìn xuống thì thấy đức Phật và Anan đã đứng trước cửa ngõ dinh thự. Điều ông ta quên bẵng giờ thì sực nhơ lại hết, ông vội vã xuống lầu ra tận cửa đón rước Phật vào nhà. Ong đích thân lau lại tòa ngồi rồi mời Phật an tọa. Liền đó Tỳ Lan Nhã đảnh lễ Phật, đầu mặt và tứ chi của ông đặt xuống sát đất, ông tự hận trách mình bằng lời này : 

 

          -.  Con là người ngu si, đã thỉnh Phật an cư  mà cúng dường. Không phải con không có tấm lòng tha thiết cũng không phải thiếu đi phương tiện mà chỉ vì con bị vong thân trong mê mờ nên đánh mất luôn trí nhớ đáng tiếc kia. Con cúi mong đức Thế tôn nhận cho con sự sám hối này. 

 

Đức Phật dạy : 

 

          -.  Ông quả là ngu si, thỉnh Phật và Tăng mà không cúng dường. Ông sám hối là điều hợp lý. Nay tôi và chúng tăng nhận sự sám hối này của ông. 

 

Đức Phật bảo: Trong Thánh pháp của tôi người biết sám hối thì pháp lành được tăng trưởng. 

 

Người Bà La Môn lại bạch Phật rằng : 

 

Nguyên xin Phật và Tăng lưu lại đây một tháng để con được cúng dường. 

 

Đức Phật không nhận lời lại có lời dạy : 

 

          -.  Ông là người Bà La Môn, lòng tin của ông có khác, nhận thức của ông có khác nhưng ông đã nói lên được tấm lòng như vậy là có thể thỉnh được Phật rồi, chính đây là sự kiện lớn. 

 

Bà La Môn Tỳ Lan Nhã ba lần thỉnh mời như vậy nhưng Phật đều không nhận lời, Ngài nói : 

 

-  Tôi đã an cư nơi đây ba tháng, nay cần đi du hóa, không thể ở lại được. 

 

Người Bà La Môn lại tha thiết bạch Phật : 

 

Thôi thì cúi xin Thế tôn nhận cho con bửa cúng dường tiễn đưa vào ngày mai! 

 

Đức Phật im trước lời mời này. Ngài đã nhận. 

 

          Buổi sáng hôm ấy, việc thiết lễ cúng dường Phật và Tăng chúng, Tỳ Lan Nhã cho sắp đặt hết sức trân trọng từ tấm lòng cho đến mọi thứ vật phẩm. Đến giờ, ông cung thỉnh Phật và Tăng ngồi vào chỗ ngồi được thiết đặt cực kỳ tôn kính nhất là tòa ngồi của Phật. Ong tác bạch cúng dường, sau đó ông đích thân hầu hạ Phật và Tăng dùng bửa cúng dường một cách chu đáo. Ngay sau việc thọ dụng cúng dường vừa dứt, người Bà la môn liền dâng cúng lên Phật bốn trương kiếp bối và một đôi giày còn chúng tăng mỗi vị 2 trương kiếp bối và một đôi giày. Việc cúng dường này xảy ra là lần đầu tiên nên chúng tăng không biết xử lý như thế nào. Các Tỳ kheo bạch Phật hỏi ngài vấn đề thọ nhận này. 

 

          Nhân sự việc này đức Phật lại hết lời khen ngợi hạnh thiểu dục, tri túc, đề cao giới, khen ngợi người trì giới rồi bảo các Tỳ kheo : 

 

“Nhân sự cúng dường của Tỳ Lan Nhã, từ nay về sau cho phép nhận vật phẩm an cư. 

          Về phía người Bà la môn, lòng ông vô cùng mừng rỡ, phấn chấn. Ông ta lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi đối diện với đức Phật, ông lắng nghe đức Phật thuyết kệ sau bửa cúng dường này : 

 

Tất cả sự thờ cúng

Thờ lửa là hơn hết

Mọi học thuyết khác nhau

Tát Bà đế cao nhất

Trong tất cả hạng người

Vua chuyển luân hơn cả

Nước trong mọi dòng chảy

Nước biển cả nhiều hơn.

Mọi nguồn sáng chiếu rọi

Nguồn trời, trăng sáng nhất

Phước cả thế gian này

Ruộng phước Phật nhiều nhất

 

          Kệ, Thế tôn thuyết pháp. Ngài chỉ bày sự tu tập và sự lợi ích to lớn của nó. Người Bà la môn Tỳ Lan Nhã vô cùng hoan hỷ.

 

 

*+*+*+*+*+*+*

THÂN CÂY CŨNG PHẢI RA ĐI

 

Bây giờ đức Phật và Chúng của Ngài đang lưu trú tại nước Câu Xá Di. 

 

          Tỳ kheo Xiển Đà cũng là một tay Cự Phách của nhóm sáu Tỳ kheo. Thầy ta thường lui tới các gia chủ của mình để nói pháp đồng thời cũng lo liệu, xử lý việc nhà quan như chữa trị, thuốc thang cho người bệnh bổn đạo. Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng giả, Cư sĩ không ai là không thân tình, trọng thị. Họ coi Xiển Đà như ông Thánh sống. Bổn đạo thuộc các giai cấp trên ấy thường đến Tăng Xá để thăm viếng Xiển Đà. Ngày ấy đang kinh hành, các bổn đạo quí ấy đến tận nơi kinh hành, đảnh lễ sát chân Xiển Đà. Nhân đó Xiển Đà thuyết pháp cho họ nghe, họ vui mừng vì phúc lợi của việc nghe pháp đối với họ thật lớn lao. Khi mọi người thân lùi về, Xiển Đà cũng trở về phòng của mình thì phòng này đã có Thượng tọa đến trưng dụng rồi. Cứ như vậy phòng nào cũng có Tỳ kheo ở cả, thậm chí phòng nhỏ nhất cũng có sở hữu chủ. Xiển Đà hiểu rõ vấn đề mất chỗ ở. Thầy đành phải lên đường du hành nhân gian. 

 

          Sau đó không lâu, các bổn đạo thuộc giai cấp trên ấy đến thăm mới hay thầy mình đã lên đường. Hỏi thăm các Tỳ kheo đang kinh hành nơi đất trống nhưng nào ai có biết thầy Xiển Đà ở chân trời gốc bể nào mà trả lời. Các bổn đạo quí kia đành ra về với nỗi lo. Họ tìm khắp nơi nhưng bặt vô âm tín... 

 

          Ra đi rồi lại quay về, Xiển Đà mặc y, bưng bát đến các gia chủ cũ của mình. Trông thấy thầy mình đến họ mừng hết lớn, họ vồn vã đón chào tiếp đón. Có người thưa: 

 

Bạch trưởng lão, gần đây chúng con có đến Tăng phòng tìm thăm Ngài mà không gặp, vậy Ngài từ đâu đến đây ?

 

Xiển Đà trả lời : 

 

          Tôi là hàng hạ tọa nhỏ nhất, tất cả phòng, các thượng tọa đều ở hết, cho nên tôi phải du hành. Rất tiếc các vị đến thăm mà không gặp nhau. 

 

Các gia chủ thưa : 

 

          Có thể tìm nơi nào đó, chúng con sẽ cất phòng xá cho Trưởng lão ở, không những chúng con được phước mà trưởng lão lại có chỗ ở an ổn để tu hành – Việc thăm viếng của chúng con cũng không bị trở ngại. 

 

Xiển Đà trả lời : 

 

          Tôi không thể đứng ra tự làm vì sẽ xao nhãng việc hành đạo. Hơn nữa khi tuổi càng lớn thì theo thứ lớp, tự nó sẽ có được chỗ ở, đó là lẽ tự nhiên. 

 

Các gia chủ thưa : 

 

Chúng con may mắn có vật liệu vừa lại có thiện tâm. Tài vật thì vô thường còn thiện tâm khó lòng giữ được lâu, vậy xin Trưởng lão tranh thủ tìm chỗ, chúng con nhanh chóng cất phòng xá cúng dường Ngài. 

 

          Xiển Đà thấy họ quá ân cần, khó lòng từ chối, bèn đi khắp vùng tìm đất cất thất. Nhận thấy địa điểm Thọ Thần là nơi rất tốt cho việc tạo dựng phòng xá. Quyết chọn nơi đây nên Xiển Đà liền cho triệt hạ cây cổ thụ này. Người trong nước coi cây cổ thụ này như một vị thần. Họ thờ phụng,  cúng bái, cầu khẩn thần đại thụ này rất mê tín. Họ đều nhận được sự cảm ứng tốt lành của thần. Cho nên lòng kính cẩn của họ đối với thần đại thụ này cao vời vợi. Cổ đại thụ này bị Xiển Đà triệt hạ không tiếc thương đó là một cú sốc lớn của toàn dân, họ hốt hoảng, vô cùng kinh ngạc, tưởng chừng như tai hoạ sắp giáng xuống đầu họ. Sẵn lòng tin Phật pháp không có, họ đồng loạt mắng nhiếc không tiếc lời : 

 

          Sa môn Thích tử thật vô đạo hết chỗ nói chỉ biết lợi cho mình mà làm thương hại đến trời, người, quỉ thần. 

 

Đối với những người có lòng tin đối với Phật pháp thì nói : 

 

          Cây này có Thần ở, mọi người đều kính sợ, ngày đêm hằng khấn nguyện không dám ngạo mạn, xúc phạm, nay các Tỳ kheo lại chặt cây không chút ngại ngùng. Nghĩ rằng, nơi đây rồi ra mọi sắc tâm đều trong sáng như thường. Có thể nói rằng vị thần cây này đã vô cùng kính trọng Tỳ kheo. 

 

          Lời khen, tiếng chê đồn vang khắp nước. Các Trưởng lão nghe được và sự việc được làm rõ trước Tăng. Đức Phật lại nghiêm khắc quở trách Xiển Đà. Ngài kiết giới cấm vấn đề này.

 

* * * * * * * * * * * *

TRƯỞNG LÃO ƯU ĐÀ DI BỊ LỬA DỤC THIÊU ĐỐT 

 

          Lúc bấy giờ đức Phật lưu trú tại thành Xá Vệ  -  Chuyện xảy ra như vầy:

 

          Trưởng lão Ưu Đà Di là một trong Sáu Tỳ kheo thuộc nhóm Lục quần”. Hiện thân như là ngọn lửa dục, lửa dục như luôn hừng hực trong người trưởng lão Ưu Đà Di. Ngọn lửa ấy hành hạ khiến thân thể Ưu Đà Di tiều tuỵ, khí lực tiêu hao, ông phải dùng tay cho ra cái bất tịnh ấy mới làm hạ được ngọn lửa dục, mới cảm thấy an ổn thoải mái. 

 

          Về sau, Ưu Đà Di thấy một Tỳ kheo gầy yếu xanh xao. Ưu Đà Di hỏi:          Tại sao thầy mất sức nhiều như vậy ? 

 

          Tỳ kheo kia trả lời : 

 

          Tôi bị lửa dục thiêu đốt cho nên như thế. 

 

          Ưu Đà Di nói : 

 

          Trước đây tôi cũng vậy dùng tay cho ra bất tịnh mới an ổn nổi. Nếu thầy áp dụng phương pháp thủ dâm như tôi thì cũng sẽ như vậy.Tỳ kheo kia liền dạy cho Ưu Đà Di bài học : 

 

          Thầy làm điều phi Phật pháp, không phải hạnh thanh tịnh, phá pháp Sa môn, không hợp chánh đạo. Đức Thế tôn bằng nhiều cách quở trách về dục, nhớ nghĩ về dục, cả giác dục, lửa dục và khen ngợi người cắt đứt nhớ nghĩ về dục, cắt đứt cảm giác dục, dập tắt lửa dục. Ngài nói dục như xương đỏ, như thuốc độc. Tại sao nay thầy lại dùng tay cho ra bất tịnh để rồi nhận lấy sự tín thí, thậm chí thầy còn dạy người làm việc đó ? ! 

 

          Ưu Đà Di bị khiển trách và bị đưa đến trước Phật lại bị quở trách trước tăng chúng. 

 

          Không dừng ở đây vì lửa dục của Ưu Đà Di chưa phải lúc dập tắt nổi. Ưu Đà Di nhìn thấy kẻ hở của điều cấm :  Cấm thủ dâm chứ có cấm tìm cảm giác rờ rẫm nơi người nữ ?  Được thế cũng là cách để hạ ngọn lửa. Ong ta dấn thân vào việc này. 

 

          Ngày ấy Ưu Đà Di sửa sang, quét dọn, trang hoàng phòng ở, rất ra vẽ văn hoá. Ong rất đắc ý, lấy một cái ghế nhỏ ngồi dưới hàng cây ngoài cửa phòng của mình, như để đón khách tham quan. 

 

          Phong cảnh khu tịnh xá, thường cũng là nơi để mọi người đến để tìm lấy cái phúc lợi tinh thần. Lúc ấy, có các người nữ đến viếng cảnh, được Ưu Đà Di chào đón và họ ngõ lời với Ưu Đà Di muốn đi xem các phòng xá. Họ được Ưu Đà Di săn đón đưa đi tham quan. 

 

          Sau khi các người nữ vào tham quan phòng Ưu Đà Di thì cửa ra, vào đóng lại, cửa sổ mở ra. Ưu Đà Di lẫn lộn trong đám người nữ này. Bấy giờ lửa dục trong ông càng bốc lên hừng hực đốt cháy luôn cả lý trí của ông. Bằng nhiều kiểu rờ rẫm và không người nữ nào ở đây là ông không rờ mó hoặc nắm, hoặc ôm, hoặc bóp, hoặc xoa, hoặc bồng lên, hoặc để xuống, hoặc cỡi lên, hoặc cõng đi…mặc cho các người nữ ấy có mắc cở hay không mắc cở. Đối với người không mắc cở thì như đồng lỏa, thích thú nói :  Sao không làm cái việc chính kia, làm chi những việc phụ như vậy ? 

 

          Ưu Đà Di liền bảo: Cái việc chính ấy, bị cấm ngặt, tôi không được phép. 

 

          Còn đối với người mắc cở, không ưa thói bốc hốt như vậy thì giận dữ ra mặt, dạy cho Ưu Đà Di bài học nặng nề : 

 

          Xưa nay gọi chỗ này là nơi an ổn, nay ngược lại thành chỗ đáng ghê sợ, lửa bốc cháy trong nước chưa đủ để so sánh điều quái gỡ này. Kẻ cư sĩ ở trong nhà còn xấu hỗ khi làm việc này, tại sao Tỳ kheo lại làm điều ác như thế ? ! 

 

          Như thế, vẫn chưa hả dạ, ra khỏi Tịnh Xá họ đi ngay đến từng người rêu rao, huỷ báng. Những người không có lòng tin, không ưa thích gì Phật pháp, được dịp họ tha hồ xuyên tạc, ma lị :  “Chúng ta là cư sĩ rờ rẫm đàn bà, Sa môn Thích tử cũng làm như vậy, thế thì cái đầu này cạo tóc đi, ta với họ có khác gì nào ?  Họ không hạnh Sa môn, họ phá pháp Sa môn”. Tiếng xấu đồn xa là vậy. 

 

          Lại cũng bửa ấy, có vợ chồng Bà la môn đến vãng cảnh, lần lượt họ đến phòng Ưu Đà Di, nói :  Vợ chồng chúng tôi muốn vào xem phòng xá. 

 

          Ưu Đà Di bảo : 

 

          Không được cùng một lúc hai người vào, có thể vợ trước, chồng sau. 

 

          Người chồng để người vợ vào phòng trước. Ưu Đà Di cũng lại giỡ bao trò rờ rẫm như trước. Kéo dài lâu lắm người phụ nữ mới ra khỏi phòng. Người chồng liền hỏi vợ : 

 

          Chứ làm chuyện gì mà lâu thế? Không muốn đi xem các phòng khác hay sao ? ! 

 

          Bà vợ nói : 

 

          Thôi !  Thôi !  Đừng nói đến nữa !  Chỉ vào một phòng mà gần muốn chết mới ra được đây. Xem các phòng khác lại phải chịu nổi cái cảnh như thế sao ? !  

 

          Người chồng hỏi lý do. Người vợ nói rõ sự thật. Ngay khi ấy, người Bà la môn mạ nhục rằng : 

 

          Các ác nghiệp này, tại sao Sa môn Thích tử phải làm như thế ? ! 

 

          Sau đó ông ta vào thành Xá Vệ, nơi ngã tư đường, nơi chợ búa xóm làng, tận hang cùng ngõ hẽm, ông là cái loa hết cỡ rằng Sa môn Thích tử rờ rẫm vợ tôi. 

 

          Chính đây cũng là dịp để cho những người không tin yêu Phật pháp, tha hồ mạ lỵ, mắng nhiếc: Sa môn Thích tử làm hạnh xấu xa như thế, tại sao lại tự xưng là phạm hạnh, là tịnh là tu ?. 

 

          Ưu Đà Di đã nhận bao nhiêu quở trách của chúng Tăng và của Phật, Ngài đã Kiết giới bổ sung. 

 

          Như vậy cố ý cho ra bất tịnh, rờ rẫm thân người nữ là điều đức Phật cấm nhưng trưởng lão Ưu Đà Di biết lợi dụng ngay điều chưa cấm. Điều ấy như vầy :

 

          Cũng tại căn phòng của mình, được phép người nữ vào tham quan như đã nói ở trên, vào phòng rồi đóng cửa ra vào. Ong ta lân la làm quen rồi sỗ sàng hỏi người nữ :  Tay, chân của cô, bắp chân, cổ tay của cô, eo, lưng, bụng, vú, đầu, mặt, móng tay, tóc, đường tiểu tiện của cô em giống như cái gì ? 

 

          Lại nói :  Này cô em: tay chân cho đến đường đại, tiểu tiện của cô em chỗ nào cũng xấu xí, mà lại cũng đẹp lắm phải không ?  Lại hỏi :  Khi chồng cô gần gũi cô, âu yếm cô ra sao ?  Nếu theo ý của tôi thì tôi sẽ cho cô trân bảo, cô em cần gì cho tôi biết. Tất cả thiên thần đều chứng giám cho lòng tôi. 

 

          Các người nữ tham quan hôm ấy, nghe thế, người cười kẻ bực dọc khinh bỉ, có những phản ứng như đã xảy ở hai lần trước. 

 

          Không quanh co, Ưu Đà Di trước các trưởng lão rồi trước Đức Phật thành thật nhận lấy lời nói thô tục bất thiện của mình. Đức Phật nhân đó chế cấm bổ sung điều giới. 

 

          Tuy nhiên, một Ưu Đà Di luôn luôn bị lửa dục thiêu đốt nhưng cũng là một con người lanh lợi, hoạt bác luôn biết lợi dụng vấn đề. Ưu Đà Di suy nghĩ vấn đề như vầy: Cố ý… rờ rẫm, nói lời tục tỉu đức Phật cấm, liệu hướng đến người nữ tự khen ngợi hiến dâng thân xác, tìm cái vui khát dục như thế, chắc là không phạm ? ! 

 

          Ngày nọ, cũng ở trong phòng của Ưu Đà Di, người nữ tham quan. Ưu Đà Di không ngần ngại nói với người nữ lời này :  Này cô em !  Trong việc cúng dường, cô em cúng dường cho Sa môn, Bà la môn đến cả các vị thiền định, chứng bốn đạo quả không bằng đem sự dâm dục hiến cúng cho người trì giới. 

 

          Các người nữ nghe thế, có người cười, có kẻ nhăn mặt, khinh bỉ…Họ cũng đã hết lời huỷ báng như trước đây. 

 

          Tại thành Xá Vệ trước toàn thể Tăng, Ưu Đà Di nhận tội. Đức Phật quở trách nặng nề và Ngài Kiết giới chế cấm hành động này.

 

*+*+*+*+*+*+*+* 

TỲ KHEO XỨ BẠT KỲ

 

          Bạt Kỳ là một xứ thuộc thành Câu Xá Di. Xứ này nổi tiếng ăn chơi của các nhà hào tộc. Các Bạt Kỳ Tử dùng lông dê đen tuyền làm đồ phục sức hay làm dụng cụ nằm, ngồi. Họ coi đây là đặc điểm quan trọng, tài tử, giàu sang phú quý của họ, là sức hấp dẫn mọi thú vui của riêng họ. 

 

          Khốn nỗi !  Các Tỳ kheo Bạt Kỳ cũng bắt chước làm như vậy. Ngày nọ, bất chợt các Cư sĩ  vào phòng Tỳ kheo thăm thú, thất vậy tưởng các hào tộc Bạt Kỳ tập trung lại để vui chơi. Nhân có người đi qua, các Cư sĩ hỏi : 

 

Đây là phục sức của quí nhơn nào ? 

 

Người ấy trả lời : 

 

Không phải đồ dùng của quí nhơn mà là kiểu học đòi của Tỳ kheo Bạt Kỳ đó thôi !

 

Nghe thế, các Cư sĩ cơ hiềm, chê trách rằng : 

 

          Các Tỳ kheo mà ăn mặc như nhà Vua, như đại thần, như hào tộc khi họ cần chưng diện lên xe, xuống ngựa. Tôi nghe Tỳ kheo mặc y cắt rọc, cạo đầu vô vi, mà nay lại lo chăm chuốc cái mặc sang trọng này ư ? !  Họ không có hạnh Sa môn, phá pháp Sa môn… 

 

          Do đó đức Phật cấm làm ngọa cụ bằng lông dê đen tuyền song các Tỳ kheo Bạt Kỳ chơi ngẳng làm ngọa cụ bằng thứ lông dê pha trộn gồm đen, trắng và loại lông dê xấu trong đó lông đen nhiều hơn. Việc này cũng bị quở trách dẫn đến Phật chế giới qui định rõ việc dùng lông dê pha trộn để làm ngọa cụ. 

 

 

*

*       *

TỰ ĐEO CÁI KHỔ 

 

Chưa hết, Tỳ kheo Bạt Kỳ có suy nghĩ như vầy : 

 

          Đức Phật đã cho phép chúng ta dùng hai phần lông dê đen, phần thứ ba lông màu trắng phần thứ tư màu vất đi để làm ngọa cụ như vậy có thể vận dụng sự cho phép này. Thế là Tỳ kheo Bạt Kỳ tìm xin được nhiều ba loại lông dê ấy rồi đích thân làm ngọa cụ hay nhờ vả người khác làm. Bởi thế trong trú xứ không chỗ nào là không việc làm này. Các Cư sĩ đến thăm chơi, thấy cái ngổn ngang các thứ nguyên vật liệu lại một phen chê trách gay gắt không kém phần độc ác. 

 

          Việc này dẫn đến Phật chế giới qui định thời gian Tỳ kheo sử dụng một ngọa cụ mới là sáu năm. Tuy nhiên cần có sự thay đổi nào đó thì phải đến giữa Tăng trình bày lý do để xin.

 

*

*      *

VẬT BẤT LY THÂN 

 

          Lúc bấy giờ đức Phật lưu trú tại thành Xá Vệ. Có nhóm Tỳ kheo 17 người, an cư xong muốn đi du hành lại có ý nghĩ: Chúng ta sẽ trở về lại đây, đem theo một y là đủ, không phải đem theo nhiều phiền lắm. 

 

          Nghĩ sao làm vậy, các Tỳ kheo lấy khăn gói y còn lại đem để trên giá rồi nhờ các Tỳ kheo trú xứ trông hộ và lên đường. 

 

Kẻ ra đi người lại đến. Lục quần Tỳ kheo trở về, bảo các Tỳ kheo trú xứ rằng : 

 

-.  Cung cấp phòng cho chúng tôi. 

 

-.  Có, phòng của 17 Tỳ kheo vừa đi, các vị vào nghỉ ở đó. Tỳ kheo trú xứ hướng dẫn. 

 

Vào phòng thấy ngay một gói y trên giá, Lục quần hỏi : 

 

-.  Tại sao các thầy cất chứa các y dư này ? 

 

          -.  Đây là y của nhóm 17 Tỳ kheo, các thầy ấy đi du hành sau an cư, không thể mang theo được nên lưu lại, gửi cho tôi đó. Tỳ kheo trú xứ bảo thế. 

 

-.  Được cớ, nhóm 6 Tỳ kheo tha hồ la rầy, quở trách rồi đem vấn đề lên thưa với Phật. 

 

Nhân việc này, sau đó, Phật cho tập hợp Tỳ kheo Tăng.  

 

Nhóm Tỳ kheo 17 người xác nhận đúng sự việc như vậy và đức Phật quở trách : 

 

          Các ông ngu si, không nghe ta dạy :  Vật bất ly thân của Tỳ kheo là Ba y và bình bát, giống như con chim bay được là nhờ hai cánh lông của nó đó sao ? 

 

Quở trách rồi đức Phật kiết giới nhưng sau đó được bổ sung bởi việc xảy ra có liên hệ : 

 

          Bấy giờ có một Tỳ kheo muốn đi về ấp Sa Kiệt Đà nhưng y phấn tảo lại khá nặng khó mang theo, muốn xả nhưng không biết nên như thế nào, bạch các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo đưa đương sự lên trình Phật để xin sự chỉ giáo. Phật dạy :  Phải xin Tăng Yết ma pháp không mất y và Ngài đã hướng dẫn cụ thể pháp làm Yết ma này đối với đương sự cũng như đối với Tăng.

 

 

*+*+*+*+*+*+*+*+*

VIỆC NHẬN PHẨM VẬT AN CƯ 

 

          Thành Xá Vệ có một thôn nhà buôn. Lục quần Tỳ kheo một bữa nọ đến thôn này. Khách buôn thưa : 

 

Xin Trưởng lão an cư ở nơi đây, sau chuyến buôn, chúng tôi sẽ về cúng dường phẩm vật an cư. 

 

Lục quần Tỳ kheo nói : 

 

          Muốn chúng tôi ở lại đây an cư thì phải cúng cho chúng tôi, trong thời gian an cư chúng tôi may y, an cư xong chúng tôi mặc y này đến thăm viếng đức Thế Tôn. 

 

Khách buôn cùng nhau bàn tính : 

 

           Chúng ta nên cúng trước vật phẩm an cư để các Tỳ kheo ở lại, như vậy là gia đình chúng ta lớn, nhỏ đều được nghe pháp, thọ 8 phần giới, giữ gìn trong sạch thân, khẩu, ý. 

 

           Khi nhận được phẩm vật an cư rồi và sau khi các nhà buôn lên đường thì Lục quần Tỳ kheo cũng ra đi nơi khác. Một thời gian sau, các nhà buôn thu được lợi nhuận trở về, cứ nghĩ về các Tỳ kheo, nên hâm hỡ nói với người trong nhà rằng : 

 

           Tuy trước đây, ta đã cúng phẩm vật an cư cho các Tỳ kheo rồi, nay ta buôn có lãi, an ổn trở về nên phải cúng dường thêm, các người cứ an tâm nghe pháp. 

 

Người nhà trả lời : 

 

Các Tỳ kheo họ ra đi ngay sau đó. 

 

           Các nhà buôn bất mãn không nói ra song để sự cúng dường được mãn nguyện, họ đi ngay đến một trú xứ Tỳ kheo gần đó mời các Tỳ kheo khác. Các Tỳ kheo ấy nói : 

 

           Các vị nên cúng dường cho các Tỳ kheo đã thỉnh trước đây, chúng tôi không được phép nhận phẩm vật cúng dường của các vị ấy. 

 

Nghe thế, sẵn lòng bất mãn, các nhà buôn nổi giận mắng : 

 

          -.  Bổn ý của chúng tôi cúng dường là để ở lại thôn an cư chứ dâu phải nhận rồi lại ra đi. Họ cùng với kẻ trộm đâu có khác gì ? 

 

          Bấy giờ, nơi biên giới có giặc, Vua Ba Tư Nặc sai At Sư Đạt Đa và Phú Lan Na cầm quân ra biên ải dẹp giặc. Hai vị cùng nhau bàn bạc : 

 

           Nay chúng ta lên đường hành quân sống chết không thể lường được, chúng ta nên đem phẩm vật cúng dường Tỳ kheo. Hai vị liền thực hiện việc này. 

 

Trước các Tỳ kheo hai vị thưa : 

 

          Nay chúng tôi đi dẹp giặc, sợ không về được, xin được cúng dường vật phẩm này, mong quí thầy nhận cho. 

 

          Trước sự cúng dường đột xuất này các Tỳ kheo rất phân vân vì sự việc trước đây đã dẫn đến Phật cấm :  “Trong lúc an cư không được nhận phẩm vật an cư”. Chẳng biết giải quyết sao các Tỳ kheo trình việc này lên Phật. 

 

          Xét việc cúng này còn cách ngày Tự tự là 10 ngày nên Ngài cho phép nhận phẩm vật an cư và cái móc này không thể vượt qua đối với một Tỳ kheo đang thọ tiền hay hậu an cư để nhận phẩm vật an cư.

 

 

*

*      *

VÌ SAO CÓ Y CA THI NA ?

 

          Lúc bấy giờ ngoài 3 y và y Ca Thi Na lại xả tức là Năm công đức hết hiệu lực, các Tỳ kheo lại được y phi thời. Tự thấy việc này là sai trái, xấu hổ bởi đức Phật chưa cho phép nhận y phi thời. Việc này được các trưởng lão bạch lên Phật, đức Phật cho tập hợp Tỳ kheo tăng trước là xác nhận sự việc và sau khi sự việc được các Tỳ kheo đương sự xác nhận sự thật, đức Phật bằng nhiều hình thức khen ngợi hạnh thiểu dục tri túc, khen giới, khen người tri giới tiếp đó Ngài chỉ giáo các Tỳ kheo :  “Từ nay cho phép nhận y phi thời”. 

 

          Sau đó Tỳ kheo Lục quần lợi dụng sự cho phép này lại mặc tính nhận y phi thời. Nhận thì nhiều mà đắp mặc thì ít, không cho ai cũng không làm pháp tịnh thí. Các Tỳ kheo thấy vậy hỏi : 

 

Các thầy không nghe đức Thế Tôn chế cấm không được chứa để y dư thừa hay sao ? 

 

Lục quần liền đáp lời : 

 

Tuy đức Phật chế cấm cất y dư nhưng Ngài cho phép nhận y phi thời. 

 

          Có phải lúc nào các thầy cũng cất giữ y phi thời lại không mặc đúng phép tắc, không cho người, không tịnh thí như thế hay sao ?  Các Tỳ kheo hỏi. 

 

Lục quần đáp ngay : 

 

Thưa các vị đúng như vậy ! 

 

          Ngoài việc quở trách, các Trưởng lão đưa sự việc lên đức Phật. Trước các Tỳ kheo đức Phật quở trách nghiêm khắc Lục quần như vầy : 

 

          Các ông là kẻ ngu si. Không nên ham hố cầu xin quá nhiều như thế. Đối với pháp của ngoại đạo, người nhận, nhận mấy cũng không chán, kẻ cho lại sợ lường  tính toán. Trong chánh pháp của ta thì lấy điều ít ham muốn, biết vừa đủ làm đầu, người cho tuy tích cực rộng rãi, nhưng kẻ nhận chỉ nhận ít mà thôi.

 

Quở trách rồi đức Phật lại kiết giới ngăn cấm. 

 

           Sau đó, có một trú xứ nọ, các Tỳ kheo nhận được nhiều y, ngoài việc nhận giữ, cho người, tịnh thí còn dư ra một đoạn vải. Không Tỳ kheo nào nhận lấy đoạn vải này, bởi vì đức Phật không cho phép nhận vải không đủ để may y. Tỳ kheo cho vải lại nói : 

 

           Cứ nhận đi, cần đủ vải thì sẽ có ngay. Một trường hợp khác, Tỳ kheo Trưởng lão Già Tỳ nhận được một đoạn vải vừa hẹp vừa ngắn, hằng ngày cứ kéo ra, hy vọng miếng vải dài rộng hơn trước … 

 

          Theo thường lệ, cứ Năm ngày, đức Phật đi xem xét các phòng, thấy Già Tỳ kéo vải, hỏi: Thầy làm gì vậy ? 

 

Già Tỳ thưa :  Con nhận được miếng vải nhỏ này, không nhận dùng vào đâu được ! 

 

Đức Phật hỏi : 

 

Thầy hy vọng nhận được vải chỗ nào nữa không ? 

 

Thưa có, Già Tỳ đáp. 

 

Đức Phật lại hỏi : 

 

Thời gian lâu, mau nữa sẽ nhận được vải này ? 

 

Thưa trong vòng một tháng. Già Tỳ đáp.  

 

Sau khi khen ngợi hạnh thiểu dục tri túc, Ngài bảo các Tỳ kheo : 

 

“Từ nay cho phép cất giữ vải phi thời, nếu không đủ, chờ cho đủ trong vòng một tháng”

           Việc này lại xảy ra trường hợp không cất giữ mà lại mang vải đi du hành quá một tháng, cho nên sau đó giới điều này được Phật chế bổ sung để được cụ thể hơn.

 

*

*      *

VÌ SAO CÓ Y CA THI NA ?

 

Chuyện này xảy ra lúc đức Phật lưu trú tại thành Xá Vệ. 

 

          Lục quần Tỳ kheo cứ chơi ngẳng, trước bữa ngọ sau bữa ngọ, buổi xế chiều … lại mặc một loại y khác nhau. Các Tỳ kheo thấy thế hỏi : 

 

Đức Thế Tôn không cho phép cất giữ y dư, các thầy không nghe hay sao ? 

 

Lục quần trả lời : 

 

          Chúng tôi có nghe chứ ! Nhưng những y này của chúng tôi là nhận được từ Tăng, hoặc từ cư sĩ hay từ các thứ vải vứt bỏ. Vì nhu cầu đắp mặc mà họ cho chúng tôi chứ không phải sai bảo chúng tôi cất giữ. 

 

          Lục quần biết rõ luận điệu kích bác của mình sẽ bị quở trách từ Tăng lên Phật. Nhưng trước Phật và các Tỳ kheo bao giờ cũng lễ phép và thành thật, Lục quần thưa : 

 

-.  Sự thật chúng con có nói như vậy, bạch đức Thế Tôn. 

 

Đức Phật lại la rầy : 

 

          Trước đây, các thầy không nghe ta khen ngợi hạnh thiểu dục tri túc, rằng :  Áo cắt rọc đủ để che thân, cơm ăn vừa đủ để nuôi sống thân hay sao ? Giống như các loài chim chỉ có đôi cánh, Tỳ kheo cũng như vậy, chỉ mang theo mình Ba y mà thôi. Tại sao nay các thầy lại cất nhiều y phi pháp như thế. 

 

          Nhân đó Phật chế giới, nội dung của giới này ngoài Ba y, nếu giữ thêm một y quá một đêm là phạm điều cấm. Do giới điều này mà Tỳ kheo A Na Luật Ba y đã cũ rách không dám xin Tăng sai người may cho cái khác bởi sợ trong một ngày không may xong y (tức chưa xả y cũ được như vậy y chưa may xong là y dư thuộc về A Na Luật). A Na Luật sợ phạm tội Ny Tát Kỳ Ba Dật Đề mà không dám xin may y. 

 

Điểm mắc kẹt của điều luật không dừng ở thế, chuyện tiếp sau cho thấy điểm kẹt thứ hai. 

 

          Bấy giờ các Tỳ kheo ở ấp Ba Lợi muốn đến thành Xá Vệ để hậu an cư nhưng đường xa sợ nhỡ đi không kịp nên hội ý nhau an cư tại ấp Ta Bệ Đà. Việc an cư ở đây hoàn tất, ngày 16 các Tỳ kheo cùng nhau về thăm hỏi Phật ở Xá Vệ. Vì mưa suốt nên đường đi lầy lội ướt sủng. Ba y đã thô nặng lại ướt nhèm nên trở thành gánh nặng. Các Tỳ kheo thật vất vả trên đường đi mà không lường được truớc. 

 

          Sau khi đến nơi kính lễ thăm hỏi đức Phật rồi các Tỳ kheo ngồi lui sang một bên. Phật lại thăm hỏi các Tỳ kheo. 

 

Các thầy an cư có vui hòa không ?  Khất thực có bị thiếu thốn không ? Trên đường đi có vất vả lắm không ? 

 

Các Tỳ kheo thưa : 

 

          Chúng con an cư được vui hòa. Khất thực không mấy khó khăn, thiếu thốn nhưng đi đường gặp mưa nên vất vả lắm, Ba y ướt sủng trở thành gánh nặng. 

 

          Đức Phật nghe sự vất vả này kết hợp với việc A Na Luật không dám xin may y được các Tỳ kheo bạch lên. Bởi thế, Ngài cho phép thọ y Ca Thi Na để khỏi phạm Năm việc : 

 

1.-  Ăn riêng chúng

 

2.-   Có thể ăn nhiều lần

 

3.-  Trước bữa ăn sau bữa ăn (trước ngọ sau ngọ) đi đến gia đình nào đó khỏi phải dặn Tỳ kheo khác

 

4.-   Cất giữ y dư

 

5.-   Ngủ riêng (rời y) không mất Ba y. 

 

Y Ca Thi Na chưa giải quyết hết chỗ kẹt như việc sau cho thấy : 

 

          Lúc bấy giờ, Tôn giả A Nan vì Ngài Xá Lợi Phất nhận giúp hai trương kíp bối do cư sĩ cúng. Vào lúc ấy Ngài Xá Lợi Phất lại đi vắng. Tôn giả A Nan rất áy náy vì sợ phạm vào điều giới trên nên bạch Phật. Đức Phật hỏi A Nan : 

 

Còn mấy ngày nữa Xá Lợi Phất mới trở về ? 

 

A Nan thưa : 

 

-  Khoảng 10 hôm nữa, thưa Ngài. 

 

Ngài kiết giới lại trong đó được phép cất giữ y dư đến Mười ngày.

 

 

 

Bà quả phụ vẫn một mực từ chối như trước đây. 

 

          Bị từ chối, người Bà la môn bèn dò la trong quần chúng và biết được trong số người thường lui tới nhà bà ta thì Ca-Lưu là người số một.  

 

          Người Bà-la-môn liền mời Ca-Lưu đến nhà để cúng-dường và sự cúng-dường này là thường xuyên. Khi đã trở thành chỗ thân thiết, hiểu nhau, người Bà-la-môn đem sự việc trình bày : 

 

          Thưa Đại-đức, tôi muốn cưới con gái của bà quả-phụ ấy cho con trai tôi, nhờ Đại-đức nói giúp lời để bà ta chấp nhận việc cầu hôn này. 

 

          Ngày ấy, Ca-Lưu y, bát trang nghiêm đến nhà bà quả-phụ. Bà quả-phụ liền ra đón tiếp bái chào. 

 

          Ca-Lưu, sau đó đi ngay vào việc nói :  

 

           -.  Ông Bà la môn ấy cầu-hôn, bà có thể gả con gái cho con trai ông ấy.  Gia đình ông ta rất giàu có, chắc chắn con gái bà có nhiều hạnh phúc. 

 

          Bà quả-phụ nhất quyết không nghe. Ca Lưu lại nói : 

 

          -  Nếu bà không gả, con gái bà khi bị lỡ thì, nó sẽ không nghe theo lời bà nữa đâu. Tại sao lại để mất đứa con gái lại mất luôn cả người rể tốt ! 

 

          Khi nghe lời thuyết phục hữu lý này, bà ta nghe theo Ca-Lưu, chấp thuận việc gả cưới. 

 

          Cuộc hôn-nhân giữa con cái hai nhà Bà-la-môn và bà-quả phụ, sau đó thành-tựu tốt đẹp. Nhưng sự thật hạnh-phúc không xảy ra. Sau khi về nhà chồng, người con gái hoa khôi ấy không chịu nổi sự cực-khổ, cô ta viết một lá thư gửi về mẹ nhờ mẹ can thiệp, nói với phía nhà chồng cầu xin chút thông thả.  Người mẹ nghĩ đến ông mai Ca-Lưu, nhờ ông đánh lời hộ cho việc này. 

 

          Ngày hôm sau, Ca-Lưu đến nhà người quả-phụ. Sau khi nghe bao điều cực-khổ về cảnh làm dâu của người con gái kia, từ cửa miệng người mẹ, Ca-Lưu còn nghe bà ta quy kết : 

 

          -.  Do Đại-đức mà có cuộc hôn-nhân này, Đại-đức vì tôi đến can thiệp nói giúp lời để con tôi bớt khổ. 

 

          Ca-Lưu trả lời : 

 

          -.  Con của bà vô phúc nên mới gặp cảnh khổ này, nếu nó có phúc thì cơ sự đâu đến nổi như vậy. Pháp Sa-môn, không cho phép tôi can dự việc thế sự, xin bà cảm phiền! 

 

          Bà quả-phụ liền mắng : 

 

          -.  Trước kia việc gì của người ta cũng xen vào, nay lại nói không biết, người ác như thế này thì cuối cùng cũng chẳng ra chi. 

 

          Bà ta đủ cách tru tréo, ngôn từ hết sức cay nghiệt mắng nhiếc Ca-Lưu. Người hàng xóm nghe đều đến khuyên can, họ bảo rằng: 

 

          -.  Con bà bạc phước nên phải chịu lắm cái khổ như vậy, chứ can chi đến Sa-môn này mà mắng nhiếc ông ta thậm tệ như vậy. 

 

          Bấy giờ, những người thiếu lòng tin đối với Phật-pháp thì buông lời mỉa mai rằng: 

 

          -.  Bà tin Sa-môn nên con bà chịu khổ, đáng đời!  Nếu ai còn tin lời họ thì cứ nhìn cái gương đó mà tin ! 

 

          Mọi người lại cay độc mắng : 

 

          -  Chúng ta là cư-sĩ, sự thường làm mai mối, Sa-môn Thích-tử lại cũng như vậy, thử hỏi, họ với ta có khác gì đâu, có khác chăng là cái đầu trọc với chiếc áo khoát màu chẳng giống ai mà thôi. 

 

          Tiếng xấu ấy đồn vang khắp gần xa, các Tỳ-kheo Trưởng-lão nghe được quở trách hết lời Ca-Lưu rồi trình sự việc lên đức Phật. Trước Tăng, đức Phật cho xác định lại vấn đề. Ca-Lưu thành khẩn nhận tội. Sau khi Phật quở trách Ca-Lưu là kẻ ngu-si, Ngài Kiết giới cấm Tỳ-kheo làm mai mối.

 

*       *

*

Những Tin Cùng Chủ Đề Đã Qua:
Tính Chất Giáo Dục Của Giới Luật Phật Giáo
Giới Học
Đôi Nét Về Giới Luật
Các Cấp Độ Giới Pháp
Giới Luật Công Truyền Hay Bí Truyền
Giới Học
Luận Đại Thừa Khởi Tín 1666 và 1667 (Thượng và Hạ) : Nguyên Hồng việt dịch
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT HOA KỲ
TỔ ĐÌNH TỪ ĐÀM HẢI NGOẠI
615 N Gilbert Rd Irving TX 75061 - 6240 ĐT:(972)986 - 1019
Bạn là người online số:
3902677
Có 0 Khách Đang Online