TIỂU SỬ SƯ BÀ
THÍCH NỮ DIÊN TRƯỜNG
Sư cụ thế danh là : Hồ Thị Nhàn,
Pháp danh : Thanh Linh,
Pháp tự : Diên Trường.
Thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông đời thứ 42
Sanh năm 1863, thuộc dòng họ Hồ Đắc, làng An Tuyền, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên. Là con gái thứ ba của cụ Hồ Đắc Tuấn, Tri phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Thân mẫu là cụ bà Công Tôn Nữ Huấn, là con thứ ba của Hoàng tử Tùng Thiện Vương.
Vốn được thọ sanh trong một gia đình vọng tộc, thuần cẩn, đạo đức.
Năm lên tám thì phụ thân qua đời. Ở với thân mẫu và phụ giúp gia đình để các anh có đủ thì giờ theo đòi nghiên bút.
Khi lớn lên, cụ vâng lời thân mẫu để lập gia đình. Cụ kết hôn với cụ Nguyễn Đôn Lý, người làng Thế Lại, huyện Hương Trà. Sanh hạ được một trai, một gái. Người con trai được năm tuổi thì mất; đồng thời, hai năm sau kế tiếp cụ Nguyễn Đăng Lý cũng mệnh chung.
Cụ nhận thấy cuộc đời là huyễn hóa, giả tạm. Cụ tự thấy cái thân tứ đại nầy rồi cũng theo vô thường và từ từ tan nát, mục rửa. Sau những ngày tụng kinh bái sám để cầu nguyện cho chồng, nhưng cũng chính là cụ tự cầu nguyện và sám hối cho chính bản thân của cụ. Trong những lần tụng kinh, bái sám như thế, cụ tự tìm hiểu được một vài phần nhỏ trong kinh đức Phật đã từng dạy. Từ đó, cụ liền hướng về đạo giải thoát ngày một dõng mãnh, ngày một tinh tấn hơn.
Năm Mậu Tuất (1898), được 36 tuổi, xuất gia đầu Phật với Hòa thượng Lương Duyên ở chùa Từ Hiếu. Kể từ khi phát tâm xuất gia, cụ luôn luôn tụng kinh, bái sám rất tinh cần. Hòa thượng bổn sư nhận thấy cụ thật sự xả bỏ duyên trần ràng buộc để dõng mãnh trở về đạo giải thoát.
Năm Canh Tuất (1907), cụ được thọ Tỳ kheo ni giới ở giới đàn Vĩnh Gia, chùa Phước Lâm, tỉnh Quảng Nam. Trong năm nầy, hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín đang bị mất mùa nặng nề, dân chúng đang lâm vào cảnh lầm than đói khổ, chính phủ cũng phải miễn thuế cho dân chúng. Anh của cụ là Đại thần Hồ Đắc Trung đương nhiệm Tổng đốc ở đây. Chính cụ vận động trực tiếp với anh để hỗ trợ cho Đại giới đàn được thành tựu viên mãn. Cụ Hồ Đắc Trung tận tình giúp đỡ rất đắc lực.
Sau khi đắc giới, cụ được bổn sư cho về trông nom chùa Phổ Quang gần dốc Bến Ngự và mở trường đào tạo Ni giới.
Vì sự phát triển của ngành hỏa xa, chùa chiền bị chiếm đất một phần, cọng với sự sinh hoạt của quần chúng ngày một ồn ào, huyên náo, thấy không mấy thuận tiện cho việc tu tập và sự tu tập của chúng lý. Cụ liền vào ngọn đồi Dương Xuân Thượng, thôn Thuận Hòa cất cốc tu hành. Thảo am ấy chính là tiền thân của Tổ đình Trúc Lâm Đại Thánh sau nầy.
Thảo am cất chưa bao lâu, cụ liền thỉnh Hòa thượng Giác Tiên làm tổ khai sơn và chỉ xin một phòng nhỏ của liêu sau để tịnh tu giới luật ; bên cạnh đó, cụ còn vận động đắc lực phần ngoại hộ cho tổ Giác Tiên.
Tương truyền rằng : Khi có thảo am rồi, cụ liền mời một thầy địa lý khá nổi tiếng để xem hướng cho chùa, thầy địa lý bảo:
- Xây chùa về hướng nầy thế nào cũng được giàu sang, phú quý, của cải sung túc, dư dật.
Cụ vui vẻ trả lời rằng :
- Thầy xem hộ cho tôi, hướng nào mà “Thế Thế Cao Tăng”, thì đó mới là đúng tâm nguyện của tôi và Tổ khai sơn. Còn, vấn đề giàu sang, của cải dư dật, thì đó chỉ là phương tiện để trong phần phụ.
Thầy địa lý nghe xong rất khâm phục tâm đạo của cụ và liền xoay lại hướng chùa. Đó là hướng chính của Tổ đình Trúc Lâm Thiền phái bây giờ vậy.
Qua câu chuyện nói ấy, chúng ta cũng thừa hiểu được một phần nào tâm niệm vì đạo của Cụ. Một thời gian vài năm kế đó còn có thêm quý sư bà Chơn Hương, Diệu Hương và Giác Hoa cũng đến cùng chung học với cụ. Ni cô Diệu Hương mà sau nầy là sư bà tọa chủ Ni viện Diệu Đức.
Vào mùa Phật Đản mồng Tám tháng Tư năm Ất Sửu (1925), Cụ cung thỉnh Hòa thượng Tâm Tịnh và Hòa thượng Thanh Tú đến để chứng minh cho cụ khai kinh Pháp Hoa. Đúng ngày Rằm tháng ấy (tức sau một tuần), cụ hoàn kinh, đảnh lễ bái tạ chư tôn Hòa thượng và Tăng chúng Trúc Lâm. Mọi chuyện đâu đó xong xuôi, cụ vui vẻ và niệm Phật để an nhiên từ từ đi vào cõi tịnh. Thọ thế 64 tuổi.
Trong Việt Nam Phật Giáo Sử Lược của Giáo sư Nguyễn Lang, trang 134 quyển ba có đoạn ghi như sau:
-… Cụ là vị nữ lưu cũng như Tỳ kheo Ni đầu tiên làm tiên phong cho Ni giới ở Trung kỳ. Ni sư Diên Trường, người đã có công khai sáng chùa Trúc Lâm, nơi khởi điểm cho phong trào chấn hưng Phật học.
Giáo hội đã tặng cụ hai câu đối như sau :
*.- Quả mãn công viên tịnh vứt thê thần siêu hậu hữu,
*.- Tín thâm chí cố linh sơn đắc ký tín tiền sanh.
Ni chúng cũng tặng câu :
*.- Tuân bát kỉnh vi xướng đạo nữ sư đương thời liên xã cao tiêu, tín hạnh nguyện chúng sở tri thức,
*.- Xứng tam thừa hoặc thị hiện ni tướng kim nhật từ hàng tảo giác, văn tư tu thùy vị đề huề.
Thiền sư Viên Thành, tọa chủ chùa Tra Am có làm bài kệ tán dương công hạnh của sư cụ như sau :
Thiện tai nữ đạo sư,
Giải thoát nhân trung kiệt,
Thịnh niên xả thế vinh,
Phỏng đạo ngộ thiền duyệt,
Bát kính thị căn trì,
Trường trai thủ tố tiết,
Uẩn giới phù vân không,
Phiền não hải thủy kiệt,
Giác mộng cảnh từ chung,
Độ mê tháo bảo phiệt,
Công đức mãn chiên lâm,
Thanh lương đẳng tuệ nguyệt,
An ổn tọa bồ đoàn,
Liễu chứng vô sanh quyết,
Sơn sắc thanh tịnh thân,
Khê thanh quảng trường thiệt,
Tích lai bản bất sanh,
Kim khứ hà tằng diệt,
Siêu nhiên bỉ ngạn đăng,
Liên đài diệu hương khiết.
Dịch :
Lành thay nữ đạo sư,
Bậc giải thoát hào kiệt,
Bỏ vinh hoa cuộc đời,
Tìm vui nơi thiền duyệt,
Pháp bát kỉnh hành trì,
Nếp trường trai tinh khiết,
Uẩn, giới như mây bay,
Biển não phiền khô kiệt,
Chuông khuya thức tỉnh đời,
Bè từ độ oan kết,
Công đức như rừng trầm,
Mát như vầng tuệ nguyệt,
An nhiên bồ đoàn ngồi,
Chứng quả vô sanh diệt,
Lời kia là suối reo,
Thân kia là núi biếc,
Xưa chưa hề có sanh,
Nay cũng không từng diệt,
Bờ bên kia bước lên,
Đài sen hương diệu khiết.
(Giáo sư Nguyễn Lang dịch)
Tháp của sư cụ được xây về hướng Đông Bắc của Trúc Lâm. Di ảnh và long vị của sư cụ được phụng thờ gian bên hữu nơi hậu tổ.